Tái gân mới vô
Để nhớ những ngày đầu ở Sài Gòn bề bộn...
1. Hoàng vừa bước chân vào quán, anh Tư Mắm đã hô: “Tái gân mới vô”. Hoàng muốn bảo: “Trời ơi cái anh Tư Mắm này, sao tài quá vậy. Sao biết tôi hay ăn tái gân, sao biết tôi mới vô Sài Gòn?”. Anh Tư Mắm chắc sẽ bảo: “Cũng như cha nội biết tui là Tư Mắm vậy, anh hay ăn tái gân thì tôi “kiu” tái gân, anh mới vô quán này thì tôi “kiu” là mới vô chớ đâu có tài cán gì”. Ừa, quán phở Tư Mắm thì chắc cái anh thô thô đen đen quắt quắt queo queo như con mắm đứng thu tiền kia là Tư Mắm rồi.
Hoàng mới ở Hà Nội vào Sài Gòn được mấy hôm, có ghé qua quán phở này mấy lần, lần nào cũng kêu tái gân, chỉ vậy mà anh Tư Mắm thuộc liền. Hoàng bỗng nhớ quán phở anh hay ăn ở Hà Nội, ăn ở đó bao nhiêu lần rồi mà mỗi lần vẫn phải dặn kỹ, ví dụ “Chỉ ăn gầu không, không ăn hành chần...”. Có thể vì người Hà Nội kinh kỳ không quý người - thậm chí có quán bà chủ còn chửi khách xơi xơi mà người ta vẫn cắm đầu vào ăn. Ở Sài Gòn các dịch vụ tốt hơn hẳn, khách hàng là Thượng Đế. Hoàng nhớ có cậu bạn kể chuyện lần đầu tiên vào Sài Gòn, lần đầu tiên đi ăn phở ở Sài Gòn được một chị “rất sexy” mang cốc trà đá to đùng và khăn lạnh đến hỏi: “Cưng ơi, ăn gì?’’. Cậu bạn bảo: “Yêu Sài Gòn mất rồi, ngay lúc đó”.
Nghĩ lại, Hoàng bỗng thấy mình buồn cười, phở gì không ăn lại đi ăn phở Tư Mắm, nghe tên đã biết là phở kiểu Sài Gòn. Mà lạ quá, các anh chủ hàng ở Hà Nội thường béo hú, anh Tư Mắm chủ quán phở Sài Gòn lại gầy đét. Ở Hà Nội, Hoàng vốn cầu kỳ, có khi anh phải đi qua bao nhiêu phố để ăn một bát phở. Giờ vào đây, Hoàng lại xuề xòa đến ăn phở Sài Gòn ngay cạnh nhà. Phở Sài Gòn hơi ngọt, có giá chần mà trong này gọi là giá trụng với những cọng húng, cọng mùi tàu bày riêng ra đĩa. Bánh phở Sài Gòn thái nhỏ và cứng như bánh đa ngoài Bắc. Dầu chẳng được ăn những bát phở giống những bát phở Hoàng vẫn thường ăn ở Hà Nội, anh vẫn đến quán Tư Mắm để nghe câu hô như một lời chào mừng: “Tái gân mới vô”. Có thể khi mới đến một thành phố xa lạ, đôi khi người ta cần một chỗ dựa về tình cảm, người ta cần một chút ấm áp.
2. Phía bên kia cầu Bông, gần bờ kênh có cả loạt quán, quán nào cũng như quán nào, có những chiếc ghế gấp đã cáu bẩn, có những chiếc bàn nhựa cũ kỹ và cà phê sữa đá hay nóng giá thống nhất trên toàn khu vực bờ kênh là sáu ngàn đồng một ly. Những chiều cô đơn lúc mới vào Sài Gòn, Hoàng hay ra quán Hoa Hồng ngồi, như thể muốn có ai đó để chuyện trò, như thể để tìm chút ấm áp. Nhìn những ngổn ngang của khu chung cư bên cạnh đang xây, Hoàng thấy cuộc đời mình cũng ngổn ngang y như vậy, có khi còn ngổn ngang hơn.
Quán Hoa Hồng có cái tên gọi vậy thôi chứ chẳng có cái gì dính dáng đến Hoa Hồng hết, , Hoàng muốn ngồi đó vì đi qua thấy quán có mấy em phục vụ rất dễ thương. Ngồi ở quán vài lần, thấy người ta kêu một em là Thuý Vân, một em là Thuý Kiều. Có lần Hoàng nghe khách trêu: “Sao không đổi tên hai em này một em thành Hoa một em thành Hồng đi cho nó Hoa Hồng”. Thật ra Hoàng cũng chưa phân biệt được em nào là Thuý Vân em nào là Thuý Kiều, chỉ biết một em tóc ngắn, một em tóc dài.
Có những ngày Sài Gòn rất nóng bức và oi ả. Ngồi trong phòng máy lạnh mà mồ hôi vẫn ra đầm đìa, khiến quần áo dính dấp vào người. Hết giờ làm, Hoàng ghé qua quán Hoa Hồng, gọi cà phê sữa đá. Anh ở một mình, về nhà ngay cũng chẳng làm gì, lúc nào đói bụng làm một hộp com sườn là xong bữa. Em tóc dài bưng cà phê, nở một nụ cười rồi ngồi xuống bên cạnh Hoàng. Em cao và xinh như người mẫu, mặc quần ngắn chỉ đến gần nửa đùi, áo dây, ngực đầy căng và da trắng bóc. Em ngồi đấy như một người vợ dịu dàng đợi những giọt cà phê trong phin chảy hết, bỏ phin xuống bàn, khuấy tan cà phê rồi đổ vào ly đá cho Hoàng. Hoàng châm một điếu thuốc. Tầm này quán vẫn vắng, có lẽ buổi tối quán mới đông. Chỉ lác đác vài bàn có khách và mỗi bàn có một em gái ngồi cùng khách. Em mỉm cười với Hoàng.
- Anh tên gì?
- Anh tên Hoàng. Thế em tên gì?
- Em tên Thúy Kiều.
Hóa ra Thúy Kiều tóc dài còn Thúy Vân tóc ngắn. Ở miền Tây mọi người thích đặt tên con gái là Kiều, Kiều có nghĩa là đẹp. Ở ngoài Bắc, mọi người hình như kiêng đặt tên con là Kiều vì sợ như Thúy Kiều - hồng nhan bạc mệnh. Nhưng hình như bây giờ hồng nhan bạc triệu.
- Anh làm ở đâu?
- Anh làm ở quanh đây.
- Quanh đây là ở đâu?
- Là ở Sở Thú.
- Anh làm gì ở Sở Thú?
- Anh bế voi đi tắm.
Em cười dễ thương:
- Anh này xạo quá, nói thiệt đi, anh làm gì?
- Anh mà nói sai hai tai anh cân đối, anh mà nói dối hai đầu gối anh bằng nhau.
Hoàng tin là em Thúy Kiều tóc dài có thể nói chuyện kiểu như thế này cả ngày, lần nào Hoàng đến các em cũng hỏi tên và hỏi làm ở đâu. Trả lời đúng là anh làm ở đâu cũng bằng thừa. Ở Sài Gòn các em bân cà phê hình như còn kiêm thêm cả việc nói chuyện với khách, nhất là ở mấy quán quanh cầu Bông, như thể để khách đỡ ngồi trầm ngâm ngó ra dòng kênh nước đen ngòm. Hoàng bỗng nghĩ đến những cô gái geisha ở Nhật - những cô gái chuyên hầu trà, rót rượu và nói chuyện, cười đùa cùng với khách. Hoàng nghĩ sẽ gọi các em bán cà phê ở đây là geisha cầu Bông.
- Hôm qua anh có coi đá banh không?
- Anh ít coi đá banh lắm...
Rồi Thúy Kiều bắt đầu nói chuyện. Hoàng ngồi nghĩ vu vơ và thỉnh thoảng mới để ý đến câu chuyện của Thúy Kiều ngồi cạnh. Chúng ta thường muốn người khác để ý đến câu chuyện của mình nhưng ít khi chịu để ý đến câu chuyện của người khác. Hoàng đang mải nghĩ mình là ai, mình đóng vai trò gì trong câu chuyện có tên là cuộc đời này? Kim Trọng cũng không mà Thúc Sinh cũng không. Thúy Kiều thậm chí chẳng để ý xem Hoàng có muốn nghe hay không, cứ thao thao nói về chuyện phải đi thuê nhà mấy triệu một tháng, về gia đình đông anh em, về một người yêu đã từng phụ bạc và về ước mơ lấy chồng - “hoặc là người cực giàu hoặc có thể là người cực nghèo nhưng phải cực yêu thương vợ con...”.
Thúy Kiều chuyển sang kể chuyện anh Lâm là anh đi xe SH trắng 300i cũng thường hay đến uống cà phê ở quán này, một bữa ngà ngà say có nắm tay Thúy Kiều bảo: “Em cần tiền à? Tối nay đi chơi với anh rồi anh cho một triệu”. Thúy Kiều bảo: “Anh nghĩ em là người thế nào?”. Lâm cáu: “Bán cà phê còn bày đặt”. Có đơn giản vậy không? Người đâu có dễ mua như vậy, tình cảm đâu có dễ mua như vậy, sự ấm áp đâu có dễ mua như vậy?
Ở bàn bên, Thúy Vân đang nũng nịu với người đàn ông chừng 40 tuổi: “Á, anh này kì ghê, tay to thế kia mà đem véo đùi người ta, ứ chơi với anh nữa”. Sau đó Thúy Vân bỏ sang bàn khác - bàn có một người vừa tới. Có lẽ em chủ định tìm một lí do để sang bàn khác ngồi, chứ không phải vì một cái véo đùi.
Thúy Kiều vẫn ngồi bên cạnh Hoàng miên man nhìn ra đường, dường như không muốn đi đâu cả. Hoàng hỏi: “Em nhìn gì thế?” “Em nhìn xe, nhìn đường”. Hoàng bỗng thấy mình vô duyên. Liệu có thể hỏi gì, nói chuyện gì với geisha cầu Bông?
Không biết các em Thúy Kiều, Thúy Vân có thể ngồi ở quân cà phê thế này được bao nhiêu năm? Sau này các em sẽ đi đâu, về đâu?
Các em sẽ làm gì nếu không có một nghề trong tay? Nhưng hình như các, em cũng chẳng muốn học nghề, chẳng muốn làm gì.
Các em không thích nhưng cũng không ghét công việc hiện tại, như thể họ không yêu cũng chẳng ghét cuộc sống đang có. Các em geisha Cầu Bông cứ “lửng lơ con cá vàng” trôi theo dòng đời đến đâu thì đến... Các em rất giống ly cà phê sữa đá dễ uống nhưng chẳng uống được nhiều và nhanh bị chán.
Bây giờ Hoàng mới để ý ở quán có treo biển “Tuyển tiếp viên có ngoại hình”. Hoàng nhớ ở quán nhậu nào đó ở sài Gòn có treo biển “Tuyển tiếp viên vòng ngực từ 100 cm trở lên”. Ở Sài Gòn, rất có thể người ta treo biển “Tuyển geisha vòng ngực từ 100 cm trở lên”. Những geisha cầu Bông dù có ngoại hình, dù vòng ngực đầy nhưng cuộc đời còn quá trống. Cuộc đời con người ta luôn cần được lấp đầy bởi một cái gì đó: tình bạn, tình yêu, công việc và cả những cảm xúc chân thành...
Hoàng để lại thêm vài chục ngàn ngoài phiếu tính tiền, Thúy Kiều nhoẻn miệng cười rất tươi: “Hum nào anh lại qua đây chơi nha”.
Khi nhận xe từ cậu nhỏ dắt xe, Hoàng nhìn lại quán. Vẫn những tiếng cười đùa cùng khách của những geisha cầu Bông. Thúy Vân đã lại chuyển sang ngồi ở một bàn khác, Thúy Kiều lại bắt đầu rót nước cho một người khách vừa mới tới như một người vợ dịu dàng...
3. Ở Hà Nội, Hoàng hay ăn phở gầu - Hà Nội đang mùa lạnh. Vào Sài Gòn, Sài Gòn lúc nào cũng là mùa hè, Hoàng thích ăn tái gân. Thịt bò tái mềm, thấy bảo là nhiều chất bổ và gân giòn, dai. Hoàng không ăn được phở tái không, không ăn được toàn thịt nạc. Anh nghĩ con người sinh ra đã như vậy rồi, ăn phở tái không cực kỳ chán, chán như những ngày đi làm đằng đẵng. Bát phở tái phải có thêm những miếng gân - dù chẳng có chất gì nhưng ngon miệng - để cân bằng. Về sau, Hoàng mới biết tái gân nói lái là gái tân, nhưng ở hàng phở ai nói chuyện gái tân làm gì.
Có bữa Hoàng tới quán sớm, quán vắng người, anh Tư Mắm ra hỏi chuyện:
- Chú tên gì?
- Dạ, em tên Hoàng.
- Tên Hoàng trong này hay “kiu” là Huỳnh đó. Chú làm ở đâu?
- Dạ, em làm ở gần đây.
- Chú mới vô à?
- Em vô được gần một tháng rồi.
- Tại sao chú lại vô Sài Gòn?
Hoàng không biết trả lời sao. Chính anh cũng không biết tại sao anh lại vào Sài Gòn.
Hoàng hay mở đầu các bài du ký của mình bằng câu: “Em lại thấy mình trong một chuyến đi...” - giống như trong truyện ngắn nào của Hoàng cũng có câu: “Những sợi tóc em bay bay cọ nhẹ vào má tôi, bờ môi em gần kề”. “Em lại thấy mình trong một chuyến đi” - nghe như thể em ngỡ ngàng, em chẳng biết tại sao em mở mắt ra đã thấy mình ở trên máy bay đi đâu đó. Đi mà chẳng biết mình đi đâu. Bị động không bàn phím nào tả xiết. Hoàng bỗng nghĩ mình phải cứng rắn lại, như nhân vật chính Teleghin nghĩ trong tiểu thuyết Con đường đau khổ của Alexei Tolstoi.
Hoàng vào Sài Gòn để làm gì? Có thể là để thay đổi không khí. Có những người có thể sống mãi với một bầu không khí, có người phải liên tục thay đổi. Hoàng bỗng nhớ ở cổng nhà mình có cây hoàng lan. Hết hoàng lan nở bây giờ lại có dạ hương. Mùi hoa thơm không thể không ngửi. Nhưng chẳng lẽ cứ ở Hà Nội ngửi hoa, rồi sao nữa, rồi cái gì sẽ đến? Ở Sài Gòn, công việc có vẻ thú vị hơn, thu nhập cao hơn. Vào Sài Gòn, Hoàng chờ đợi may mắn, chờ đợi một cái gì trọng đại sẽ đến với mình. Và ở Sài Gòn có thể có nhiều cơ hội hơn. Cuộc hành trình vào Sài Gòn của Hoàng có thể là cuộc hành trình đi tìm sự ấm áp và may mắn?
Có người hỏi Hoàng: “Anh vào đây lập nghiệp à?” như thể lập nghiệp là cái gì to tát lắm. Có người bảo Hoàng: “Vào Sài Gòn rồi sẽ yêu Sài Gòn, như lửa gần rơm lâu ngày cũng bén”.
Đức gọi cho anh: “Bác rảnh thì làm vài ve”. “Rảnh thì làm vài ve” với Hoàng cũng trở thành tiêu ngữ, cũng như câu “Tái gân mới vô” của anh Tư Mắm. Đức là giám đốc một công ty ở Sài Gòn, Đức muốn mời Hoàng làm thêm bán thời gian ở công ty của Đức. Trong khi Hoàng đang ổn định cuộc sống, trong khi Hoàng đang suy nghĩ, thỉnh thoảng Đức lại gọi: “Bác rảnh thì làm vài ve”.
Đôi khi Hoàng cũng suy nghĩ, đôi khi Hoàng thấy mình may mắn. Chuyện anh chuyển công tác vào Sài Gòn khá suôn sẻ, anh có một mái nhà trên đầu, một công việc ổn định và có những mối quan hệ mới, anh có những người gọi anh “Tái gân mới vô” và “Rảnh thì làm vài ve”. Có bữa, Hoàng mệt ăn ít, nghe anh Tư Mắm bảo: “Sao ăn ít thế chú?”. Có bữa, Hoàng buồn, Hoàng gọi lại cho Đức: “Rảnh thì làm vài ve?”.
Tự lúc nào, Hoàng thấy mình hay dùng những từ ngữ của Sài Gòn. Như thể Hoàng đã nhiễm cách nói Sài Gòn. Như thể “nhập gia tuỳ tục”. Như thể Hoàng sẽ định ở Sài Gòn lâu, thật lâu.
4. Ở quán phở Tư Mắm có bác Hai bán vé số ngồi gần như là thường xuyên. Thấy kể chuyện đời bác rất đơn giản là cả đời làm ruộng, khi người ta làm sân golf bác được đền bù giải toả một cục tiền. Cả đời không cầm cục tiền, đến khi cầm vào dễ mất như chơi. Bác Hai gái làm ăn mất hết cả tiền. Hoàng thấy dường như mỗi người bán vé số ở Sài Gòn đều có một lịch sử riêng. Hoàng mời bác Hái tô phở, bác Hai không chịu ăn.
Anh Tư Mắm hay đùa: “Này bác Hai đừng có cậy nhan sắc của mình mà bắt người ta mua vé số đó nha”. Hoàng mua giúp bác Hai mấy tấm vé số, nhờ bác Hai giữ luôn: “Bác giữ giúp con cũng được mà, con không mua vé sồ bao giờ, cầm nhỡ lại để lung tung”. Quả thật, ở Hà Nội Hoàng không mua vé số bao giờ, như thể anh chẳng cần phải hy vọng vào cái gì đó.
Ở Hà Nội hay có các cô tiếp thị bia đến mời: “Anh uống giúp em mấy chai bia”. Hoàng hay trêu: “Em thì xinh đẹp và khỏe mạnh, bia thì ngon. Tại sao anh phải uống giúp em?”. Hoàng chẳng mua vé số bao giờ, như thể anh không tin vào những trò may rủi, anh muốn tự mình làm nên một cái gì đó. Nhưng ngồi ở quán Tư Mắm Vốn thân thuộc như ngồi ở nhà, bác Hai như một ông bác họ xa của Hoàng, tại sao Hoàng lại không mua vé số? Và ở Sài Gòn, tại sao Hoàng lại không hy vọng? Hy vọng là mình, sẽ trúng số chẳng hạn, sẽ mua được một cái nhà ở Sài, Gòn. Cuộc đời con người phức tạp mà đôi khi cũng đơn giản lắm. Cứ suy nghĩ mãi, cứ dằn vặt mãi là ở Hà Nội hay không ở Hà Nội, ở Sài Gòn hay không ở Sài Gòn, đùng một cái trúng số mua được cái nhà là xong, đổi đời.
Mấy hôm sau, bác Hai qua, mừng rỡ: “Vé số của cậu trúng rồi. Mua vé số lần đầu trong đời mà trúng liền hà”. Hoàng bảo: “Chắc nhờ cái vía hên của bác Hai”.
Trúng số chẳng được bao nhiêu tiền nhưng Hoàng thật sự vui. Thỉnh thoảng trúng số cũng thích, thỉnh thoảng cũng cần trúng số để thấy đời mình vẫn còn may mắn và có thể còn nhiều may mắn đang chờ.
Hôm đó cũng là hôm Hoàng quen Thảo. Hoàng bảo, chuyện Hoàng quen Thảo là một bài hát riêng. Hoàng thích Thảo ngay từ cái nhìn đầu tiên, thích từ cái tên thích đi. Khi Hoàng vừa cùng Thảo bước chân vào quán, anh Tư Mắm đã hô: “Trúng số mới vô!”
Hay vậy đó, gọi vậy mà người ta vẫn mang cho Hoàng tô phở tái gân. Và Thảo ngồi bên Hoàng cười hoài.
5. Hoàng lưu tên Thảo trong điện thoại là Sa. Sa có nghĩa là cát. Chẳng hiểu sao Hoàng lại lưu tên Thảo như vậy. Thảo bảo: “Nick name của em là Solomon cơ mà, Solomon là một hòn đảo nhỏ”. Hoàng bảo: “Đảo nhỏ chắc chắn có cát”. Thảo bảo: “Đảo nhỏ cô đơn”. Có ai đó bảo: “Tất cả chúng ta đều cô đơn, kể cả những hạt cát”. Cô đơn là một cái cớ để người ta gặp nhau.
Thảo lưu tên Hoàng trong điện thoại là Jerry. Như trong phim “Tom và Jerry”. Trong mắt Thảo, Hoàng có vẻ giống một chú chuột chít hoạt bát. Hoàng nhớ có bài hát “Khi chuột yêu gạo”. Nếu Hoàng là chuột sao Thảo không là gạo mà lại là cát? Nghe thế đã thấy có mùi éo le. Vậy đã éo le thì éo le cho chót - éo le như phim Hàn Quốc. Ba mẹ Thảo có vẻ không muốn cho Thảo thương Hoàng. Vì Hoàng là người Bắc, ba mẹ Thảo sợ Thảo sau này lấy Hoàng sẽ phải ra Bắc sống. Người Bắc thì có gì đáng thương cơ chứ. Hoàng soi gương, thấy mình chẳng có tội tình gì. Cũng “mồm ngang mũi dọc tóc mọc trên đầu” như mọi người.
Thảo đưa Hoàng về giới thiệu với gia đình. Lễ nghĩa phép tắc phải như vậy. Em trai Thảo bảo: “Hiểu được anh nói gì em chết liền”. Giọng Hoàng giống giọng trên VTV1. Ở Sài Gòn người ta ít xem VTV1.
Chẳng biết nói chuyện gì, Hoàng Thảo và em Thảo lấy giấy ra vẽ. Hoàng vẽ ngôi nhà. Hoàng hay vẽ ngôi nhà. Những kẻ lang thang hay vẽ ngôi nhà. Những kẻ lang thang hay mơ một chốn đi về như những con tàu lênh đênh mơ một bến đỗ bình yên. Đôi khi Hoàng vẽ phố cổ - phố cổ Hà Nội, phố cổ Paris...
Thảo vẽ hoa. Thảo vẽ những bông hoa rum thon dài như những ngón tay. Em trai Thảo vẽ những chiếc ô tô. Bây giờ ai cũng thích ô tô. Từ bé Hoàng thích sách hơn. Chẳng lẽ lại vẽ những quyển sách. Sách không phải để vẽ mà để đọc.
Ba Thảo làm món gỏi gà. Ba mẹ Thảo có vẻ không muốn cho Thảo thương Hoàng nhưng vẫn đãi gỏi gà. Hoàng nghĩ ước gì có thể nhậu lai rai cùng ba Thảo.
Hoàng gọi căn phòng nhỏ Hoàng thuê lúc mới vào Sài Gòn là Tokyo. “In Tokyo where we happy together”. Trong bài hát Boulevard mà Hoàng hay lẩm nhẩm có câu như vậy. “Tokyo nơi ta đã cùng nhau hạnh phúc”. Boulevard là phố có những hàng cây. Phố Hoàng ở có phải là Boulevard không? Gọi căn phòng nhỏ Hoàng thuê lúc mới vào Sài Gòn là Tokyo vì căn phòng gợi nhớ Tokyo - Tokyo với những căn phòng chật hẹp không có cửa sổ. Ơn Chúa, Tokyo của Hoàng và Thảo có cửa sổ - cửa sổ nhìn ra Phòng cưới Vàng Son. Những đêm ngột ngạt không ngủ được Hoàng gí mũi vào chấn song cửa, hít thở không khí Sài Gòn đêm và ngắm những nét vàng son của Vàng Son.
Hoàng gọi Thảo là “Cô thư ký nhỏ của tôi”. Có những buổi chiều Thảo đến như cơn gió, nụ cười rạng rỡ, túi bánh ngọt mới nướng mua ở bên đường trong tay Thảo thơm phức. Hoàng pha trà đen với chanh vàng và mật ong, Hoàng và Thảo ngồi uống trà buổi chiều như thói quen của người Anh ở London xứ sở sương mù. Hoàng ngồi dịch và đọc cho Thảo đánh máy... Đến 5h chiều, Hoàng bảo: “Hết giờ làm việc chuyển sang giờ làm cái khác”. Hoàng và Thảo xem phim. Khi xem phim Hoàng hay hỏi: “Về sau anh ấy có lấy chị ấy không?”. Thảo bảo: “Để yên cho em xem phim”. Rồi đến lượt Hoàng bảo: “Để yên cho anh xem phim”. Bởi vậy, phim Hoàng và Thảo xem thường bị dài ra, xem cả tuần mới hết.
Hoàng cùng Thảo lang thang khắp nơi trong thành phố. Hoàng và Thảo lên đu quay “Bánh xe của Thần Gió”. Nhìn xuống dưới là thành phố. Nhìn xa xa là đất nước. Bên cạnh Hoàng là Thảo. Hoàng vốn bị bệnh sợ độ cao, bên Thảo, Hoàng bỗng thấy mình không còn sợ độ cao nữa.
Hoàng cùng Thảo đi chùa. Những ngôi chùa ở Sài Gòn màu sắc sặc sỡ và mùi hương cũng khác. Thảo bảo: “Em chỉ cầu một điều là làm sao để anh và em luôn hạnh phúc như thế này”. Trước kia Hoàng cứ nghĩ hạnh phúc chỉ là khoảnh khắc. Như thể mười bảy khoảnh khắc của mùa Xuân. Như thể mười bảy khoảnh khắc của tháng Ba.
Sài Gòn vẫn chưa tới mùa mưa. Ở miền Bắc có “rét tháng Ba bà già chết cóng” còn tháng Ba ở Sài Gòn dường như là tháng nóng nhất. Bởi vẫn chưa đến mùa mưa. Có những ngày Hoàng nằm nghe tiếng nước nhỏ từng giọt, như mưa. Đó là nước nhỏ xuống từ máy lạnh, Hoàng lấy chiếc chậu hứng và trong phòng vừa có không khí dịu mát, vừa có tiếng nước nhỏ từng giọt, như mưa.
Hoàng nằm nghe mưa, Hoàng chờ Thảo đến. Thảo hỏi Hoàng: “Tại sao anh chẳng than phiền điều gì ở đời?”. Hoàng bảo: “Có, anh có than phiền. Anh than phiền vì từ trước đến giờ em ở đâu mà không đến với tôi”. Còn lại thì tất cả chẳng có gì đáng phải để than phiền. Máy lạnh nhỏ nước thì Hoàng lấy chậu hứng và nằm nghe, như thể nghe mưa. Như thế tất cả mọi chuyện trên đời đều có ý nghĩa gì đó, nếu biết lắng nghe.
“Mười bảy khoảnh khắc của mùa Xuân” là tên một bộ phim truyền hình nhiều tập của Nga nói về cuộc đời của một điệp viên Liên Xô tên là Isaev hoạt động ở nước Đức Quốc Xã trong Chiến tranh thế giới thứ Hai. Trong bộ phim này có bài hát nổi tiếng “Khoảnh khắc này không phải là vô nghĩa”.
Nhưng rút cục, tất cả như đã qua. Ba mẹ Thảo cương quyết không muốn cho Thảo thương Hoàng. Thảo muốn nghe theo lời ba mẹ. Và có thể Thảo suy nghĩ thực dụng, Thảo muốn lấy chồng giàu chứ không phải lấy một người từ ngoài Bắc vào lập nghiệp như Hoàng. Hoàng và Thảo không gặp nhau nữa. Dường như chỉ còn lại trong ký ức mười bảy khoảnh khắc của tháng Ba... Thỉnh thoảng, Hoàng mua vé số. Thỉnh thoảng, Hoàng lại đến quán phở Tư Mắm để nghe gọi: “Tái gân mới vô”.