← Quay lại trang sách

Chương 36 BIẾN MẤT

Cánh cổng dẫn vào khu phố thợ kim hoàn chỉ thật sự đúng với tên gọi của nó vào ban đêm. Jacob đã từng cảm nhận những cái gai trên da thịt mình vào ban đêm, nhưng lần này đang là ban ngày khi anh đi qua cánh cổng, và đôi cánh sắt mở rộng chào đón.

Khu phố thợ kim hoàn là một trong những khu phố cổ nhất Vena. Những con hẻm của nó thậm chí quá hẹp cho xe ngựa loại nhẹ nhất, và trong những mảnh sân sau nhà vẫn còn nhiều khóm nhà bé tí xíu từ thời thợ kim hoàn còn thuê tiên nhí làm việc và người lùn giúp việc được cho là những người mang lại may mắn.

Hippolyte Ramee đã đuổi những người lùn giúp việc đi từ nhiều năm trước vì bắt gặp họ đang ăn cắp, nhưng ông ta vẫn còn làm việc với tiền nhí. Ông ta giấu họ trong phòng phía sau để không bị gọi là lỗi thời, dù vậy thứ bột màu bạc mà họ làm rơi lại phía sau khi bay lượn dính vào áo khoác Jacob ngay khi anh mở cửa cửa hàng.

Trang sức mà Ramee chế tác nổi tiếng không chỉ ở Vena. Ông ta là người Lothringen và đã từng học việc ở xưởng đúc vàng khét tiếng của Ponte-de-Pile. Có rất nhiều câu chuyện đồn đại, cái sau ghê gớm hơn cái trước, về việc Hippolyte đã mất cả hai bàn chân như thế nào trong thời gian phục vụ ở xưởng vàng. Ramee giữ im lặng về thực hư câu chuyện. Chính mắt Jacob đã từng nhìn thấy bàn chân vàng mà ông ta tự đúc cho mình để chạy trốn khỏi sư phụ, nhưng sáng nay chúng được giấu trong đôi ủng có cài nút.

Hippolyte Ramee là thợ kim hoàn chính thức cho gia đình hoàng gia Austrien từ ba mươi năm nay, và theo Jacob được biết, bọn Goyl không thay đổi vị trí của ông ta. Mắt Ramee không còn tinh tường nữa sau nhiều năm khảm những hòn đá bé tí lên những chân đế vàng hoặc bạc. Mắt kính của ông ta dày đến nỗi đôi mắt mờ đục trông to như mắt một đứa trẻ con.

“Quý khách có hẹn trước không? Nếu không, quý khách có thể rời khỏi đây ngay.” Tính khí của Ramee cũng nổi tiếng ngang với những đồ trang sức của ông ta. Ông ta đã từng đuổi cổ sứ giả của nữ hoàng ra khỏi cửa hàng. Nhưng vẻ đẹp của những món trang sức đang được trưng bày trong tủ kính khắp xung quanh cửa hàng khiến cho kho báu của những gia đình dòng dõi quý tộc bị lu mờ. Dây chuyền, vòng tay, vương miện và cài áo, hồng ngọc, ngọc lục bảo, đá topaz và hổ phách, được đúc một cách tinh tế bằng vàng và bạc như thể chúng mọc ra từ đầu ngón tay của lão già đang ngồi sau cái bàn bằng gỗ mộc.

“Là tôi đây, Hippolyte.”

Ramee ngẩng đầu lên và để chiếc kính lúp to bằng bàn tay mà ông ta đang dùng để soi một viên kim cương có kích thước bằng hạt đậu sang một bên, vẻ nghi ngờ chỉ biến mất trên gương mặt ông ta khi Jacob đứng ngay trước mặt ông.

“Dĩ nhiên rồi. Jacob,” ông xác nhận, trong lúc bàn tay đồi mồi nắm chặt lấy viên kim cương. Ramee luôn luôn nghĩ người ta sẽ cướp của mình. Nữ hoàng là người duy nhất mà ông ta không có ý nghĩ đó. “Cần tìm một chiếc cài áo để gây ấn tượng với ả hầu gái nào đó của nữ hoàng à?”

“Không,” Jacob quan sát một chiếc vương miện trông giống như mạng nhện bằng bạc được dệt quanh những đóa hoa làm từ mã não. Ramee đã cải biên những tác phẩm thủ công của mình cho hợp với ông chủ mới của Vena. “Tôi cho rằng ông vẫn chịu trách nhiệm bảo quản trang sức của hoàng gia?”

Ramee chỉnh lại kính. “Dĩ nhiên. Cậu muốn nói gì về người Goyl cũng được, nhưng họ thật sự công nhận những ai có hiểu biết về đá các loại.”

Jacob cố giấu một nụ cười. Hippolyte là một lão già tự phụ.

“Thật xấu hổ là họ không thích vàng,” Ramee nói tiếp. “Vì vậy ta phải làm việc với bạc nhiều hơn, nhưng đức vua của họ mới đặt thêm ở chỗ ta một số món trang sức rất có gu. Chiếc vòng tay mà ông ta...”

“Hippolyte..” Ramee có thể lan man hàng giờ về cách cắt một viên đá hay giá trị của thủy tinh trong suốt không tì vết do tiên nhí thổi, còn Jacob không thể chịu đựng việc phí thêm thời gian mà anh không có nữa. Nhưng lão già vẫn tiếp tục nói bằng giọng Lothringen đặc sệt, chất giọng không hề mất đi trong suốt những năm sống lưu vong. Rõ ràng ông ta không chỉ mù dở mà bây giờ còn khá điếc nữa.

“Hippolyte! Ông có thể nghe tôi nói một chút không?” Ramee đột nhiên im bặt như thể vừa nuốt phải một viên kim cương của mình.

“Cái gì?” ông ta quát Jacob. “Ta già gấp ba lần cậu đấy. Có gì mà vội thế?”

“Tất cả chúng ta đều không biết khi nào sẽ bị Thần Chết mang đi, đúng không?” Jacob phủi một con nhện trên ống tay áo. Nó có màu xanh như những chiếc nhẫn thạch anh nổi tiếng của Ramee.

Lão già đập con nhện khi nó rơi xuống giữa những ngón tay mình.

“Nhện, chuột, gián!” Ông ta chửi rủa trong lúc phải con nhện khỏi bàn. “Con mèo không thể theo kịp chúng! Rốt cuộc ta lại phải thuê mấy tên người lùn giúp việc ăn cắp ấy!”

Một chủ đề yêu thích khác. Người lùn giúp việc.

“Hippolyte! Ông có thể cho tôi biết vài điều về một món trang sức không? Tôi thấy nó trên một bức chân dung trong Bảo tàng Lịch sử. Viên đá màu đen, lớn hơn quả nho một chút, chân để là một mắt lưới từ những sợi vàng xoắn lại với nhau.”

Ramee sửng sốt nhìn anh. Rồi ông ta cúi đầu và sắp xếp lại những dụng cụ để trên bàn trước mặt bằng những ngón tay run rẩy. Khi ông ta ngẩng lên, đôi mắt sau cặp kính dày ầng ậng nước.

“Tại sao cậu làm việc này?” Ông ta thở hổn hển. “Một trò đùa độc địa chăng? Hồi ấy ta đã thú nhận tất cả với nữ hoàng.”

Ông ta đứng bật dậy đột ngột đến nỗi viên kim cương đang chế tác lăn khỏi bàn. “Amalie cử cậu đến phải không? Đúng thế rồi! Người ta còn trông đợi gì được ở một cô công chúa mang thai với Goyl chứ?!” Ông ta bụm tay lên miệng như có thể nuốt lại lời đã nói, rồi thận trọng nhìn ra cửa sổ, nhưng người qua đường duy nhất là một chú lùn đang đứng ở cửa sổ cửa hàng đối diện.

Ông già đang nói về cái gì? Jacob nhặt viên kim cương lên và đặt trở lại bàn. Nó sáng lấp lánh như giọt nước mắt hóa đá.

“Không ai cử tôi đến đây cả,” anh nói. “Tôi tự mình đi tìm món trang sức ấy. Tôi chỉ muốn hỏi liệu ông có thể giúp tôi tìm hiểu về nó không.”

Ramee tháo kính ra và lóng ngóng dùng tay áo lau lớp kính mờ hơi nước. “Quên chuyện này đi!” Lời nói cáu kỉnh bật ra khỏi miệng ông ta. “Viên đá đã mất. Giống như Marie.”

Jacob lấy cặp kính khỏi tay Ramee. Anh đánh lớp kính sạch bóng và đưa lại cho ông già. “Marie?”

Đôi tay Ramee run rẩy khi nhận lại cặp kính. Ông ta chỉ vào một bức ảnh treo trên vách ngay gần cửa sổ. Một dải ruy băng đen thắt trên đó. Trong ảnh là một cô gái trẻ, có lẽ mới mười tám tuổi. Jacob bước đến chỗ bức ảnh. Sự thật trong quá khứ, bị ánh sáng, axit và bạc làm cho đóng băng lại. Ở sau gương người ta phải nhớ một bức ảnh thực sự là một phép màu. Cô gái mà Jacob đang nhìn có mái tóc đen gần như tan chảy vào phông nền màu nâu đen. Cô có vẻ hơi cứng, rốt cuộc người ta phải ngồi yên rất lâu cho một bức ảnh thế này, nhưng ánh mắt tự tin nói rằng: “Nhìn tôi này. Không phải tôi rất xinh đẹp sao?”

“Đó là vũ hội đầu tiên của nó.” Ramee bước đến bên cạnh Jacob. Chỉ có thể nhận biết bàn chân bằng vàng qua tiếng bước chân nặng nề. “Ta nhận được sợi dây chuyền và một vài món trang sức khác từ cung điện. Ta vẫn chưa biết đó là loại đá quý gì. Nó cứng hiếm thấy. Trông nó thật đẹp trên làn da trắng ngần của Marie. ‘Như một mảnh trời đêm lồng trong vàng, ông ạ,’ nó nói. Ai có thể từ chối đứa cháu gái bé bỏng của mình một thứ như thế chứ? Chỉ cho một buổi khiêu vũ thôi mà. Nó không bao giờ trở lại. Biến mất. Đơn giản là biến mất. Như thể nó chưa từng tồn tại. Mẹ nó ở ru rú trong nhà vì quá thương nhớ con. Nó tự nói với chính mình rằng Marie đã trốn đi cùng với một quân nhân nào đó hay lui tới những buổi vũ hội. Chắc hẳn nó biết rằng sự thật khó lòng mà chịu đựng nổi.”

Ramee kéo ống tay áo lên. Ông ta đeo một chiếc vòng bằng vàng quanh cổ tay xương xẩu. Những mắt xích nhuyễn mịn đã đen xỉn đi. “Cậu đã nghe nói về những chiếc vòng tay thế này, đúng không?”

Jacob gật đầu. Không nhiều thợ kim hoàn biết cách chế tạo ra chúng. Người ta nhỏ vào trong vàng một giọt máu. Nếu vàng sáng bóng thì chủ nhân của giọt máu vẫn khỏe mạnh; vòng tay chuyển màu đỏ, người ấy đang trong cơn nguy kịch. Nếu là màu đen, chỉ có duy nhất một ý nghĩa mà thôi.

“Cái chết,” Ramee nhìn chằm chằm bức ảnh. “Những bức ảnh này là một phát minh làm người ta lo sợ, không phải sao? Người ta trông như một bóng ma trên đó. Nhưng mặt khác, ít nhất thì ta vẫn còn một bức ảnh của cháu gái.”

Ông ta kéo tay áo xuống che đi chiếc vòng tay đen xỉn. “Vào ngày cuối cùng, khi Marie tới đây, nó cài một bông hoa trên váy, và phải lòng một kẻ lạ mặt đẹp trai như hoàng tử. Dĩ nhiên là hắn ta mày râu nhẵn nhụi. Ta không phải giải thích với cậu tại sao nó không quay về nữa.”

Không, ông ấy không phải làm thế.

Một bông hoa trên áo. Jacob thấy tim mình đập nhanh hơn. Mày vừa mù vừa điếc sao, Jacob?

“Yêu râu xanh....” Ramee xoa tay lên đôi mắt mờ đục. “Người ta nghĩ chúng chỉ có trong truyện cổ tích, cho đến khi người ta có cháu gái. Nếu cậu từng tìm ra được sợi dây chuyền mình đang lùng sục, bắn chết kẻ sở hữu nó, rồi nhìn xem có cô gái đã chết nào trong phòng ngủ màu đỏ của hắn không, cô gái mang chiếc cài áo nạm hồng ngọc. Ta đã làm cho Marie chiếc cài áo ấy vào sinh nhật lần thứ mười sáu.”

Phòng ngủ màu đỏ của hắn... Jacob đã từng bước vào một căn phòng như thế. Đó là một ký ức mà anh muốn quên đi. Cáo đã đi cùng anh ta bao lâu rồi? Ba tiếng?

Ramee gọi gì đó sau lưng anh, nhưng anh chỉ nghe thấy tiếng máu mình chảy ào ào trong tai. Troisclerq cài hoa lên áo cô ngay trước mũi anh! Người ta tẩm chúng bằng dầu Quên chính-mình-đi.

Anh vấp váp bước ra con hẻm nhỏ. Tên ngốc chết bầm . Anh đã quên tất cả những điều lão Chanute đã dạy sao?

Đi đi, Jacob.

Nhưng anh không đi được xa. Một cánh tay kẹp lấy cổ anh từ phía sau, rồi kẻ nào đó thô bạo lỗi anh qua vòm cửa nhà bên cạnh vào trong một trong những mảnh sân sau tối om có ở khắp khu phố thợ kim hoàn này.

“Ha, đang tận hưởng Vena với những người bạn mới à?” Donnersmarck không còn mặc bộ quân phục trắng của hoàng gia nữa, mà là bộ quân phục xám xịt của bọn Goyl. Lần cuối Jacob gặp ông, ông đang là tù binh của bọn chúng. Từ bấy đến nay ông bạn già của anh đã trở thành trợ lý riêng cho nữ hoàng mới. Rõ ràng cô ta không lấy làm khó chịu về việc trước đây ông từng phục vụ mẹ cô.

Donnersmarck đã uống say. Không nhiều, nhưng đủ để mất kiểm soát. Ông đấm thật mạnh vào mặt Jacob đến nỗi anh nếm thấy vị máu trên lưỡi mình. Jacob huých đầu gối vào bụng ông ta trả đũa và cố thoát ra, nhưng một lần nữa anh không đi được xa. Dưới vòm cửa, Auberon, chú lùn được sủng ái trước đây của nữ hoàng, đang đứng, súng chĩa vào đầu anh. Auberon rất thích chứng tỏ khả năng bắn súng của mình bằng cách nã đạn vào giữa trán người ta. Tất cả những người lùn của nữ hoàng đều là thiện xạ. Tuy vậy Amalie thích để quân lính của phu quân cô ta bảo vệ hơn, nên những cận vệ trước đây của mẹ cô giờ chỉ bảo vệ thợ kim hoàn, chủ ngân hàng và những chủ nhà máy giàu có.

Jacob giơ tay lên.

“Để tôi đi, Leo!” Anh sắp muộn mất rồi.

Donnersmarck đẩy anh vào bức tường bên cạnh. “Cậu không đi đâu hết. Ta đã thể với nữ hoàng trong cái hang tối tăm mà bọn Goyl nhốt bà: Ta sẽ tìm ra Jacob Reckless, và hắn ta phải trả giá cho những gì đã xảy ra trong nhà thờ.”

“Sao chúng ta không bắn quách gã tại đây luôn?” Jacob vẫn còn nhớ rõ khuôn mặt phình lên của gã lùn khi hắn vấp váp chạy ra khỏi nhà thờ. Đúng vậy, gã lùn chắc hẳn rất muốn bóp cò, nhưng Donnersmarck lờ gã đi.

“Ta đã dành hàng tháng trời tìm kiếm cậu khắp các nhà ga và trạm xe ngựa.”

“Thật sao? Đúng vậy, tôi thấy ông vẫn là một người đàn ông quyền lực. Chúc mừng bộ quân phục Goyl. Chúng hợp với ông!”

Jacob hy vọng ông ta đấm anh vì câu nói đó, rằng ông ta đã quá say nên sẽ mất thăng bằng vì cú đấm, và anh đã kịp chĩa súng vào thái dương ông ta trước khi ông kịp đứng dậy. Auberon lại một lần nữa chứng minh không ai ở thế giới sau gương này nhiều ý tưởng nguyền rủa như một người lùn, gã cố nhắm bắn, nhưng Donnersmarck quá cao lớn và là tấm lá chắn hoàn hảo.

“Đó là em trai tôi!” Jacob rít vào tai ông ta. “Còn ông đã làm gì nào? Ông mặc quân phục của bọn chúng chỉ để không phải kết thúc trong ngục tối như chủ nhân của ông mà thôi. Ngừng đạo đức giả đi và nói cho tôi ông có biết gì về một tên yêu râu xanh đang quấy nhiễu trong vùng này không!”

Anh có thể nghe thấy Donnersmarck hít một hơi sâu thế nào.

Yêu râu xanh. Họ đã cùng nhau săn được một tên như thế. Nhiều năm trước.

“Nào giờ thì nói đi. Ông là con chó canh của tân nữ hoàng. Đương nhiên là ông biết câu trả lời!”

“Đó là một mảnh khóe bẩn thỉu!” Sự hoảng sợ vô cớ làm giọng Donnersmarck khàn đi, ngoài ông ta ra chỉ có Jacob thấy được.

“Phun ra đi!” Jacob thả Donnersmarck ra để ông bạn già thấy nỗi sợ hãi trên gương mặt anh. “Có một tên yêu râu xanh ở Vena phải không?” Donnersmarck nhìn anh trừng trừng. Cho ông ta thấy sự sợ hãi của người đi, Jacob. Dù người bay giỏi việc che giấu nó hơn.

“Phải”, Donnersmarck ngập ngừng. “Hắn ta bắt cô gái đầu tiên từ mười năm trước. Từ bấy đến nay là bốn rồi. Có lẽ hẳn là người Lothringen, nhưng hắn thích đi săn ở đây hơn. Cậu biết những cuộc đi săn ấy như thế nào mà - không bao giờ diễn ra trong sân sau nhà các cô gái. Tại sao cậu tìm hẳn?”

“Hắn đang đi cùng Cáo.” Jacob đẩy ông ta sang một bên. Luôn luôn là hình ảnh ấy: bàn tay Troisclerq cài hoa lên áo cô. Tại sao hắn lại làm điều đó bây giờ? Để trong tương lai anh sẽ bị chuyện này ám ảnh hằng đêm? Anh đã bị vẻ quyến rũ của hắn hạ gục, như những phụ nữ mà hắn đã giết. Nhưng Cáo đi với hắn ta chỉ vì ngươi, Jacob. Còn người đã trao cô ấy cho bắn như một món quà.

“Chỗ nào ở Lothringen?”

“Chỉ là những lời đồn đại.”

“Ví dụ?”

“Hắn ta sống đâu đó gần Champlitte.”

Champlitte. Troisclerq thậm chí còn không cố nói dối. Sẽ thế nào nếu ta lấy đi thứ mà người yêu thương? Ngươi sẽ đến và giành lại chứ?

Anh xô gã lùn đang cản đường và bước ra con hẻm. Donnersmarck nhanh chóng bắt kịp anh dù chân ông bước khập khiễng từ sau khi tham gia một trận chiến của nữ hoàng.

“Cậu thấy cô ấy lần cuối ở đâu?”

“Nhà ga.”

Anh phải tìm thấy người xà ích ấy.

Không vết cắn nào của con bướm ma làm tim anh đập nhanh đến thế. Nỗi sợ hãi dìm chết lý trí anh. Anh đã không hề biết rằng con người ta có thể khiếp sợ đến thế.

Người sẽ tìm ra cô ấy! Và cô ấy vẫn còn sống.

Giá mà anh có thể tin chính mình. Anh chỉ còn biết một điều. Anh sẽ giết chết Troisclerq.

Anh sẽ giết hắn.