← Quay lại trang sách

Chương 6 (tt)

Điều tốt đẹp cuối cùng bà Thành làm được cho chồng con, chính là đêm trước khi rời nhà bà Năm Rảnh, linh cảm chuyến đi nhiều nguy hiểm, bà đã cẩn thận gởi lại cho bà già một hộp sắt đậy kín có dán băng keo niêm phong, dặn nếu bà ra đi trót lọt và gởi thư về thì hãy mở ra, còn không đi được bà sẽ về lấy lại. Người đàn bà nông thôn chơn chất ấy làm đúng y như lời dặn, giao trả chiếc hộp bên trong có mười lượng vàng cho cha con ông Thành - cùng với chiếc bọc đựng đầy thư từ của Sơn mà lúc trước Vân đã gởi lại. Số của cải hết sức lớn vào lúc ấy giúp ông Thành về Cần Thơ mua được một căn nhà nhỏ mở tiệm bán cà phê, với cô con gái xinh đẹp đứng sau quầy lôi kéo không ít chàng trai đến ngồi đồng.

Tạm ổn định chuyện ăn ở, Vân xin phép ba cho về Sài Gòn đi tìm Sơn. Xuống bến xe miền Tây, nàng kêu xe ôm chở về nhà Sơn. Trên đường đi xe chạy qua nhà Hữu, Vân sực nhớ kêu dừng lại vào hỏi và được chủ nhà mới cho biết chủ nhà cũ đã bỏ đi từ trước ngày 30-4-1975. Hữu đã đi, nên không thể hồi âm cho Vân. Vậy Sơn chắc cũng vậy thôi. Chiếc xe rẽ vào hẻm nhà Sơn, Vân hồi hộp đến nghẹn thở khi thấy tiệm tạp hóa không còn và căn nhà đã được sửa sang, thay đổi màu sơn. Lòng nặng trĩu, nàng nhấn chuông. Người chủ nhà hé cửa lạ lẫm nhìn Vân, giọng miền Trung nặng trịch:

- Cô tìm ai?

- Dạ thưa… Ông là chủ nhà này?

- Đúng rồi! Cô muốn hỏi gì?

- Thưa ông… Tôi muốn hỏi thăm người chủ nhà trước đây… Ông có biết họ dọn đi đâu rồi không?

Người chủ mới lạnh lùng:

- Chủ nhà cũ vượt biên rồi, làm sao tôi biết được ở đâu mà chỉ cho cô?

Cánh cửa lạnh lùng khép lại ngay tức thì. Vân thấy mặt mày xây xẩm, phải đứng tựa vào bờ tường một lúc lâu mới định thần được. Vậy là Sơn đã đi rồi! Chắc trước khi đi anh có đến nhà Vân và thế nào cũng nghĩ Vân đã đi trót lọt. Giờ anh ở đâu? Có may mắn đi thoát hay… Nếu anh đã sang được xứ người thì chắc đang mỏi mắt tìm Vân?

Vân lảo đảo ra về, không thể ngờ căn nhà của Sơn đã đổi chủ lần nữa. Người mua nhà của ba mẹ Sơn - một người bà con có tiền ở tỉnh chạy loạn về - cuối năm 1976 lại bỏ chạy tiếp bằng đường biển. Căn nhà bị chính quyền tịch thu và cấp cho một cán bộ phường. Đinh ninh Sơn cũng đi rồi như Hữu nên mới không hồi âm thư mình, chỉ một câu nói của ông chủ mới đã khiến Vân tuyệt vọng ra về, không hề nghĩ đến chuyện ra ủy ban phường hỏi thăm… Trong một cố gắng cuối cùng, Vân kêu ông xe ôm chở về nhà cũ của mình. Đơn vị bộ đội đã dọn đi, nhường chỗ cho một công ty quốc doanh bề thế, chỉ đứng ngoài cửa nhìn vào là Vân biết không hi vọng gì có ai sẽ giữ lại những lá thư gởi về người chủ nhà cũ sau hơn hai năm, nếu như có gởi. Nhưng Vân vẫn đánh liều bước vào, tự xưng tên, lúc trước từng ở đây, hỏi thăm có ai gởi thư về cho mình hay không. Câu trả lời đúng như nàng nghĩ. Nàng thở dài, kêu ông xe ôm quay lại bến xe để về ngay Cần Thơ. Lúc đã ngồi trên xe, nàng mới để mặc nước mắt tuôn rơi.

Tâm an ủi Vân nhưng trong lòng thì khấp khởi hi vọng:

- Có lẽ anh Sơn đã sang được bên đó và đang đi tìm Vân. Vấn đề hiện giờ là không ai biết ai đang ở đâu…

Rồi bỗng dưng Tâm hạ giọng, nói đúng điều Vân đang mong:

- Mình sẽ tìm cách đi nữa, Vân chịu không? Ba má anh đang định kiếm cách đi nữa, lần này phải cho thật chắc ăn. Anh sẽ xin cho Vân và ba cùng đi luôn. Qua đó chắc Vân sẽ dễ tìm anh Sơn hơn.

Vân nhìn Tâm, thấy anh thật sự quá dễ thương:

- Sao anh tốt với Vân quá vậy?

Tâm cũng thẳng thắn nhìn lại Vân:

- Anh yêu Vân thiệt mà. Anh sẵn sàng làm tất cả cho Vân được vui.

Vân thở dài, đặt tay lên tay Tâm:

- Vân mang ơn anh nhiều quá…

Cuối năm 1978, lúc đang xẩy ra vụ “nạn kiều người Hoa”, họ lại vượt biên. Chuyến đi lần này khá an toàn, được gia đình Tâm gọi là đi bán chính thức, một hình thức tham nhũng của công an ở các địa phương ven biển để làm ngơ cho người Việt gốc Hoa ra đi, bán bãi cho người vượt biên vào ngày giờ nhất định theo thỏa thuận. Nhiều người Việt trà trộn vào đó vẫn được cho đi, chỉ cần đóng khoảng ba lượng vàng một người là xong. Lần này ông bà Kim Sang đưa gia đình và cả ông Thành ra tận vùng biển Lộc An của Đồng Nai, tỉnh rất mạnh tay bán bãi[40]. Giữa đêm, sau khi kiểm tra đầu người và nộp tiền đầy đủ, tàu của họ yên tâm nổ máy ra khơi. Tuy nhiên mọi người vẫn được dặn phải ở yên dưới hầm tàu cho đến khi ra hải phận quốc tế. Tài công còn phải dùng vải bố bịt ống pô máy tàu cho đỡ ồn. Con tàu lầm lũi tiến thẳng trong đêm trong nỗi lo âu căng thẳng của mọi người vì sợ bị “phản phé” giờ chót.

Dù tài sản không còn nhiều, ông Sang vẫn chuẩn bị cho chuyến đi này khá kỹ. Tàu là một chiếc đánh cá dài 14 mét còn khá chắc, cũng máy Yanmar ba lốc đầu bạc, chở tổng cộng bốn mươi ba người, với hoa tiêu và tài công đều là dân có nghề, được ông cho đi miễn phí. Hành lý trên tàu ngoài đồ đạc cá nhân mỗi người được đem gọn nhẹ một túi xách, ông Sang còn chuẩn bị đủ dầu máy, lương khô, nước uống… cho cả tàu trong mười ngày, dù theo hoa tiêu Tính, một người từng tốt nghiệp trường hàng hải thương thuyền của Sài Gòn, đi từ đây đến Mã Lai chỉ mất khoảng năm ngày. Họ chọn hướng đến là Mã Lai vì qua Phi hay Inđô đều phải vượt đại dương quá xa. Ngày mua bãi đã được hợp đồng trước cả tháng, không thể thay đổi, nên sát đến ngày đi dù dự báo thời tiết cho biết ngoài khơi Vũng Tàu sẽ có áp thấp nhiệt đới, biển động mạnh, ông Sang vẫn phải quyết định cho tàu ra khơi.

Trời mờ sáng, tàu đã ra xa bờ. Vân theo ông Thành và vài người khác lên boong, dõi mắt về hướng tây, cố ghi lại lần chót hình ảnh quê hương yêu dấu, lòng bỗng chùng xuống buồn tha thiết. Nơi đó chính là Tổ quốc, vậy mà họ không thể ở được, phải ra đi dù chẳng biết sẽ trôi dạt về đâu, thậm chí chẳng biết có sống được qua chuyến đi này hay không. Nhiều người trong số họ chấp nhận liều mạng đơn giản chỉ vì mong được đổi đời, có một cuộc sống khá hơn trên vùng đất hứa. Nhưng cũng có những người ra đi vì lý do khác. Họ có thể chấp nhận đói khổ, nhưng phải được đối xử công bằng. Họ có thể vất vả cả đời, nhưng ít nhất họ phải còn niềm tin rằng con cái mình sẽ có cơ hội để được vươn lên bằng con người khác… Không có những điều đó, thì có chết họ cũng ra đi.

Nước mắt rưng rưng, Vân cứ đứng nhìn mãi về phía trước. Sơn vẫn còn ở trước mặt Vân hay đang đâu đó sau lưng nàng? Rặng núi trước mắt khuất dần theo những đợt sóng nhấp nhô, rồi mất hẳn sau bức màn lệ của Vân. Phải chăng lần này ra đi là vĩnh biệt?

Tới hải phận quốc tế lúc trời đã sáng rỡ, mọi người thở phào nhẹ nhõm. Tất cả cùng lên boong tàu hít thở không khí trong lành của biển cả sau một đêm chui rúc dưới khoang chật chội và hôi hám. Ông Tính kêu tàu đứng lại rồi tự tin nói với ông Sang và người tài công:

- Thời tiết tốt như vầy mà dám dự báo sẽ có áp thấp nhiệt đới, đúng là mấy thằng khí tượng Việt Nam toàn tụi nói dóc. Trời đẹp thế này, từ đây mình lấy 23 độ tây nam rồi cứ thế mà đi, độ năm ngày là tới Mã Lai. Biển mình sâu chừng 60 fathom[41], biển Mã cạn hơn, chưa tới 30. Cứ khoảng bốn, năm ngày nữa mình đo, sẽ biết sắp tới hay chưa.

Như để chứng minh lời nói của mình, ông Tính lấy một cuộn dây dò nông sâu một đầu có gắn cục sắt, thả xuống biển. Sợi dây tuôn xuống rồi dừng lại gần mức đánh dấu 110 mét. Ông Tính cuộn dây lên, cười:

- Thấy chưa? Rồi, 23 độ tây nam, lên đường!

Nụ cười ấy không giữ được lâu. Thời tiết tốt chỉ được đúng từ sáng đến chiều, sau đó là mây đen từ đâu ùn ùn kéo tới, gió càng lúc càng thổi mạnh, biển rùng rùng nhồi sóng. Đến nửa đêm, trời bắt đầu đổ mưa ào ào, biển động mạnh. Đám thanh niên nằm trên mui chui hết xuống hầm tàu. Ai nấy đều lo âu đến nín thở. Một hầm tàu độ tám mét vuông, chứa hơn bốn chục con người, mà không có lấy một tiếng động. Có chăng chỉ là tiếng sóng gió gào thét bên ngoài, tiếng cọt kẹt của những miếng ván tàu nghe như sắp vỡ đến nơi. Không ai ngủ được. Tiếng đọc kinh rì rầm bắt đầu vang lên. Vân nằm bên ông Thành, hai mắt mở thật to như để nhìn tận tường số phận sắp tới của mình. Trước mắt nàng chỉ là một trần hầm tối đen!

Biển động mạnh hơn. Con tàu bị xô lắc mạnh, làm nhiều người say sóng, ói ra mật xanh. Thùng dầu máy chứa cả trăm lít ngã xuống, đè bể luôn hai can nhớt dự phòng. Rồi hai cái bếp dầu hôi và ba cái nồi lớn để sau lái bị sóng cuốn phăng xuống biển, bao mì sợi được chụp lại kịp nhưng thấm nước biển ướt nhẹp. Tình trạng càng tồi tệ hơn khi chiếc bơm nước lườn bị hỏng, đám thanh niên phải thay nhau tát nước ra khỏi tàu. Mấy đứa trẻ con bắt đầu kêu khóc inh ỏi. Những âm thanh hỗn tạp đó càng làm tăng thêm nỗi sợ hãi cho mọi người.

Cũng may khi mặt trời ló dạng thì sóng gió lặng dần, biển trở lại yên tĩnh. Mọi người bơ phờ, mệt mỏi nhưng ai cũng mừng rỡ vì vừa thoát cơn nguy hiểm. Bỗng có tiếng cãi cọ ở sau lái. Ông tài công nói oang oang:

- Ông là hoa tiêu, là sĩ quan hàng hải, mà giờ này ông không biết ghe hiện đang nằm đâu và phải đi về hướng nào, thì ông nội tôi cũng không lái được!

Tiếng ông Tính cự lại:

- Hồi tối, mới giông một chút mà chú đã cột tay lái, thả ghe trôi, bây giờ làm sao tôi biết ghe đang nằm đâu? Ghe trôi một đêm giữa bão rồi chớ ít ỏi gì sao?

Ông Kim Sang bực bội lớn tiếng:

- Tui lạy hai ông! Giờ này mà còn ở đó cãi cọ nữa!

Rồi trong hầm tàu, bà Kim Sang hoảng hốt kêu lên:

- Bể mẹ nó mấy can nước rồi!

Sóng gió va dập đã làm vỡ hết mấy can nước bằng nhựa tái sinh. Số can còn lại lập tức được ông Kim Sang gom lại, ràng dây cẩn thận, không rời mắt canh chừng. Ông Tính quyết định cứ theo hướng cũ, nhưng con tàu trôi tự do suốt đêm mất phương hướng ban đầu rồi thì biết có về được bến mong đợi hay không? Nước ngọt đem theo, ngày đầu uống thỏa tình phỉ chí, súc miệng rửa mặt cũng được, nhưng trước tình hình hiện giờ bắt buộc phải dè xẻn rồi. Ông Kim Sang quyết định mỗi đầu người chỉ được cấp một ngày nửa lít. Biển ngập nắng. Ai nấy khô rốc người, nằm vật vờ không dám cử động sợ tiêu hao năng lượng, mất nước. Một ngày, hai ngày, rồi ba ngày trôi qua, con tàu vẫn lênh đênh như một chiếc lá trên đại dương mênh mông, chưa bao giờ Vân lại thấy con người nhỏ bé giữa thiên nhiên đến như vậy.

Buổi trưa ngày thứ tư, lúc ông Kim Sang vừa thông báo rút tiêu chuẩn nước hàng ngày xuống còn một phần tư lít trong nỗi thất vọng của mọi người, ông tài công chợt mừng rỡ kêu lên:

- Có tàu! Có tàu!

Xa xa quả đang xuất hiện bóng dáng một con tàu! Ông Tính mừng rỡ bắn hỏa pháo báo nguy. Tàu đến gần hơn, hóa ra cũng chỉ là một chiếc loại đánh cá, sơn vằn vện rực rỡ. Mọi người đang vẫy tay khấn nài họ đến cứu, bỗng hốt hoảng nhìn nhau. Vài tiếng kêu tuyệt vọng cất lên: “Cướp biển!” Từ xa đã thấy mấy gã đàn ông lực lưỡng, tóc xoăn, mắt trắng dã, mặt vẽ chằng chịt, ở trần trùng trục, da đen như cột nhà cháy, lăm lăm súng ống dao búa trên tay. Ông Kim Sang thét lớn:

- Chạy mau!

Ông tài công xả hết ga. Những người dưới hầm tàu nhốn nháo la khóc sau khi nghe báo động có tàu cướp biển. Nhiều âm thanh hỗn loạn phát ra từ dưới khoang. Chiếc ghe chuyển mình kêu lên răng rắc. Hoa tiêu Tính hét:

- Ở đâu nằm yên đó! Lộn xộn chìm ghe bây giờ!

Chiếc ghe rằn ri phía sau vẫn lao nhanh về phía ghe của những người vượt biên, khoảng cách càng lúc càng ngắn lại. Mấy tiếng súng vang lên chát chúa làm mọi người thêm điếng hồn. Ông tài công mím môi nắm chặt tay lái, xả hết tốc lực, nhưng chiếc ghe chở quá đông người làm sao đọ lại chiếc ghe nhà nghề gắn máy cực mạnh? Bên đây, mọi người thấy rất rõ đám cướp biển bên kia đang quấn chắc lại sà rông, lâm râm van vái, có tên còn lần tràng hạt, như chuẩn bị cho màn tàn sát sắp tới.

Đám người vượt biên đau đớn nhìn nhau, một số bật khóc. Ông Thành nắm tay con, thở dài:

- Đúng là số kiếp!

Chiếc ghe của bọn cướp biển đã tới sát một bên. Nó không tấp vô ngay mà còn thong thả lượn một vòng chung quanh như để quan sát con mồi, rồi bất thình lình rướn lên đâm sầm vô ngang hông ghe ông Kim Sang làm nó bị vỡ mất một mảng lớn. Đám cướp biển vừa la hét vừa nổ súng quơ mã tấu ào ào nhảy qua. Để khủng bố tinh thần nạn nhân, chúng chém người tài công chết ngay tại chỗ, vì cái tội không chịu dừng ghe.

Bọn cướp lùa nhóm đàn ông trai tráng vào một góc thuyền, phụ nữ người già trẻ em vào góc khác, bắt tất cả đứng yên, rồi bắt đầu rạch bung các túi hành lý, lôi hết đồ đạc bên trong ra lục lọi, chọn những thứ có giá trị bỏ vào những túi lớn chúng mang theo. Sau đó chúng quay qua trấn lột nhóm đàn ông trước, bắt từng người ra khỏi hàng cởi hết đồng hồ dây chuyền quần áo bên ngoài để chúng lục soát, lấy sạch từng đồng đôla trong ví, sờ nắn thậm chí tuột cả quần đùi ra coi, ai chậm chạp bị đánh đập thẳng tay. Khi ông Thành bị thúc ra khỏi hàng, từ xa Vân sợ hãi nhìn thấy nét mặt ba bỗng tái mét với đôi mắt đầy vẻ toan tính rất kỳ lạ. Thấy vẻ lừ đừ của ông Thành, một tên cướp dùng nòng súng ấn vào lưng ông đẩy về phía trước. Ông Thành đột ngột quay phắt người lại và chụp lấy cây súng của hắn, giật mạnh. Bị bất ngờ, tên cướp sững sờ nhìn họng súng đang quay ngược lại chĩa vào mình. Nhưng phập một cái, một nhát dao từ tên cướp khác đứng sau lưng ông Thành đã vung lên xả mạnh xuống cổ ông. Vân điếng người nhìn ba gục xuống và bị bồi thêm một nhát dao nữa vào đỉnh đầu. Vân thét lên gọi “Ba ơi!” rồi thấy trời đất quay cuồng, tối sầm lại trước mắt, ngất xỉu.

Bọn cướp quay sang nhóm phụ nữ, bắt đầu xé quần xé áo họ, lột cả nịt ngực quần lót ra xem. Vân đã mê man vẫn bị chúng lột hết quần áo để lục soát. Chúng thô bạo tuột nhẫn, dứt dây chuyền, bứt bông tai của các bà các cô, giờ đây chỉ còn biết đứng thu người cố che những chỗ kín trước ánh mắt đỏ ngầu của bầy thú dữ. Sau cái chết khủng khiếp của ông Thành, không còn ai dám chống cự nữa, dù tin chắc mình sẽ bị hãm hiếp và cả tàu có lẽ cuối cùng sẽ bị giết sạch.

Bỗng bọn cướp biển xí xô chỉ về một phía. Một chiếc tàu lớn đang rẽ sóng tiến đến. Chúng tiếc nuối ôm những bọc chiến lợi phẩm nhảy về ghe và nhấn ga chạy đi, loáng một cái đã mất hút. Chiếc tàu lớn lướt qua, là một chiếc thương thuyền, trên boong thấy thấp thoáng vài bóng người. Bà Kim Sang và những người khác đã mặc lại quần áo, quỳ xuống van lạy cầu xin chiếc tàu dừng lại để cứu họ, nhưng nó vẫn lạnh lùng lướt đi, để lại sau lưng nhiều lọn sóng cao, xô chiếc ghe con muốn lật nhào. Tiếng khóc, tiếng kêu gào òa lên nức nở…

Bốn, năm, rồi sáu, bảy ngày… Con tàu vá lại vẫn chạy được, nhưng cứ lùng nhùng giữa biển. Khi Vân tỉnh lại thì xác của ông Thành và người tài công đã bị ném xuống biển, nàng lại chết đi sống lại mấy lần, nếu không được Tâm ngồi kề bên chăm sóc hết lòng có lẽ đã chết theo cha. Ông Tính phải đứng cầm lái, nhìn la bàn rồi nhìn sao trời để chỉnh hướng lại, nhưng vẫn không thấy đất liền ở đâu. Tới ngày thứ mười thì dầu máy bắt đầu cạn, trên tàu không còn một hột gạo, giọt nước. Ông Tính nói chỉ cần năm ngày là tới Mã Lai, vậy mà nay đã mười ngày vẫn chỉ thấy trời nước mênh mông. Thân thể ai nấy nhẹ tênh, vài người đã hâm hấp sốt, mê sảng. Ngày thứ mười một, có mấy người liều mạng vốc nước biển uống, dù mặn đắng. Họ chính là những người chết đầu tiên, tiếp theo là những người già, em bé. Vài người khác đã phải uống nước tiểu của mình, nhưng rồi nó chỉ còn nhỉ ra từng giọt, không đủ ướt môi, đừng nói xuống được tới cổ họng. Ngay cả một giọt nước mắt để khóc người thân vừa nhắm mắt xuôi tay cũng không thể ứa ra!

Khi một chiếc tàu hàng Mã Lai trên đường về bến ghé lại cứu họ thì trên chiếc ghe tả tơi trôi bập bềnh giữa biển như một con tàu ma chỉ còn mười mấy người sống ngắc ngoải…

Pulau Bidong vốn là một hoang đảo giữa đại dương thuộc lãnh hải Mã Lai, rộng vài cây số vuông, lởm chởm núi đá, từ sau tháng Tư năm 1975 đã được HCR[42] của Liên hợp quốc dùng làm một trong những nơi đặt trại tị nạn tạm thời cho thuyền nhân Đông Dương bỏ đất nước ra đi[43], chờ làm thủ tục xin định cư ở các nước. Lúc chiếc tàu của cảnh sát Mã Lai đưa những người còn sống sót trên ghe ông Kim Sang từ trạm xá trên trại tạm trú Marang ở đất liền đến cặp vào cầu tàu Jetty của Bidong, đã có cả nghìn người đến trước đang sống ở ba khu tại đây. Thời gian tạm trú trên đảo thường trên dưới một năm, dài đăng đẵng! Nhiều thuyền nhân Việt đã gọi đây là đảo Buồn Lâu Bi Đát, dù phong cảnh ở Bidong thật thơ mộng, với cát vàng biển xanh, những hàng dừa cao vút, rất giống mấy bãi biển ở Việt Nam với các hàng quán đều do người Việt làm chủ, sinh hoạt buôn bán thật sầm uất. Bên phải, từ cửa đảo đi lên, có một khu gọi là đồi tín ngưỡng, trên đó có chùa, nhà thờ công giáo, nhà thờ tin lành, xây dựng bằng những thanh gỗ lấy từ các tàu vượt biên và từ những cây thông trên đảo. Trên đảo còn có cả trường dạy sinh ngữ và dạy nghề cho thuyền nhân. Có thể nói mọi người ở đảo được HCR lo cho đời sống từ nơi ăn chốn ở đến việc học hành khá chu đáo…

Hai chị của Tâm đều đã chết trên biển nên giờ đây gia đình ông Kim Sang chỉ còn lại năm người, với ông bà Sang, Tâm, Vân và Ngân, cô em út. Họ được phát cho những tấm bảng có ký hiệu MB kèm số thứ tự của lượt tàu đến đảo rồi đưa về một túp lều ở khu C sát biển, để ở tạm. Chỗ ở của họ thật ồn ào, phức tạp, vì sát bên một khu chợ trời, buôn bán đủ thứ hàng hóa thượng vàng hạ cám, từ trứng tươi, hoa quả, đồ hộp, đến máy may, hột xoàn, từ những chiếc máy tàu cải chế thành máy phát điện cho đến lít rượu đế nấu từ những hột gạo cứu trợ, từ cây thuốc lá Stuf của Mã Lai cho đến hộp xì gà Havatampa… Muốn gì cũng có!

Quán cà phê, phở, mì, quán nhậu, phòng trà, tiệm may, tiệm vàng bạc nữ trang, dịch vụ đổi tiền, buôn lậu, nhà thổ, đầu cơ nhà cửa… có mặt đầy đủ. Những nhà đắt tiền ở phía trong, gần khu hành chánh, nơi phát lương thực… Một cái nhà tốt, 2m x 3m, ở trung tâm, trị giá khoảng 2.000 ringgit[44]. Những nơi khác thì rẻ hơn, 200 - 300 ringgit. Tuy chính quyền Mã cấm buôn bán nhà cửa, nhiều người đến trước - Vân để ý thấy họ mang những tấm bảng ký hiệu MA - trong khi chờ đi định cư vẫn tìm cách xây những căn nhà nhỏ hay những cái chòi ở bất cứ chỗ nào có thể xây được, để bán cho những người tới sau. Thời buổi nào và ở bất cứ đâu cũng có những người biết cách làm giàu!

Không hiểu bằng cách nào mà ông bà Kim Sang vẫn còn giấu lại trên tàu được vài cây vàng. Họ đổi ra tiền và mua được một căn nhà nhỏ ở khu trung tâm, tiện nghi và an toàn hơn. Chỉ sau một thời gian ngắn, bà Sang đã ra chợ sang sạp ngồi buôn tạp hóa. Cuộc sống đầy tạm bợ có vẻ ổn định hơn với đồng ra đồng vào hàng ngày, chứ nếu chỉ có ra tiền thì không phải cách mà ông bà Kim Sang có thể sống được. Điều lo âu lớn nhất của họ là cô con út và con dâu, có vẻ không chịu đựng nổi cú sốc quá lớn từ chuyến đi. Út Ngân cứ lang thang ngoài cầu tàu mong ngóng hai chị của nó, gặp ai cũng hỏi chị Hai chị Ba đâu. Còn Vân thì suốt ngày ngồi im một chỗ như người câm, đôi mắt cứ trừng trừng nhìn người đối diện như muốn lục vấn từ họ những câu trả lời về sự cay nghiệt của định mệnh.

Hình như không ở nơi đâu có nhiều người điên bằng ở trại tị nạn.

Đầu tiên là bà Năm Nước Ngọt. Tuy nước ngọt trên đảo được cấp theo giờ, có vòi đưa đến từng khu để từng nhà hứng về xài, nhưng đảm bảo đủ dùng. Có thể nói không một căn nhà nào trong trại chứa nước ngọt nhiều bằng nhà bà. Từ trong ra ngoài, từ trên gác xuống nhà bếp, không có chỗ nào là không có nước ngọt. Nước đựng trong những thùng nhựa hai chục lít. Nước đựng trong bình bốn lít. Nước đựng cả trong những lon dầu ăn mà ban lương thực vứt ra. Nước đựng trong những lon bia, trong những hũ cà phê, trong những cái ly cái chén… “Công việc” hàng ngày của bà Năm là kiểm tra xem lu hũ trong nhà chỗ nào bị hụt nước là lập tức xách bình đi xin nước về châm đầy ngay. Đám con nít muốn chọc bà chỉ việc lén vào chụp lấy một ly nước uống ừng ực là sẽ bị bà rượt theo tận nhà chưởi cho tắt bếp. Thì ra bà đến trại này ba tháng trước, trên một chiếc ghe đi từ Trà Vinh chở tám mươi mốt người, đến nơi chỉ còn mười hai người còn sống. Sáu mươi chín người bỏ mạng trên biển đều vì chết khát.

Người điên đáng kể thứ hai chỉ có tên đơn giản là… Thằng Điên, suốt ngày lảm nhảm ngoài đường, gặp ai cũng chụp lại hỏi “Vợ tôi đâu? Con tôi đâu?”, cứ thấy trẻ con là nhào tới ôm làm người lớn sợ chết khiếp. Ghe anh ta xuất phát từ Phú Yên với bốn mươi bảy người, vừa lớn vừa nhỏ, đi gần một tháng trời vẫn chưa tới đâu. Khi đã có mấy người chết vì khát quá phải uống nước biển thì có một người xưng là kỹ sư chợt nảy ra sáng kiến lấy nước acid trong bình accu trộn vô nước biển để làm nước biển hết mặn. Tình thế ngặt nghèo, người chủ ghe thử nghe lời ông ta. Quả nhiên nếm thử thấy nước lợ lợ kỳ kỳ nhưng cũng uống được. Tới giờ đó mà người chủ ghe vẫn tiếp tục kinh doanh. Trừ ông kỹ sư được thưởng sáng kiến, những người còn lại dứt khoát phải trả một chỉ vàng cho một ly, ai không có vàng thì một ngày chỉ được ba muỗng cầm hơi. Khi ghe được cứu, người ta thấy chỉ còn mười sáu người không có một phân vàng nào trong tay đang ngắc ngoải, vào bệnh viện chết thêm chín người vì bị phá hủy bộ tiêu hóa. Thằng Điên nằm trong số bảy người may mắn còn sống, nhờ đã nhường hết hai ly nước - cũng là hai chỉ vàng phòng thân cuối cùng - cho vợ và ba đứa con của anh.

Người điên đáng kể thứ ba là một cô gái, suốt ngày cứ lang thang ngoài bãi biển rồi lên chùa ngồi ngơ ngẩn, không nói chuyện với một ai, thỉnh thoảng tới bữa ăn lại la hét xô đổ tất cả, sau người ta phải cho cô ta ăn riêng, hầu như mỗi bữa chỉ một bát cơm trắng. Ghe cô đi từ Sóc Trăng, chở trên một trăm người, sau bốn mươi lăm ngày lênh đênh trên biển, khi được đưa vào trại chỉ còn đúng mười bốn. Số kia đã chết vì đói. Vì sao mười bốn người ấy, trong đó có cô gái, không chết? Không ai trả lời câu hỏi đó, ngoại trừ thủy thủ đoàn của chiếc tàu đến cứu. Thi thể của mấy người mới chết đã bị lóc thịt…

Có cũng phải gần chục người điên như vậy trên đảo, còn man man cỡ Út Ngân và Vân thì nhiều vô kể, khỏi phải tính.

Gia đình của ông Sang có Sáu Phước, em ruột của ông, qua Mỹ từ năm 1975 và cũng đang làm nghề kim hoàn bên Cali, nhưng theo lời khuyên của nhiều người ở trại, họ chỉ đăng ký xin được nhập cư theo diện được các hội từ thiện bảo lãnh thay vì nhờ thân nhân. Nếu được một hội đoàn nào đó bảo lãnh, họ sẽ có nhiều quyền lợi hơn, như được phụ cấp xã hội, tem phiếu thực phẩm, chăm sóc y tế, đi học Anh Văn và học nghề miễn phí. Có hội đoàn còn mướn nhà cho người được bảo lãnh ở, mua sẵn cả đồ nội thất cùng gối, mền, kể cả chén đũa… Ông Sang từng có thời gian phục vụ trong quân y, dù chỉ với cấp bậc trung sĩ. Từng tham gia quân đội cộng hòa, có nghề chuyên môn tương đương y tá, một nghề mà người Mỹ rất cần, lại có thân nhân đang ở Mỹ, nhân số trong gia đình chỉ có năm người, ông Sang coi như có thừa điều kiện để được bảo lãnh sớm. Chưa kể trong gia đình ông còn có cô con dâu là con của một thứ trưởng Sài Gòn, mẹ chết trong trại tù còn cha chết trên đường đào thoát chế độ cộng sản. Quả nhiên, chỉ nửa năm sau khi được phái đoàn của HCR đến phỏng vấn, họ đã được hội USCC[45] nhận bảo lãnh vào Mỹ.

Từ Pulau Bidong, họ được đưa về Kualar Lumpur rồi lên máy bay đến phi trường Los Angeles một ngày tháng Tám năm 1979. Như mọi thuyền nhân mới đến California, họ được đưa về trại Pendleton ở Bắc San Diego để chờ người của USCC làm thủ tục bảo lãnh. Với gia đình Vân, ân nhân chính là ông bà Samuel Crouch, một gia đình người Mỹ trung lưu, nhân hậu. Ông bà Crouch đã thay nhau dẫn gia đình ông Kim Sang đi xin trợ cấp xã hội, rồi chế độ chăm sóc y tế, và dĩ nhiên sau đó là đưa cả nhà đi ghi tên học tiếng Anh...

Trong những ngày ở Pulau Bidong rồi Pendleton, Vân đều để tâm tìm kiếm tên Nguyễn Minh Sơn trong danh sách những người đã đến trại, nhưng đều không thấy. Nàng vẫn chưa hết hy vọng vì còn nhiều trại tị nạn dành cho thuyền nhân ở Phi, ở Thái, ở Inđô, ngoài ra ở Mỹ vẫn còn một trại Fort Chaffee ở bang Indiana. Thuyền nhân lênh đênh trên biển, theo luật thì cứ tàu nước nào vớt sẽ được định cư ở nước đó, dân Việt giờ đây có mặt trên khắp thế giới, biết Sơn nay đang ở phương trời nào?

Chú thích:

[40] Giám đốc công an tỉnh này về sau đã xử bắn vì tội tham nhũng.

[41] Sải: đơn vị đo độ nông sâu dưới biển (1 fathom tương đương 1,8 mét).

[42] High Committee of Refugee: Cao ủy người tị nạn.

[43] Lúc cao điểm giữa thập niên 1980, nơi đây phát triển lên đến 7 khu, từ A đến G, chứa gần 6 vạn người

[44] Đơn vị tiền tệ của Malaysia.

[45] United States of Catholic Charities: Hội từ thiện công giáo Mỹ.