Chương 16 THỦ CẤP PHÍA TÂY
Ở thế giới sau gương, phần lớn tàu bè neo đậu trong cảng Dunkerk vẫn cần dùng sức gió để ra khơi. Ngọn gió thổi giữa những cột buồm thêm gia vị vào bầu không khí với tất cả những mùi vị nó mang về từ mọi chân trời góc bể xa xôi trên thế giới này: mùi tiêu bạc, mùi gỗ trầm, mùi của những động vật lạ lùng trong vườn thú hoàng gia của Lothringen và Flander... một danh sách dài bất tận những cái tên. Tuy vậy trên những chuyến phà đến Albion, cột buồm bị thay thế bằng ống khói, khinh miệt thổi vào cơn gió những làn hơi nước bẩn thỉu.
Chuyến phà mà Jacob và Cáo đi dù vậy vẫn cần hơn ba ngày để vượt qua Kênh Lớn ngăn cách giữa Albion và đại lục. Biển động, thuyền trưởng thì liên tục cho giảm tốc độ để tránh con mực khổng lồ vài tuần trước đã nhấn chìm một chiếc phà khác xuống đáy biển sâu.
Jacob có cảm giác thời gian đang trôi tuột đi như cát chảy qua tay, còn Cáo thì đứng trên bao lơn nhìn những con sóng cuồn cuộn, như thể bằng cách đó cô có thể làm dải bờ biển hiện ra trước mắt. Jacob, cũng như người Goyl, không thích tàu bè cho lắm. Trong khi đó Cáo lại khác hẳn, cô đứng trên sàn tàu như thể cô được sinh ra trên đó. Cô là con gái của một ngư dân mà. Ít nhất thì cô đã nói thế với Jacob về xuất thân của mình. Cáo vẫn miễn cưỡng hơn anh nhiều khi nhắc đến quá khứ. Tất cả những gì Jacob biết là, cô được sinh ra trong một ngôi làng ở phía Bắc Lothringen và cha ruột cô đã qua đời không lâu sau khi cô chào đời, mẹ cô đi thêm bước nữa và cô có ba đứa em trai cùng mẹ khác cha.
Bờ vực đá phấn trắng trông giống hệt như trong thế giới của Jacob, rốt cuộc cũng sừng sững hiện ra giữa những con sóng xám xịt. Bảy ông vua và một nữ hoàng trông ra những con tàu đang cập bến từ bờ đá trắng xứ Albion. Mỗi bức chân dung đồ sộ đến nỗi người ta có thể trông rõ chúng từ cách xa hàng nhiều dặm vào những ngày trời quang mây tạnh. Bầu không khí mặn chát mùi biển không ngừng ăn mòn khuôn mặt những bức tượng như khói thải từ xe ô tô ăn mòn những tượng đài ở thế giới bên kia gương, và khuôn mặt của đương kim hoàng đế bị bao phủ bởi một giàn giáo, trên giàn giáo ấy một tả những người thợ tạc tượng đang bận rộn tạc hàng ria mép đã mang lại cho ông ta biệt danh “Hải Cẩu”.
Cáo nhìn chăm chăm bờ biển Albion như thể nhìn vào lãnh thổ kẻ thù. Trong những nhà hát ở Albion những người có khả năng thay hình đổi dạng bị đưa lên sân khấu để biến hình thành lừa hoặc chó trong khi đám đông reo hò phía dưới. Trên những ngọn đồi xanh xanh ở đây người ta săn cáo với cùng một niềm phấn khích như thế, chính vì thế Jacob buộc cô phải hứa không được khoác bộ lông cáo khi đang ở trên đảo.
Albion... Lão Chanute đã khẳng định trước kia ở xứ này có nhiều những tạo vật kỳ diệu hơn cả Lothringen và Austrien cộng lại, nhưng giờ đây những nhà máy mọc lên trên những bãi cỏ ẩm nước mưa của Albion với tốc độ còn nhanh hơn ở Schwanstein. Trong lúc Jacob dẫn con ngựa của mình len giữa những xe cút kít đang chờ sẵn nơi phà cập bến, anh tưởng tượng mình thấy những thành phố ào ạt mọc lên trên những ngọn đồi xung quanh ở thế giới bên kia gương. Nhưng những ngọn đồi vẫn được bao phủ bởi những khu rừng bị phù phép, những cánh rừng ấy hiểu tiếng nói từ con tim anh, chứ không phải những con đường và công viên nơi anh lớn lên cùng Will. Jacob thường tự hỏi liệu có phải cha anh yêu thế giới này vì vẻ hoang dại của nó, hay chỉ vì cảm giác ông tự huyễn hoặc mình rằng nó là phát hiện của riêng ông.
Họ chọn một trong những con đường ít người qua lại hơn để đến mạn Tây Bắc, con đường quanh co qua những ruộng lúa và đồng cỏ, làm người ta quên đi rằng ngày nay ở Albion ngày càng hiếm gặp quỷ lùn và Stilze, cũng như Hobs, một giống người lùn giúp việc xứ Albion, hay những con thủy mã da bong vảy mà chỉ vài năm trước đây thôi còn thấy gặm cỏ ven các bờ sông. Con quạ vàng cuối cùng giờ chỉ còn là một tiêu bản, đang mở to mắt nhìn trân trân từ tủ kính viện bảo tàng, ngựa một sừng chỉ còn trên huy hiệu của nhà vua, và người Albion cho xây dựng ở cố đô Londra những cung điện để ăn mừng phép mầu mới: khoa học và nghệ thuật kiến trúc. Dù vậy, đích đến của Jacob là một thành phố khác.
Pendragon nằm sâu trong đất liền không quá bốn mươi dặm, cũng có nhiều tòa tháp như Londra và rất cổ xưa đến nỗi có hẳn những cuộc tranh luận bất tận về năm thành lập thành phố này. Ngoài ra thành phố cũng là nơi tọa lạc trường đại học nổi tiếng nhất Albion. Một tảng đá lớn đánh dấu trung tâm thành phố. Bề mặt tảng đá được không biết bao nhiêu bàn tay chạm vào, mài nhẵn bóng. Cáo cũng ghì cương ngựa lại và xoa tay lên đó trước khi đi tiếp. Arthur Pendragon được cho rằng đã kéo từ tảng đá ra một lưỡi gươm thần và tự xưng vua xứ Albion - rất lâu trước thời Guismund. Không có vị vua nào ở thế giới sau gương này mà tên tuổi được bao bọc bởi một mạng lưới rối như tơ vò những sự thật pha lẫn huyền thoại như Arthur. Chuyện kể rằng một nàng tiên đã sinh ra ông và cha ông là một Erlelf, một trong những nhân vật bất tử trong huyền thoại, biến mình trở thành kẻ thù của loài tiên và bị bọn họ hủy diệt hoàn toàn, đến nỗi khó mà tìm ra dấu vết của họ được nữa. Arthur không chỉ để lại cái tên cho thành phố Pendragon, mà còn là người thành lập nên ngôi trường đại học nổi tiếng nơi đây - phù phép tảng đá nền với phép thuật thật mạnh đến nỗi những bức tường cũ kỹ sáng trưng trong bóng đêm, khiến đèn lồng trở nên thừa thãi.
Những tòa nhà nằm sau một hàng rào sắt rèn, các hàng rào bao bọc chúng từ hàng thế kỷ nay như những tàn tích của một thành phố bị phù phép. Cánh cổng được đóng vào lúc hoàng hôn. Cáo lắng nghe trong bóng tối trước khi phóng qua. Những người canh gác khu đất vào ban đêm này đã thực hiện nhiệm vụ của mình từ rất nhiều năm trước, lẽ ra họ đáng được nghỉ hưu từ lâu rồi, vì tất cả những gì họ canh gác chỉ là một kho sách cũ khổng lồ và mùi của quá khứ, do dự hòa trộn với hương thơm của sự phát triển.
Những tòa tháp và đầu hồi được xây từ đá xám nhạt. Những cửa sổ tối om phản chiếu ánh sáng của đôi mặt trăng. Jacob yêu mê cung uyên bác của Pendragon. Anh đã bỏ không biết bao nhiêu tiếng đồng hồ ngồi trong Thư Viện Lớn, tham gia các bài giảng về Leprachauns hay thổ ngữ của phù thủy xứ Lothringen trong những giảng đường cổ kính, học được một vài động tác giả mới (đáng ngạc nhiên là rất hèn hạ) trong phòng học đấu kiếm... và luôn luôn chắc chắn rằng anh ham muốn được hiểu thế giới này nhiều hơn thế giới nơi anh được sinh ra. Tất cả những năm tháng anh dành để đi tìm những kho báu màu nhiệm cho anh cảm giác rằng mình là người bảo vệ một quá khứ mà những cư dân của thế giới này từ lâu đã không còn tha thiết đến.
Hầu hết cửa sổ của khoa Lịch sử tối om như cửa sổ ở những tòa nhà khác. Chỉ ở tầng hai còn sáng đèn. Robert Lewis Dunbar thích làm việc muộn vào ban đêm.
Ông không ngẩng đầu lên khi Jacob bước vào phòng làm việc. Bàn viết của Dunbar chất đầy sách đến nỗi người ta khó lòng trông thấy ông, và Jacob tự hỏi lần này ông đang lạc giữa thế kỷ nào. Thật không dễ dàng gì khi vừa là con của một FirDarrig [*] thuần chủng vừa là một nhà sử học tài năng. Người ta phải giỏi giang hơn tất cả những đồng nghiệp thuần chủng người, nhưng điều đó chưa bao giờ gây khó dễ cho Dunbar, mặc dù cha ông để lại cho ông một cái đuôi chuột và làn da rậm rì lông.
Dunbar không thừa hưởng cái mõm nhọn. Vẻ đẹp của người mẹ cho ông một khuôn mặt bình thường dễ coi. Hầu hết FirDarrig đều xuất thân từ Fianna, hòn đảo láng giềng thường xuyên xung đột với Albion. Họ có thể tự tàng hình, và có trí nhớ bằng hình ảnh, điều này rất ít người biết đến.
“Jacob...” Dunbar vẫn không ngẩng đầu lên. Ông lật sang trang và gãi gãi bên má đầy lông. “Một trong những câu đố của vũ trụ này là lãnh đạo trường đại học của chúng ta vẫn thuê những người gác cổng đêm, những kẻ vừa điếc vừa mù. Thật may bước chân cướp biển của cậu không thể nhầm lẫn được. Dĩ nhiên tôi chẳng nghe thấy tiếng chân cô, Cáo!” Ông nhìn lên và nở một nụ cười với cô. “Những con cáo lớn lên dưới thanh gươm của Pendragon. Và cô vẫn kè kè bên cạnh hắn sao?” Ông đóng quyển sách lại và ném cho Jacob một ánh nhìn chế nhạo. “Lần này cậu tìm gì đây? Một cái áo được Habetrot [*] dệt? Một cái móng của con Gryphon [*] ? Cậu nên đổi nghề đi. Bóng đèn, pin, aspirin, những từ màu nhiệm trong thời đại ngày nay.”
Jacob bước đến bên bàn giấy và nhìn chăm chú những quyển sách mà Dunbar đi lạc hằng đêm trong đó, như lạc trong một cảnh đẹp bằng giấy. “ Lịch sử xứ Mauretanien, Thảm bay và Trong đế chế những cây đèn thần . Ông có muốn đi một chuyến không?”
“Có lẽ.” Dunbar bắt một con ruồi và nhẹ nhàng cho nó vào miệng. Không một FirDarrig nào có thể chịu được một con côn trùng bay vo ve trước mũi như thế. “Một nhà sử học thì làm được gì trong một đất nước chỉ còn nghĩ đến tương lai? Sẽ có gì tốt đẹp nếu chúng ta để kim đồng hồ và bánh xe răng cưa điều khiển cuộc sống của chúng ta chứ?”
Jacob mở một cuốn sách và quan sát hình vẽ minh họa một chiếc thảm bay đang chở hai con ngựa và cả người cưỡi chúng. “Tin tôi đi, đây mới chỉ là khởi đầu thôi.”
Dunbar nháy mắt với Cáo. “Anh ta thích chơi trò tiên đoán lắm, đúng không? Nhưng khi tôi hỏi chính xác là anh ta thấy gì ở tương lai, anh ta liền né tránh tôi.”
“Có lẽ một ngày nào đó tôi sẽ kể cho ông nghe.” Không có ai Jacob có hứng thú kể về thế giới bên kia gương như với Dunbar. Mỗi lần gặp nhau, anh đều tưởng tượng ra cảnh đôi mắt cận thị của Dunbar sẽ mở to thế nào khi trông thấy những tòa nhà cao chọc trời hoặc máy bay phản lực. Cả khi Dunbar có thái độ rất gay gắt đối với những bước tiến bộ trong thế giới của ông - Jacob cũng chưa từng biết đến ai có học thức và thông thái nhiều như thế và đồng thời sở hữu trí tò mò không bao giờ là đủ của một đứa trẻ.
“Cậu vẫn chẳng bao giờ trả lời tôi.” Dunbar cất một chồng sách trở lại vào mấy cái kệ sẫm màu xếp kín mỗi bức tường phòng làm việc của ông với những kiến thức được in trong đó. “Cậu đang tìm gì?”
Jacob đặt quyển sách về những chiếc thảm bay trở lại bàn viết. Anh ước gì mình đang trên đường đi săn một vật màu nhiệm vô hại như thế.
“Tôi đang tìm đầu của Guismund, Kẻ Tàn Sát Phù Thủy.”
Dunbar đứng phỗng ra vì kinh ngạc, đến nỗi một trong mấy quyển sách rơi khỏi tay ông. Ông cúi xuống nhặt nó lên.
“Vậy thì cậu nên đi tìm lăng mộ của ông ta trước đã.” Giọng ông nghe lạnh lùng khác thường.
“Tôi đã tìm ra rồi. Xác của Guismund thiếu mất cái đầu, quả tim và bàn tay bên phải. Tôi tin rằng ông ta đã cho gửi thủ cấp của mình đến Albion. Đến chỗ người con trai cả.”
Dunbar nhét mấy quyển sách vào kệ, quyển này tiếp quyển kia mà không nói lời nào. Rồi ông quay người lại và dựa vào những cái gáy da của chúng. Jacob chưa bao giờ thấy khuôn mặt Dunbar đầy căm hận như thế. Ông vẫn mặc chiếc áo khoác dài như mọi khi để che đi cái đuôi chuột. Chỉ có màu đỏ sáng là cho thấy nguồn gốc FirDarrig. Họ hiếm khi mặc màu gì khác ngoài màu đỏ.
“Có liên quan đến cây nỏ thần, đúng không? Tôi biết tôi nợ ơn cậu, nhưng tôi sẽ không giúp cậu vụ này đâu.”
Nhiều năm trước Jacob bảo vệ Dunbar khỏi mấy tên lính say xỉn đang cố đốt bộ lông của ông làm trò mua vui. “Tôi không ở đây để đòi nợ. Nhưng tôi phải tìm được cây nỏ thần.”
“Cho ai?” Lông Dunbar dựng đứng lên như con chó đang hăng máu đánh nhau. “Nông dân vẫn đào được sọ người từ những chiến trường xưa. Cậu đã đánh đổi lý trí của mình lấy một túi vàng rồi phải không? Cậu có nghĩ đến việc mình đang làm không, dù chỉ thỉnh thoảng thôi? Những kẻ săn kho báu như cậu biến phép mầu của thế giới này thành món hàng để đổi lấy quyền lực!”
“Jacob đâu có định bán chiếc nỏ!”
Dunbar không để ý lời chen ngang của Cáo. Ông bước trở lại bàn viết, lơ đễnh lật lật mấy trang giấy ghi chú. “Tôi chẳng biết gì về cái thủ cấp ấy cả,” ông nói mà không nhìn Jacob. “Mà tôi cũng chẳng muốn biết gì về nó. Tôi chắc là cậu sẽ đi hỏi người khác, nhưng tôi rất hy vọng không ai có thể đưa ra câu trả lời mà cậu đang tìm. Thật may mắn là xứ sở này không còn hứng thú với pháp thuật hắc ám. Ít nhất thì đó cũng là một bước tiến bộ. Bây giờ thì tôi xin lỗi. Ngày mai tôi có một bài giảng về vai trò của Albion trong việc buôn bán nô lệ. Một chương buồn khác.”
Ông ngồi xuống sau bàn viết và mở một trong những cuốn sách trước mặt ra.
Cáo ném cho Jacob một ánh mắt bất lực.
Anh túm lấy cánh tay cô và lôi về phía cửa.
“Xin lỗi,” anh nói với Dunbar. “Lẽ ra tôi không nên đến đây.”
Dunbar không rời mắt khỏi quyển sách. “Có những thứ tốt nhất là không bao giờ nên được tìm thấy, Jacob,” ông nói. “Cậu không phải là kẻ duy nhất muốn quên điều này.”
Cáo định đáp trả nhưng Jacob đã đẩy cô ra ngoài cửa.
“Tôi quên điều này ít hơn ông nghĩ đó, Dunbar,” anh nói, trước khi đóng cửa lại sau lưng.
Giờ thì sao đây?
Anh nhìn xuống hành lang tối đen như mực.
Trên mặt Cáo cũng mang cùng câu hỏi tương tự. Và cùng nỗi sợ hãi như thế.
Một ánh lửa đèn lồng lập lòe đột ngột hiện ra ở cuối hành lang. Người gác đêm với chiếc đèn lồng đó chắc hẳn cũng già cỗi như tòa nhà này.
Jacob phớt lờ ánh mắt kinh ngạc của người gác cổng và đi qua ông ta mà không nói một lời.
Đó là một đêm trời trong, ánh sáng từ hai mặt trăng vấy bẩn những mái nhà với màu gỉ sét và màu bạc. Cáo chỉ mở miệng khi họ đã lại đứng trước cánh cổng sắt.
“Anh luôn thủ sẵn kế hoạch B. Nó là gì nào?”
Đúng vậy, cô hiểu anh quá rõ.
“Anh sẽ tìm cho mình một vài mảnh máu vụn,” Anh định nhảy qua cánh cổng, nhưng Cáo tóm lấy cánh tay anh và đẩy mạnh anh về phía sau. “Không.”
“Không cái gì?” Anh không định cao giọng như thế. Nhưng anh đã kiệt sức và đã quá mệt mỏi phải chạy trốn Thần Chết. Ngươi đã quên một điều, Jacob. Nỗi sợ hãi. Ngươi sợ.
“Anh phải tìm ra cái đầu, và anh không biết mình phải tìm nó ở đâu, đó là chưa kể đến quả tim và bàn tay. Người duy nhất anh đặt hy vọng sẽ giúp mình lại cho rằng anh là một thằng ngốc mất trí, và viễn cảnh là chậm nhất ba tháng nữa anh sẽ nằm trong quan tài!”
“Sao chứ?” Giọng Cáo vỡ ra, như thể sự thật là một cái dằm gỗ chui tọt vào cổ họng cô.
Khốn kiếp, Jacob.
Cô đẩy anh vào trong cánh cổng sắt. “Anh đã nói là anh không biết mà!”
“Anh rất tiếc.” Cô miễn cưỡng để anh ôm cô vào lòng. Tim cô đập nhanh y như hồi đó, lúc anh lôi cái chân bị thương của cô ra khỏi chiếc bẫy.
“Bây giờ em mới biết thì cũng chẳng thay đổi được gì, đúng không?”
Cô đẩy anh ra.
“Đi cùng nhau,” cô nói. “Kế hoạch không phải là như thế sao? Đừng bao giờ nói dối em thêm lần nữa. Em không thích điều đó chút nào.”