- 3 - ĐẨY ĂN MÀY ĐẾN CHỖ CHẾT
Tôi muốn viết lên câu chuyện buồn thảm, nhưng sao cái bộ mặt vui vui của lão Vojtíšek cứ nhìn chằm chằm vào tôi, khiến cho những lời đầu tiên lại có vẻ bông đùa. Nét mặt lão sáng sủa, mạnh khỏe và đỏ rực như miếng thịt quay tẩm thêm bơ ngày chủ nhật. Lão thường chỉ cạo râu vào trưa chủ nhật, cho nên cứ đến chiều thứ bảy, chòm râu trắng xóa của lão đã lại mọc tua tủa kín cằm, giống như một lớp bọt sữa phủ đặc, và như thế trông lão, tôi cảm thấy còn đẹp hơn mọi ngày. Tóc lão cũng đã bạc, chỉ có lưa thưa mấy sợi trên chóp đầu, ngày này qua ngày khác, cứ bạc dần từ dưới lên, nhưng không ngả màu trắng mà cứ vàng dần, óng ánh như những sợi tơ, nhè nhẹ lất phất trên đầu.
Lão Vojtíšek có cái mũ lưỡi trai, nhưng suốt ngày chỉ cầm trong tay, trừ khi nào nắng chói lắm lão mới đội lên một lúc. Tôi rất thích lão, tôi yêu đôi mắt xanh của lão luôn luôn ánh lên một vẻ thật thà. Trên cả bộ mặt của lão chỉ nổi lên có đôi mắt tròn và chân thành.
Lão Vojtíšek là một lão hành khất. Trước đó lão làm gì tôi không rõ. Chỉ biết lão đi ăn mày đã lâu lắm, vì nhân dân cả khu phố Malá Strana không ai còn lạ mặt lão. Mà cứ tầm vóc vạm vỡ của lão, thì lão còn có thể làm cái nghề ăn xin này đến mấy chục năm nữa. Tôi biết lão từ khi lão bắt đầu đến khu phố này ăn xin. Một lần, tôi thấy lão khập khiễng đi từng bước ngắn, ngược dốc Svatojanský lên phố Ostruhová, đến trước viên cảnh sát Šimr, lúc ấy đang đứng tựa thoải mái vào tay vịn để sưởi nắng. Šimr là tên gã cảnh sát béo phị, khắp phố ai cũng biết, béo đến nỗi cái áo khoác màu xám của y cứ ngày một rạn dần như muốn bật tung ra. Cổ của y nhìn từ phía sau lại - xin các bạn tha lỗi - tựa như một xâu dồi lợn căng rướn mỡ.
Đầu у to tướng, nhưng hễ hơi động một tí là cái mũ sắt bóng nhoáng của y lại lúc lắc muốn rơi. Cho nên mỗi lúc y chạy đuổi theo hành khách qua đường không theo đúng luật lệ, đi qua phố mà mồm vẫn ngang nhiên ngậm tẩu thuốc lá phì phèo, thì y lại phải vội vàng giữ khư khư chiếc mũ trong tay. Bọn trẻ con chúng tôi khoái chí cười theo, nhảy nhót, song hễ thấy y trợn mắt ngoái lại, là bỗng nhiên im bặt, lờ đi như không có chuyện gì xảy ra. Šimr vốn người Đức, quê ở Šlukov. Cho đến nay, giá y còn sống, tôi xin cam đoan y nói tiếng Tiệp vẫn dở lắm. Nhưng y vẫn thường khen lấy khen để: “Đấy, các ngài xem, tôi mới học một năm,...”
Lần ấy, lão Vojtíšek kẹp chiếc mũ vải bên nách trái, tay phải thọc sâu vào túi chiếc áo màu xám và dài thượt. Tận đằng xa, lão đã cúi chào Šimr và, theo thói quen, lão nói trước: “Lạy chúa lòng thành!” Šimr giơ tay chào lại.
Lão Vojtíšek rút trong túi áo ra cái ống thuốc làm bằng vỏ cây phơi khô, kéo móc da để mở nắp rồi đưa mời viên cảnh sát Šimr. Y hít một liều thuốc rồi bảo:
“Lão chắc cũng già rồi nhỉ? Bao nhiêu rồi?”
“À,” ông Vojtíšek mỉm cười, “đúng ra thì cũng sắp 80 năm rồi kể từ ngày cha tôi lấy làm vui mà sinh ra tôi.”
Bạn đọc nào theo dõi kỹ chắc sẽ ngạc nhiên, tại sao ăn mày lại dám nói năng với cảnh sát những lời suồng sã như vậy mà cảnh sát lại để yên. Giá người khác ở nhà quê lên, hoặc những người không quen biết, thì đừng hòng y bỏ qua cho. Đó là chưa kể đến oai phong quyền thế của cảnh sát thời bấy giờ! Họ đâu có phải như những người khác mà bảo suồng sã sao cũng được. Họ là ông Novák, ông Šimr, ông Kedlický, và ông Weisse; hàng ngày họ thay phiên nhau kiểm soát đường phố. Ông Novák người Slabec, tầm vóc nhỏ nhắn thường hay đứng trước các cửa hàng vì thích rượu mận; ông Šimr béo phị; ông Kedlický ở Vyšehrad, hay cau có, khó tính nhưng lại tốt bụng; và cuối cùng ông Weisse người Rožmitál, dáng to cao, dõng dạc, có bộ răng vàng khè. Có thể nói là nhân dân khu phố biết rõ lai lịch từng người: quê quán ở đâu, làm cảnh sát mấy năm, ở nhà có bao nhiêu con cái... Lũ trẻ con “láng giềng” chúng tôi cứ hay lân la với các ông ấy; nhờ thế họ đã nhẵn mặt từng đứa, thuộc lòng tên từng người trong phố, bất kể đàn ông hay đàn bà. Giá các mẹ muốn biết con họ hiện đang chơi chỗ nào, làm gì, các ông ấy có thể kể rõ từng kẽ tóc chân tơ. Nạn cháy bất ngờ xảy ra năm 1844 tại Renthauze, ông Weisse bị chết, cả phố Ostrhová đi đưa tang ông.
Còn lão Vojtíšek cũng không phải loại hành khất bình thường. Trông bề ngoài khó mà bảo lão là ăn mày. Nước da lão sạch sẽ, nếu không được cả ngày thì ít ra cũng buổi sáng. Cái khăn quàng cổ bao giờ cũng quấn gọn ghẽ phân minh. Chiếc áo của lão tuy có đôi chỗ vá, nhưng những mảnh vá trông không đến nỗi lố lăng, thô bỉ như những miếng tôn đắp lên, mà cũng không phải bằng một thứ vải màu quá sặc sỡ. Bao giờ cũng vậy, cứ cuối tuần lão đi xin hết lượt phố Malá Strana từ đầu chí cuối. Nhà nào lão cũng mò vào, và hễ các bà nội trợ nhận ra giọng nói dịu dàng của lão là đã cầm sẵn ba xu; ba xu hồi đó là khá nhiều. Lão bắt đầu đi xin từ sáng tinh mơ cho tới trưa rồi sau đó lão ghé vào nhà thờ Thánh Mikuláš. Điều đáng chú ý lão chẳng xin trước cửa nhà thờ bao giờ, thậm chí không bao giờ để ý đến những người đàn bà ăn mày đang quỳ ở đó. Rồi lão đi ăn ở một chỗ nào đấy, lão biết là ở đó người ta để dành cho lão một bát đầy thức ăn từ bữa trưa. Trong cả cuộc đời cũng như trong việc làm của lão như có một cái gì bình thản và phóng khoáng khiến cho Storm đã có lần nói lên bằng một câu khôi hài và cảm động:
“Ach koennt’ ich betteln geh’n ueber die braune Haid!”[16]
Chỉ riêng mỗi tên chủ quán Herzl trong nhà chúng tôi ở suốt đời chẳng cho lão được lấy một đồng ba xu. Người hơi cao, tính tình bủn xỉn, hắn ta có một cách đối xử đặc biệt. Mỗi lần gặp lão, để khỏi mất tiền, hắn xẻ từ hộp thuốc của mình cho lão một chút thuốc lá. Thường thường cứ đến chiều thứ bảy, thể nào lão cũng gặp hắn trước cửa tiệm ăn, hai người lại chuyện trò rối rít, nhưng nội dung câu chuyện thì lần nào cũng chỉ nhắc đi nhắc lại mấy câu:
“Ông Vojtíšek ạ, ta sống phải cái thời buổi khó khăn.”
“Đúng thế, nhưng mà chừng nào tượng sư tử chưa xuống đánh đu ở Lâu đài thượng thì còn là khốn khó, đấy bác xem có thật không?”[17]
Ý lão muốn nói đến pho tượng sư tử ở trên tháp nhà thờ Thánh Vít. Nhưng câu nói của lão làm tôi nghĩ mãi mới hiểu ra, tuy thế tôi vẫn cảm thấy bối rối. Hồi ấy, tôi lên tám, tuy đã có chút ít hiểu biết của một cậu thiếu niên lanh lợi, nhưng dù sao qua câu nói của lão tôi không thể không liên tưởng một cách ngây thơ đến chiếc đu đến tận bên kia cầu đá, dọc lối đi lên Lâu đài thượng; mỗi khi trẩy hội mùa xuân tôi thường lên đến đấy đánh đu. Còn cái lão ý bảo chừng nào sư tử chưa xuống đánh đu thì thực tình khó quá, tôi chưa hiểu nổi.
Một ngày tháng sáu tuyệt đẹp. Lão Vojtíšek đi từ trong nhà thờ Thánh Mikulaš ra, lão chụp chiếc mũ lưỡi trai lên đầu cho ánh mặt trời đỡ rọi vào mắt. Lão bước đủng đỉnh từng bước qua chỗ mà bây giờ gọi là Quảng trường Štěpán. Tới pho tượng Ba Ngôi, lão dừng lại và buông mình ngồi bệt xuống bệ đá. Phía sau lưng, nước ở đài phun nước róc rách chảy, mặt trời sưởi ấm, không khí lúc này dễ chịu làm sao! Chắc là hôm nay lão ăn trưa ở nơi nào có bữa mãi sau 12 giờ.
Lão vừa kịp ngồi xuống, thì một trong số những mụ đàn bà cũng nghề ăn xin như lão thong thả bước từ phía cửa nhà thờ lại gần lão. Mụ này được người ta gọi là “mụ Triệu”. Mọi người đàn bà ăn mày khác thường cám ơn là trời sẽ đền đáp người bố thí tới một trăm nghìn lần quà cho, nhưng mụ này thì luôn nói “hàng triệu lần và hàng triệu lần” vì thế mà bà viên chức Hermannova, người chuyên đi các nơi bán đấu giá ở Praha, chỉ bố thí cho mụ thôi. Mụ Triệu thật khéo giả vờ, lúc thì hai chân đi khập khiễng ra vẻ què quặt, lúc lại lon xon chẳng khác gì con gái, nghĩa là mụ muốn sao thì được thế. Giờ đây mụ ngay ngắn bước lại chỗ lão Vojtíšek ngồi. Chiếc váy đụp của mụ dài lê thê quét đất, bọc lấy bộ xương hom khô cằn của mụ; chiếc khăn xanh rũ xuống trước trán, bay lất phất trước khuôn mặt của mụ trông rất kỳ dị. Đặc biệt là mụ có một vết nhăn, nhỏ như sợi bún, kéo dài suốt từ trán qua chiếc sống mũi nhọn hoắt của mụ, rồi thẳng xuống tận mồm. Đôi mắt của mụ màu xanh đục lẫn màu vàng, giống hệt như mắt mèo.
Mụ tiến lại sát hẳn bên lão Vojtíšek, nhọn mồm nói một giọng ngọt xớt:
“Lạy Chúa!”
Lão Vojtíšek gật đầu, tỏ vẻ bằng lòng với lời chào cầu nguyện của mụ.
Mụ thong thả ngồi xuống một góc thềm đá cạnh lối lên xuống, trách nhẹ một câu:
“Trời gì mà cứ nắng mãi thế này, tối về lại ngạt mũi thôi.”
Lão Vojtíšek vẫn ngồi yên.
Mụ Triệu từ từ kéo chiếc khăn tụt xuống sau lưng, bây giờ có thể trông thấy rõ cả gương mặt của mụ. Đôi mắt lim dim như mắt mèo sưởi nắng, và đôi lúc nhắm tịt lại chỉ còn như hai hạt cườm màu xanh đục. Mồm mụ lúc nào cũng mấp máy, mỗi lúc mở ra chỉ thấy độc một chiếc răng hàm trên đen sì.
“Này ông Vojtíšek, ông có thuận tôi mới nói,” - mụ bắt chuyện.
Lão Vojtíšek vẫn lặng yên, quay người về phía mụ và nhìn chằm chằm vào mồm mụ:
“Tôi nghĩ, ở đây chỉ có ông, ước gì ông chỉ bảo cho tìm đâu cho ra những người tử tế.”
Lão Vojtíšek không đáp.
“Sao ông cứ nhìn chằm chằm vào tôi thế?” - Mụ hỏi. “Có gì lạ mà ông nhìn?”
“Tôi nhìn cái răng! Sao, mụ chỉ có mỗi cái răng thôi à?”
“À, ra chiếc răng - tưởng cái gì”, mụ thở dài một hơi nhẹ nhõm, lại nói tiếp, “ông có biết ở đời rụng một chiếc răng là mất một người bạn tốt không? Bầu bạn thân thiết đã xuống lỗ cả rồi, chẳng còn ai. Còn một chiếc răng là còn một người. Nhưng nào biết người ấy ở đâu! Lạy Chúa, Chúa thương cho những kẻ cô đơn, Chúa cho tôi biết người bạn hiền trong quãng đời còn lại của tôi bây giờ ở đâu. Lạy Chúa, thân tôi sao mà cô đơn thế này!”
Lão Vojtíšek nhìn về phía trước, vẫn lặng yên.
Câu nói của mụ như có một nụ cười, một niềm vui dội vào lòng kẻ hành khất, nhưng bên cạnh đó có cái gì xấu xa, khó cảm. Mồm mụ bĩu ra dài thượt, mỗi khi nói, da mặt của mụ co rúm lại, dồn vào đôi môi trông tựa như một cái núm quả.
“Ông Vojtíšek! Ông Vojtíšek, hai ta còn có thể chung vui được kia mà. Tôi cứ ngày đêm mơ tưởng đến ông, và tôi nghĩ, Chúa cũng muốn như thế. Mà sao ông cứ ở một mình mãi, đi sớm về khuya, không ai trông nom đỡ đần. Chỗ nào ông cũng có bè bạn quen biết, đi đến đâu ông cũng gặp toàn người tốt. Chao, giá mà ông thương đến tôi... tôi còn một mảnh chăn bông…”
Trong khi đó lão Vojtíšek từ từ đứng dậy. Lão nắn lại cái vành da trên cái mũ lưỡi trai rồi đáp:
“Bước đi cho rồi!” Nói xong lão quay đi, không thèm chào mụ.
Lão lại thong thả trở về phố Ostruhová. Cặp mắt xanh lè của mụ long lên như hai ngọn đèn pha đuổi theo lão, cho mãi tới khi lão rẽ ngang mới thôi.
Mụ Triệu kéo lại chiếc khăn trùm kín mặt rồi ngồi đó một hồi lâu, không động đậy. Có lẽ mụ đã thiếp đi.
Bỗng nhiên bao câu chuyện vô căn cứ bắt đầu truyền đi khắp khu phố Malá Strana. Và người nào nghe đến tai, cũng đều thốt ra một câu mai mỉa: “À, ra cái lão Vojtíšek ghê thật!” Câu chuyện về lão cứ truyền đi hết người này qua người nọ, và chốc chốc lại nghe người ta nhắc: “Lão Vojtíšek ghê thật!”.
Chẳng bao lâu, tôi truy ra đầu đuôi câu chuyện. Người ta đồn rằng lão Vojtíšek có hai ngôi nhà riêng ở phố František tận phía bên kia sông, còn câu chuyện mà xưa nay người ta vẫn tin, bảo là lão ở Bruska đều là dối trá cả. À, ra lão Vojtíšek đã lợi dụng lòng tốt của bà con làng xóm. Mà đâu có phải chỉ trong chốc lát!
Người ta bực mình với lão. Cả giới đàn ông ở khu phố Malá Strana đều cảm thấy mình quá dễ dãi, quá nhẹ dạ tin người.
“Đồ xỏ lá!” Một người nói.
“Mà đúng thế”, một người khác phân giải tỉ mỉ hơn, “có ai thấy y đi ăn mày ngày chủ nhật không nào? Chủ nhật y ngồi nhà: lầu cao cửa rộng, phè phỡn, thịt quay có người bưng đến tận mồm!”
Các bà phụ nữ hãy còn chưa tin lắm. Họ còn ngờ vực, thấy trên vẻ mặt của lão Vojtíšek có cái gì chân thực quá, lẽ nào lại làm những điều gian dối như vậy.
Người ta còn đồn bao nhiêu chuyện khác về lão, đâu lão có hai cô con gái và cô nào cũng kiêu kỳ. Một cô lấy chồng trung úy, còn cô kia sắp vào làm trong rạp hát. Tay lúc nào cũng đeo găng và ngày ngày vẫn thường lên Stromovka dạo mát.
Nghe đến đây, trong đám phụ nữ không còn ai phải ngờ vực nữa, hình như câu chuyện đã rõ như ban ngày. Và chỉ trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ, cuộc đời của lão Vojtíšek đã hoàn toàn khác trước. Rồi cũng từ giờ phút ấy, bất cứ nhà nào, hễ thấy lão mò đến cửa là người ta đều khép cửa lại và bảo với lão: “Bữa nay không có gì ăn cả” hoặc “Bây giờ, thời buổi khó khăn, chúng tôi nghèo lắm! Ngày hai bữa ăn đậu, làm gì có của thừa, mà ông thì ăn đâu những thứ ấy!”
Bọn trẻ con khu phố cũng bắt đầu chế nhạo lão; hễ gặp lão, là chúng nhảy nhót reo hò ầm ĩ:
“Ông chủ nhà! A, ông chủ nhà!”
Một hôm vào ngày thứ bảy, trong lúc tôi đang đứng trước cửa, thấy lão Vojtíšek từ từ bước lại! Chủ quán Hezl vẫn ăn mặc như thường lệ, y khoác trước ngực một cái tạp dề vải trắng và đứng dựa vào khung cửa đá. Như có một điểm quái gở gì báo trước, tôi bỗng hoảng sợ bỏ chạy nấp vào phía sau cổng. Tôi hé nhìn thấy rõ ràng lão Vojtíšek đang đi lại gần.
Chiếc mũ lưỡi trai run lên trong bàn tay của lão. Hôm nay lão không còn nụ cười tươi tỉnh như mọi khi nữa. Đầu lão rũ xuống, mấy sợi tóc vàng nhạt của lão rối tung. Lão chào bằng một giọng bình thường: “Giê-xu!”. Lúc này đầu lão ngẩng lên một tí, để lộ ra bộ mặt tái ngắt, đôi mắt trông ủ rũ như trong cơn ngái ngủ.
“Ôi, may quá, ông đến thật đúng lúc.” - Hezl hăm hở chào lão - “Ông Vojtíšek này, ông liệu có cho tôi vay tạm hai mươi nghìn được không? Ông đừng sợ mất, cũng như ông để dành ấy thôi mà. Tôi định tậu một ngôi nhà ở cạnh nhà Bên con Thiên nga ấy mà.”
Y chưa nói hết lời, thì bỗng nhiên hai mắt lão đã ứa đầy lệ, lão nghẹn ngào:
“Cả đời người... tôi... có nói dối ai bao giờ!”
Lão từ từ tạt qua phía bên kia đường tới gần một góc phố, rồi ngồi gục xuống vỉa hè cạnh tường. Lão úp mặt xuống hai đầu gối và khóc lên nức nở...
Lão Vojtíšek không bao giờ trở lại ăn mày ở khu phố Malá Strana nữa. Qua bên kia sông lão không quen ai, và cảnh sát bên ấy cũng không quen mặt lão thì làm sao mà lần mò vào nhà người ta được. Hàng tuần, cứ chiều thứ năm khi sang Phố Cổ để xem sách mới trưng bày ở các hiệu sách, tôi thường gặp lão ngồi thờ thẫn ở góc phố Křižovnická, ngay trước mặt đồn cảnh sát đầu cầu. Chiếc mũ lưỡi trai của lão nằm ngửa dưới đất, thân hình lão tiều tụy, đầu gục xuống, tay cầm tràng hạt mân côi và lão cũng không để ý đến người qua lại. Nước da, khuôn mặt, cho đến bàn tay của lão, không còn hồng hào như xưa nữa; tất cả đã ngả màu vàng nhợt nhạt và trên thân thể của lão toàn những vẩy ghét bám chằng chịt... Hàng tuần, cứ chiều thứ năm, mỗi lần đi qua trước mặt lão, tôi chỉ khẽ lén lại gần, quẳng cho lão một hai xu vào mũ, rồi lập tức lại phải lánh xa ngay.
Sau đó, tôi còn gặp lão một lần nữa trên cầu. Đó là lúc lính cảnh sát đưa lão về khu phố Malá Strana. Và cũng là lần cuối cùng, tôi không bao giờ trông thấy mặt lão nữa.
Một buổi sáng tháng hai lạnh giá. Ngoài trời hãy còn tờ mờ; trên các ô cửa kính nước kết thành những tinh thể như những bông hoa; ánh lửa từ các lò sưởi rọi vào trông lấp lánh đỏ rực. Ngoài đường nghe có tiếng bánh xe lạo xạo, tiếng chó sủa.
“Con chạy ra mua cho mẹ hai gù sữa, nhưng nhớ quàng kín cổ lại nghe!” Mẹ sai tôi đi mua sữa.
Một thiếu phụ đứng trên xe bán sữa. Sau xe là ông Kedlický. Ngọn nến trong chiếc đèn kính hình vuông đã gần cháy hết.
“Có chuyện gì thế hả ông? Chao ôi, lão Vojtíšek chết rồi à?” Thiếu phụ hoảng hốt hỏi ông Kedlický, trong khi đó chị dừng tay không khuấy chiếc thìa gỗ vào thùng sữa nữa. Cái nghề bán sữa, tuy luật lệ cấm không được làm như vậy, song cảnh sát Kedlický có trông thấy cũng chẳng sao, tôi đã bảo, lão này hiền lắm.
“Chứ còn ai nữa”, ông Kedlický trả lời thiếu phụ. “Chúng tôi tìm thấy xác lão hồi nửa đêm ở Oujezd, lối rẽ qua trại lính. Lão chết rét, chúng tôi phải đưa xác lão vào khu nghĩa địa gần Karmelitán. Lão mặc độc một chiếc áo ngoài rách tả tơi và một chiếc quần cũ, áo lót cũng chẳng có.”
DƯƠNG TẤT TỪ dịch