- 10 - BUỔI THÁNH LỄ ĐẶC BIỆT
Tôi ngồi ở chân cầu thang dẫn lên gác đàn và cố nén thở. Qua cánh cửa mắt cáo khép lại, tôi nhìn thấy rõ nội thất của Thánh đường; về phía tay phải trông tới tận lăng chạm bạc của Thánh John Baptist, nhìn ngang sang bên kia thì tới tận phòng Thánh. Lễ ban phước lành buổi chiều đã qua từ lâu, Thánh đường mang tên Thánh Vít[26] lúc này vắng tanh. Chỉ còn mẹ tôi, một người đàn bà ngoan đạo, đang quỳ gối và đắm chìm trong cầu nguyện bên lăng Thánh John Baptist, và một người nữa là ông già coi nhà thờ. Ông đi từ phía điện thờ Đức Thánh Václav[27] ra để làm vòng kiểm tra cuối cùng trong ngày. Ông lướt qua chỗ tôi ngồi, cách tôi khoảng ba bước, rồi rẽ sang cửa ra vào bên dưới cung nguyện Hoàng gia. Ông lắc xủng xoảng chùm chìa khóa, khóa cửa lại, còn ấn vào tay nắm cửa nữa để kiểm tra cho chắc chắn. Rồi ông đi tiếp. Lúc đó, mẹ tôi cũng đứng dậy, làm dấu thánh giá rồi rảo bước cạnh ông. Hai người đi khuất sau lăng Thánh John Baptist, tôi chỉ còn nghe thấy tiếng chân bước và tiếng nói chuyện của họ, rồi cả hai xuất hiện ở phía bên đối diện, bên cạnh hậu cung. Ông già coi nhà thờ đóng sầm cửa, tra chìa vào ổ khóa và khóa cửa lại, rồi đi cùng mẹ tôi đến cửa ra vào bên phải. Thêm hai tiếng cài then cửa sắt nữa và tôi bỗng nhiên ở lại một mình trong Thánh đường đã khóa cửa. Một cảm giác kì lạ làm tôi rùng mình, tôi thấy lưng tôi nóng lên, nhưng cảm giác ấy không phải là không thoải mái.
Tôi đứng bật dậy, rút ở túi ra một cái khăn mùi xoa để buộc chặt tấm cửa mắt cáo, vì nó chỉ được cài bằng chốt cửa. Sau đó, tôi bước nhanh lên cầu thang tới chiếu nghỉ, nép người vào tường rồi ngồi xuống bậc thang. Tôi làm như vậy vì muốn cẩn thận. Tôi đã tin chắc rằng cửa vào Thánh đường sẽ được mở ra lần nữa, rồi sẽ có những con chó, chuyên làm chó canh ban đêm của nhà thờ, phóng vào. Các lễ sinh chúng tôi chưa bao giờ trông thấy các con chó ấy, cũng không bao giờ nghe thấy chúng sủa ở đâu, nhưng chúng tôi kể cho nhau rằng chúng là ba con chó đốm to lớn, hung dữ, trông giống như con chó của Thánh Václav ở bức tranh treo trên bàn thờ chính. Việc chúng không bao giờ sủa là biểu hiện của sự dữ tợn nham hiểm của loài chó.
Tôi biết là những con chó lớn biết tự mở cửa, vì vậy tôi đã dùng khăn mùi xoa buộc chặt cửa phía dưới chân cầu thang. Tôi cho là làm như vậy thì những con chó ấy không thể đi lên gác đàn được. Và sáng hôm sau, khi người coi nhà thờ dẫn chúng đi, thì tôi lại có thể đi xuống một cách an toàn. Vâng, tôi sẽ ngủ qua đêm ở Thánh đường Vít. Tất nhiên đó là điều bí mật, nhưng rất quan trọng. Lũ con trai chúng tôi biết chắc chắn là hàng ngày, nhất là vào lúc nửa đêm, Thánh Václav làm chủ tế thánh lễ ở trong điện của mình. Tôi phải thú nhận rằng chuyện ấy do tôi loan báo cho các bạn mình. Tôi đã được biết chuyện ấy từ một nguồn tin tốt và đáng tin cậy. Ông già coi nhà thờ tên là Havel, nhưng vì cái mũi dài khác thường của ông mà người ta gọi ông là Havel Gà Tây. Chính ông đã kể chuyện ấy cho bố mẹ tôi nghe, đồng thời trong lúc kể, ông đưa mắt nhìn tôi một cách khác lạ. Lập tức, tôi hiểu rằng ông không muốn tôi biết chuyện ấy. Tôi đem chuyện kể cho hai đứa bạn thân nhất của mình. Chúng tôi thống nhất với nhau là sẽ đi xem buổi lễ thánh vào nửa đêm, bởi Đức Thánh Václav là thần tượng của chúng tôi. Tất nhiên là tôi được ưu tiên, và thế là hôm nay, là người đầu tiên trong bộ ba, tôi ngồi một mình ở gác đàn, bị đóng cửa và bị ngăn cách với toàn bộ thế giới bên ngoài.
Tôi biết là hôm nay, ở nhà sẽ không ai tìm tôi. Tôi đã nói dối mẹ, nói dối khéo đến mức mà đứa con trai chín tuổi tài năng nào cũng phải lấy làm tự hào, rằng cô chúng tôi ở bên Thành phố Cổ muốn tôi chiều nay sang bên nhà cô. Dĩ nhiên là tôi sẽ ngủ lại ở đó, nhưng sáng hôm sau tôi sẽ lại đi cầu nguyện sớm và sẽ giúp lễ theo đúng phận sự của lễ sinh. Nếu sau này mà có tiết lộ bí mật, thì bao giờ tôi cũng có thể kể về việc thấy Đức Thánh Václav làm chủ tế lễ thánh như thế nào! Tôi nghĩ tôi sẽ trở thành người đặc biệt, gần giống như bà Wimmrová, mẹ của anh Wimmr, thợ mộc ở Hradčany. Vào thời có dịch tả, nghe bảo bà ấy tận mắt trông thấy nữ tu sĩ dòng Capuchin, cô Maria, mặc áo choàng bằng vàng, đi trên quảng trường Loretán vào ban đêm và vẩy nước thánh vào các ngôi nhà ở đó. Thuở ấy, mọi người đều hi vọng là sẽ tránh khỏi dịch bệnh, ai ngờ chính ở những ngôi nhà ấy, bệnh còn hoành hành dữ tợn hơn trước. Rồi sau đó, người ta mới giải thích việc đó là tại cô Maria đã vẩy nước thánh vào những ai sẽ lên thiên đường gặp cô.
Có lẽ bất kì ai trong chúng ta, dù chỉ trong khoảng khắc, cũng có lần ở trong điện thờ một mình và biết cái không gian rộng lớn, yên tĩnh trang nghiêm ấy tác động mạnh mẽ lên cảm giác như thế nào. Tất nhiên, đối với một đứa trẻ giàu trí tưởng tượng luôn chờ đợi những sự việc hoàn toàn không bình thường, thì ấn tượng đó càng được tăng lên gấp bội. Tôi đã chờ một lúc, đồng hồ điểm mười lăm phút, nửa giờ, tiếng đồng hồ vọng vào nhà thờ rõ mồn một, nhưng ở phía cửa hoàn toàn không thấy có động tĩnh gì. Hay là hôm nay người ta cho rằng không cần phải canh nhà thờ chăng? Hay là phải đến lúc tối hẳn người ta mới thả chó ư?
Tôi đứng dậy và từ từ thẳng người lại. Ánh sáng ban ngày đã mờ nhạt chiếu qua cửa sổ lớn chỗ gần tôi nhất. Bây giờ là cuối tháng mười một, sau lễ thánh Kateřina, ngày đang rút ngắn lại. Có ít tiếng động từ bên ngoài vọng vào, nhưng mà khi đã có thì chúng đều vang lên rất to. Vào buổi tối, ở đây im ắng buồn thênh. Có lúc tôi nghe thấy bước chân đi nặng nề của ai đó. Một lúc sau, tôi nghe thấy nhiều bước chân hơn và tiếng nói to ồn ồn của hai người đàn ông đi qua. Rồi có tiếng ầm sâu trầm từ xa vọng tới. Một cỗ xe nặng đi ở phía cổng dẫn vào Lâu đài. Tiếng ầm nghe rõ hơn, chắc xe đã đi qua cổng và đang tới khu lân cận nhà thờ. Tiếng xe lăn mỗi lúc một gần hơn, lớn hơn, rồi tiếng lộp cộp của vó ngựa, tiếng loảng xoảng của dây xích nặng, tiếng lộc cộc của bánh xe lớn, chắc hẳn đó là xe quân sự đang đi vào doanh trại hoàng gia. Tiếng xe lăn ầm ầm, mạnh đến mức làm rung cả cửa sổ nhà thờ; ở một chỗ nào đó bên trên gác đàn vang lên tiếng chíp chíp không yên của chim sẻ. Tôi thở phào khi nghe thấy tiếng chim. Cảm giác là ở chỗ nào đó trong nhà thờ có con vật sống làm tôi nhẹ nhõm.
Đúng ra thì tôi không thể nói rằng tôi sợ hãi khi ở một mình trong nhà thờ. Vì tại sao mà sợ chứ? Mặc dù nhận thức được cái bất thường của việc đang làm, nhưng tôi không nghĩ tôi làm gì sai trái. Không một cảm giác có tội nào giày vò tâm hồn tôi, trái lại, tôi cảm thấy phấn chấn, thấy đó là điều cao siêu. Cái hào hứng sốt sắng về tín ngưỡng như làm tôi trở thành sinh linh đặc biệt và cao thượng. Trước đó, và thú thật cả sau này, không bao giờ tôi cảm thấy mình hoàn hảo như thế, đáng được mọi người ghen tị như thế. Giá mà một đứa trẻ có khả năng tự mãn ngu ngốc như người lớn thường xử sự thì tôi đã có thể nghiêng mình tự khâm phục mình. Ở những nơi khác, vào những lúc khác, có thể tôi sợ ma chẳng hạn, nhưng mà ở trong nhà thờ thì ma quỷ không thể có một quyền lực nào cả! Còn linh hồn của các vị thánh yên nghỉ ở đây thì sao? Hôm nay tôi chỉ có việc với Đức Thánh Václav thôi. Chắc chắn Ngài sẽ lấy làm mừng vì tôi, rằng tôi bạo dạn đến thế này cũng chỉ để được nhìn thấy sự linh thiêng của Ngài, nhìn thấy Ngài làm thánh lễ thờ trời. Nếu Đức Thánh muốn, tôi sẽ sẵn sàng giúp lễ biết nhường nào, tôi sẽ chú ý đến nhường nào khi nâng Kinh Thánh, cũng như khi lắc chuông để không lắc nhiều hơn mức cần thiết, dù chỉ duy nhất một lần! Tôi cũng muốn kéo ống thổi ở đàn phong cầm và sẽ hát, sẽ hát bằng giọng cao thánh thót, hay đến mức Thánh Václav phải bật khóc, sẽ đặt hai bàn tay lên đầu tôi mà nói: “Con là đứa trẻ ngoan ngoãn!”
Đồng hồ điểm năm giờ chiều, tiếng điểm giờ vang to làm ngắt quãng dòng suy nghĩ lan man của tôi. Tôi rút quyển sách từ túi sách đeo ở vai, đặt lên lan can và bắt đầu đọc. Mặc dù trong nhà thờ đã tối mờ, nhưng vẫn còn đủ cho mắt người trẻ đọc sách. Chỉ có điều là bất kì một tiếng động nào, dù là nhỏ nhất, vọng đến từ bên ngoài cũng đều gây rối tôi. Nó làm tôi ngừng đọc cho đến tận lúc ngoài đó lại hoàn toàn im lặng. Tự nhiên, tôi nghe thấy tiếng những bước chân ngắn ngủi vội vàng tiến tới gần, rồi dừng lại ở bên cửa sổ. Ngay lập tức, tôi vui mừng nhận thấy bên ngoài là hai đứa bạn của tôi. Một tiếng huýt sáo đặc biệt, dấu hiệu ưa thích của chúng tôi, vang lên ngoài cửa sổ. Tôi run người sung sướng thấy bạn bè vẫn nghĩ đến tôi. Vậy là chúng nó đã lại đến đây. Khổ thân chúng nó, có thể vì thế mà khi về nhà chúng nó sẽ bị ăn đòn! Đồng thời, tôi cũng run người vì tự hào, rằng chắc bây giờ các bạn tôi đang rất khâm phục tôi, rằng chúng nó chắc rất muốn được ở vào địa vị của tôi, dù chỉ trong một tiếng đồng hồ... rồi cả đêm chúng sẽ không ngủ được! Còn tôi, tôi muốn biết bao, nếu được để chúng vào đây với tôi một tiếng đồng hồ!
Bây giờ có tiếng huýt sáo của Fricek. Vâng chính nó rồi, con trai ông thợ giày, làm sao mà tôi chẳng nhận ra! Tôi rất quý Fricek. Tội nghiệp, cả ngày hôm nay nó chẳng gặp may mắn gì cả. Ngay từ buổi lễ thánh đầu tiên lúc sáng sớm, nó đánh đổ nước lên giày của cha cố, vì nó cứ luôn nhìn ngó đâu đâu khắp nhà thờ, chứ không nhìn vào cha. Buổi chiều, nó lại bị thầy giáo bắt quả tang lúc đang hôn cái Anynka, con gái thầy hiệu trưởng và trao thư cho Anynka. Tất cả ba đứa chúng tôi đều thích Anynka và Anynka thì cũng thích cả ba. Tôi nghe thấy tiếng huýt sáo nữa, lần này thì là tiếng huýt của Kubíček. He he, Kubíček! Giá mà tôi cũng được huýt sáo, hoặc nói to một tiếng để trả lời chúng nó, nhưng mà không được, vì tôi đang ở trong nhà thờ. Hai đứa bạn tôi cố ý nói chuyện to để tôi nghe được, có lúc chúng nó hét lên, nhưng tôi chỉ nghe lõm bõm được mấy từ: “Mày ở đó hả?”... “Này, có ở đấy không?”... “Có sợ không?” “Tao đây! Không sợ!”, tôi nói thầm. Khi có người nào đi qua, cả hai đứa đều chạy khỏi đó một đoạn, rồi lại quay lại. Tôi có cảm giác như nhìn xuyên được qua tường, trông thấy được mọi cử động của chúng nó, và miệng tôi luôn nở nụ cười. Bất chợt, một tiếng đập đánh cốp ở cửa sổ làm tôi giật mình! Chắc hẳn hai đứa ném viên đá vào cửa sổ. Rồi lại tiếng nữa! Vào lúc đó, ở gần đấy có tiếng người đàn ông nói to. Tôi nghe thấy tiếng quát tháo của ông ấy và tiếng các bạn tôi bỏ chạy. Hai đứa không quay trở lại nữa, còn tôi cứ ngong ngóng chờ, vô vọng…
Lần đầu tiên, tôi run người vì một cảm giác nhớ nhung. Tôi nhét quyển sách vào cặp, đi sang lan can ở phía đối diện và nhìn xuống phía dưới nhà thờ. Tôi có cảm tưởng là nó buồn hơn trước đây, chính nó buồn chứ không phải là do trời đã tối. Tôi nhận ra được tất cả mọi thứ xung quanh, dù cho có tối hơn nữa tôi cũng nhận ra được, vì tôi biết tất cả. Nhưng tôi như thấy ở các cột và cả ở các bàn thờ đều có phủ các tấm vải dài màu xanh dùng vào mùa thương khó. Chúng bao phủ lên mọi thứ một bằng một màu gì đơn điệu hay là cái gì không màu sắc. Tôi nghiêng người qua lan can. Ở bên phải, phía dưới phòng nguyện Hoàng gia, có ngọn đèn vĩnh cửu không bao giờ tắt. Ngọn đèn ấy nằm trong tay bức tượng người nữ thợ mỏ bằng đá gắn trên cột, với quần áo mang màu sắc giống như thật. Ngọn lửa nhỏ bé chiếu thầm lặng như ngôi sao nhỏ yên tĩnh nhất trên bầu trời, và chẳng hề lay động. Bên dưới ánh sáng ấy, tôi thấy nền nhà thờ được chia ra thành từng ô, thấy một dãy ghế bóng màu nâu tối phía đối diện, thấy mờ mờ một dải bằng vàng trên tấm áo của bức tượng gỗ một vị thánh ở trên bàn thờ gần nhất. Tôi không sao nhớ ra được bức tượng ấy hình thù ra sao trong ánh sáng ban ngày. Mắt tôi quay trở lại bức tượng người thợ mỏ. Từ phía dưới, ngọn lửa nhỏ hất ánh sáng lên đôi má tròn của tượng, khiến nó giống như một quả cầu màu đỏ nhem nhuốc và không hoàn thiện. May mà tôi không trông thấy đôi mắt lồi của bức tượng, đôi mắt mà chúng tôi sợ cả vào ban ngày. Xa xa một chút là lăng Thánh John. Ánh sáng tối dần trên lăng làm tôi không nhìn thấy rõ được cái gì. Rồi mắt tôi lại quay trở về bức tượng người thợ mỏ. Tự nhiên, tôi có cảm giác rằng cái đầu của bức tượng như cố tình ngả về phía sau, như thể đang cười một cách tinh nghịch ranh mãnh, và cái màu đỏ trên má cũng là do cười, một nụ cười đầy bí ẩn. Có thể là bức tượng đang nheo mắt nhìn tôi và cười tôi nữa. Rồi tôi sợ. Tôi nhắm mắt lại và tụng kinh. Ngay lập tức, tôi lại thấy trong người nhẹ nhõm hơn. Tôi đứng dậy và lại mạnh dạn nhìn pho tượng thợ mỏ. Ngọn lửa nhỏ tiếp tục yên lặng tỏa sáng. Đồng hồ trên tháp điểm bảy giờ tối.
Nhưng lúc này, tôi có một cảm giác khó chịu khác. Tôi rùng mình vì rét. Bên ngoài, trời giá lạnh và khô, tất nhiên bên trong nhà thờ rất rét. Mặc dù tôi đã mặc nhiều quần áo, nhưng cũng không phải là quá nhiều để đủ chống rét. Thêm vào đó, tôi bắt đầu thấy đói. Giờ ăn chiều thường lệ đã qua rồi, và tôi đã hoàn toàn quên không mang theo cái gì để ăn cả. Tôi quyết định sẽ chống lại cái đói một cách dũng cảm. Tôi coi đó là sự chuẩn bị xứng đáng cho niềm sung sướng hạnh phúc tôi sẽ có lúc nửa đêm. Nhưng mà cái rét căm căm cứ ngấm dần vào da thịt, không thể chống lại nó chỉ bằng ý nghĩ được. Tôi cần phải cử động để cho ấm người lên một chút. Tôi đi đi lại lại ở gác đàn và đi đến tận cái đại phong cầm. Phía sau nó là cầu thang dẫn lên gác đàn chính. Vì biết những chỗ này rất rõ, tôi bước lên cầu thang. Bậc thang đầu tiên cọt kẹt làm tôi nghẹn thở. Nhưng tôi vẫn tiếp tục đi lên, từ từ và thận trọng, giống như chúng tôi vẫn thường làm vào những ngày lễ. Bao giờ chúng tôi cũng cố đi thật nhẹ nhàng để người phục vụ ống thổi đàn phong cầm không nghe thấy tiếng, rồi trước khi ông ấy kịp đuổi, chúng tôi lẩn nhanh vào giữa các nhạc công.
Tôi leo lên đến gác đàn chính. Thận trọng bước từng bước một, tôi đi ra phía trước. Tại đây, nơi mà thường ngày chúng tôi chỉ dám lên một cách lét lút sợ sệt và luôn cảm thấy cái bồi hồi thơ mộng, bây giờ tôi đứng một mình, chỉ một mình, không bị ai theo dõi, không bị ai canh giữ. Ở hai bên đàn đại phong cầm có các hàng ghế ngồi xếp thành bậc từ thấp đến cao, trông như những bậc ghế ở đấu trường La Mã. Tôi ngồi xuống bậc thấp nhất, ngay bên cạnh những chiếc trống kim loại. Bây giờ, giá mà tôi gõ mấy cái trống có vẻ đẹp quyến rũ hùng hồn này, thì ai có thể ngăn cản tôi được? Tôi nhẹ nhàng chạm ngón tay vào mặt chiếc trống ngay bên cạnh mình, nhẹ đến mức như thể không muốn chạm đến lớp bụi phủ trên nó. Rồi tôi lại chạm vào lần nữa, nhưng mạnh hơn một chút. Và tôi nghe thấy tiếng chạm tay ấy, mặc dù đó là âm thanh hầu như không nhận ra được. Thế là tôi thôi không động tay vào trống nữa. Tôi có cảm giác rằng mình đã làm một việc gì tội lỗi.
Những pho sách Thánh Vịnh đặt trên giá sách ở lan can trước mặt tôi đang mờ dần đi. Tôi cũng có thể chạm vào những quyển sách ấy, cũng có thể thử xem có nhấc lên được không. Vào ban ngày thì chắc chắn tôi không cưỡng lại được điều đó. Đối với chúng tôi, những pho Thánh Vịnh khổng lồ ấy bao giờ cũng mang đầy vẻ bí ẩn. Các cuốn sách ấy có bìa viền bằng đồng nặng, những tấm bìa cứng đã bị rạn nứt, những trang sách bằng vải da, được lật bằng các que gỗ, đã bị bẩn ở các góc do sờ mó, nhưng nổi bật lên ở đó là các chữ viết hoa được giát vàng, có màu sắc rực rỡ, những hàng chữ kiểu cổ viết bằng mực đen và các nốt nhạc đen và màu viết trên khuông nhạc rộng. Các nốt nhạc ấy to đến mức mà từ trên bậc ghế cao nhất chúng tôi cũng nhìn thấy rất rõ. Một quyển Thánh Vịnh như thế phải nặng vô cùng, chính vì vậy mà ông ca sĩ gầy gò hát giọng nam cao không thể nhúc nhích sách được. Lũ con trai chúng tôi vì thế đã coi thường ông ta. Khi cần di dịch sách, bao giờ ông ca sĩ giọng trầm với vóc người to béo và khuôn mặt đỏ cũng phải đảm đương, và ngay cả ông cũng làm việc đó một cách nặng nhọc. Chúng tôi rất quý ông, cái giọng hát trầm của ông làm chúng tôi rung động, như thấm truyền vào người chúng tôi. Khi có đám rước, bao giờ chúng tôi cũng cố đi gần ông. Vào những ngày lễ lớn, ông thường đứng ở phía trước tôi, cạnh ông là hai người khác hát giọng trầm, nhưng không hát tốt như ông. Cả ba cùng nhìn chung vào một bản nhạc. Phía bên trái có hai người hát giọng cao, nhưng chúng tôi đâu để ý nhiều đến giọng hát cao, mặc dù chúng tôi kính nể một trong hai người đó. Ông ấy cũng gõ trống nữa. Đối với chúng tôi, giây phút trang trọng nhất là khi ông cầm dùi trống trong tay và người đứng cạnh ông nâng cái kèn trombone. Người đó là thương gia Rojko, ông chủ ngôi nhà mang tên Con chim đá. Xa hơn nữa về phía tay trái là ca đoàn bè nam, cùng với họ là người ca trưởng nghiêm khắc. Tôi như nghe thấy tiếng nhắc nhở của ông trước buổi lễ thánh, tiếng sột soạt của các bản nhạc có lời được phát cho mọi người, tiếng chuông lớn vang rộn rã ở bên ngoài. Bây giờ thì như có tiếng giật chuông nhỏ ở cửa phòng Thánh, tiếng đàn đại phong cầm chơi khúc dạo đầu, những nốt nhạc trầm kéo dài như rung chuyển cả nhà thờ, người ca trưởng ngoái cổ nhìn xuống bàn thờ chính, rồi quay lại vẫy nhanh đũa nhịp. Làn điệu tuyệt đẹp và trang trọng của kinh Kyrie vang lên, tràn đầy nhà thờ, bay lên đến tận các vòm mái trên cao. Tôi như nghe thấy tiếng hát của ca đoàn, tiếng nhạc của các nhạc công, tôi mơ màng cho đến tận bản phúc âm cuối lễ. Chưa từng bao giờ có một buổi thánh lễ nào đẹp như buổi lễ này trong tâm hồn tôi. Ôi, những nốt nhạc trầm quyện với tiếng trống và tiếng kèn trombone hùng hồn! Tôi không biết buổi thánh lễ ấy kéo dài trong tâm trí tôi bao lâu, nhưng tôi có cảm tưởng rằng trong thời gian đó, đã mấy lần tôi nghe thấy tiếng điểm giờ ở tháp. Bỗng nhiên, tôi cảm thấy cái lạnh buốt xuyên qua người, rồi tôi từ từ đứng dậy.
Làn ánh sáng màu bạc nhẹ nhàng như đang bay lượn ở nhịp chính của nội thất Thánh đường. Ánh sáng của bầu trời đầy sao bên ngoài, có thể là cả ánh trăng, chiếu qua các tấm cửa sổ. Tôi bước lên bục bên dưới lan can và nghiêng người nhìn xuống Thánh đường. Tôi thở thật sâu và hít vào phổi một thứ mùi đặc biệt của các nhà thờ, một thứ mùi do mùi thơm và mùi mốc quyện vào nhau. Đá cẩm thạch ở trên lăng lớn sáng lên. Gần bàn thờ chính, ngọn đèn vĩnh cửu thứ hai ở phía đối diện đang lung linh tỏa sáng và trên các bức tường vàng ở bàn thờ như lấp lánh những đốm sáng nhỏ màu hồng. Tôi vẫn đang mơ màng rung động. Ôi, không biết buổi thánh lễ do thánh Václav chủ tế sẽ như thế nào nhỉ? Chắc là tiếng chuông đánh từ tháp chuông bên ngoài sẽ không làm át tiếng của thánh lễ, cả thế giới sẽ biết đến buổi thánh lễ và nó sẽ không còn bí ẩn thần kỳ hơn nữa. Nhưng chắc là tiếng chuông ở phòng Thánh sẽ vang lên, tiếng đại phong cầm sẽ nổi lên, đoàn rước chủ tế sẽ đi trong ánh sáng tuyệt đẹp qua bàn thờ chính và nhịp bên phải, rồi từ từ tiến đến điện thờ Đức Thánh Václav. Đoàn rước chắc sẽ đi theo thứ tự như bất kỳ đoàn rước nào trong buổi lễ thánh vào chiều ngày chủ nhật, tôi hoàn toàn không thể tượng tượng ra được một thứ tự nào khác.
Mang cây đèn kim loại sáng bóng có cán màu đỏ đi đầu đoàn rước chắc sẽ là các thiên thần, vì người nào khác có thể đảm đương được việc đó! Rồi ca đoàn sẽ là những ai nhỉ? Tôi tưởng tượng họ sẽ đi hàng đôi. Họ là những bức tượng đá có vẽ màu, đặt ở hành lang chạy quanh chính đường ở phía trên cao kia. Đó là tượng các vua và hoàng hậu Bohemia của nhà Luxembourg[28], các vị Tổng giám mục, các kinh sĩ, những người đã xây dựng Thánh đường. Nhưng chắc chắn là các kinh sĩ hiện nay sẽ không được đi ở đó, bởi họ không xứng đáng, nhất là ông kinh sĩ Pesina! Ông này đã sỉ nhục tôi. Một lần, tôi rước cây đèn trong buổi thánh lễ, tôi chỉ cần nghiêng đèn có một tí thôi mà ông ấy đã cho tôi cái bạt tai. Một khi khác, người đánh chuông cho phép tôi lần đầu tiên được lên tháp chuông để đánh cái chuông mang tên Josef. Tôi đã ở trên tháp chuông một mình, hoàn toàn một mình với những chiếc chuông khổng lồ. Sau khi đánh chuông, tôi đi xuống và vẫn còn thấy trong người rạo rực tự hào. Đi tới chân cầu thang, tôi nghe thấy tiếng kinh sĩ Pesina hỏi người đánh chuông: “Thằng ngốc nào đã ở trên đó hả? Sao mà nó đánh vội vàng thế!”
Tôi như nhìn thấy tất cả các nhân vật ấy với những cặp mắt đá đi trong đoàn rước. Thật lạ lùng, tôi không tưởng tượng ra được thân hình và chân của họ; đó chỉ là những bức tượng nửa người, nhưng họ di chuyển y hệt như đang bước. Đi sau họ, tôi nghĩ chắc sẽ là các vị Tổng giám mục đang yên nghỉ ở điện Kinsky, tiếp theo là các thiên thần bạc của Đức Thánh John, rồi chính Thánh John mang trong tay cây Thập giá. Đi theo Đức Thánh John là hài cốt của Thánh Zikmund[29], chỉ có mấy cái xương đặt trên chiếc gối màu đỏ, nhưng tôi trông thấy cái gối ấy cũng như đang bước đi. Rồi nhiều hiệp sĩ mặc áo giáp, đi sau họ là các nhà vua và các quận công đang yên nghỉ ở các lăng tẩm trong Thánh đường. Có người mang y phục sang trọng bằng cẩm thạch màu đỏ, có người lại mang y phục bằng cẩm thạch màu trắng, trong số đó có vua Jiří Poděbrad[30]. Đi sau cùng là Đức Thánh Václav, trong tay mang thánh chén có phủ khăn bạc. Đức Thánh có dáng người cao, vạm vỡ và trẻ trung. Trên đầu, Đức Thánh không đội mũ biretta, mà chỉ mang chiếc mũ giáp. Nhưng chiếc áo giáp lưới sắt phòng thân lại được phủ bằng áo lễ bằng lụa trắng. Mái tóc dày màu hạt dẻ của Đức Thánh uốn sóng, khuôn mặt hiền hậu, trầm tĩnh cao siêu. Một điều lạ là tôi có thể tưởng tượng ra được khuôn mặt của Đức thánh, với đôi mắt to màu xanh, với đôi má đầy sức sống, với bộ râu uốn mềm mại, nhưng đó lại không phải là khuôn mặt bằng xương bằng thịt, mà là khuôn mặt từ ánh sáng rực rỡ.
Trong khi hình dung ra một đám rước lễ như vậy, mắt tôi nhắm nghiền. Cái yên lặng trong Thánh đường, cái yếu ớt mệt mỏi và tâm trạng nửa tỉnh nửa mơ đầy tưởng tượng làm tôi thấy buồn ngủ, chân tôi mềm đi. Nhưng tôi nhanh chóng đứng thẳng người rồi đưa mắt nhìn khắp Thánh đường. Vẫn cái yên lặng như trong nhà mồ như trước, nhưng bây giờ tự nhiên nó tác động lên tôi hoàn toàn khác. Tôi cảm thấy tôi yếu ớt hơn, người tôi cứng lại vì rét, rồi tự nhiên tôi thấy sợ. Cái sợ không rõ ràng, không đầu không đuôi. Tôi không biết tôi sợ gì, nhưng tôi sợ, và tâm hồn trẻ con non nớt của tôi bỗng nhiên mất chỗ dựa.
Tôi ngồi sụp xuống bậc ghế và đau đớn bật khóc. Nước mắt tôi trào ra, ngực tôi thắt lại, và không sao cưỡng lại được, tôi nức nở khóc. Tiếng nức nở rưng rức mỗi lúc một lớn hơn, nó truyền đi khắp Thánh đường, tiếng vọng trở lại làm tăng thêm cái sợ hãi của tôi. Giá mà tôi không phải ở một mình, chỉ một mình, trong Thánh đường mênh mông này! Giá mà tôi không bị giam lại ở đây!
Tôi rền rĩ to hơn. Và đúng vào lúc đó, tôi chợt nghe thấy tiếng chim chíp chíp như trả lời tôi. Vâng, tôi đâu có ở đây một mình, mấy con chim sẻ cũng cùng ngủ qua đêm ở đây với tôi mà! Thế là tôi lần ra đến cái xà nơi chúng đậu. Tôi nín thở, đưa tay bắt và tóm gọn một chú sẻ trong lòng bàn tay. Nó giật mình chí chóe kêu rồi mổ mạnh vào ngón tay tôi, nhưng tôi không thả nó ra. Tôi nhận thấy trái tim bé nhỏ nóng bỏng của nó đập liên hồi và nỗi sợ hãi của tôi biến mất. Tôi không cảm thấy mình cô đơn nữa. Trong khoảng khắc, tôi thấy mình lấy lại can đảm, cũng bởi lẽ tôi là sinh linh mạnh hơn con sẻ.
Tôi quyết định giữ chú sẻ trong tay, có nó tôi sẽ không sợ nữa và cũng sẽ không ngủ thiếp đi được. Mà chắc cũng không còn lâu nữa là đến nửa đêm. Tôi sẽ chú ý để nghe thấy tiếng điểm giờ. Còn bây giờ, tôi sẽ ngả người xuống hai bậc thang này, tay giữ con sẻ đặt trên ngực, mặt quay về phía cửa sổ ở điện thờ Đức Thánh Václav để khi trong điện có ánh sáng của buổi lễ thánh màu nhiệm thì tôi sẽ nhận thấy được ngay.
Tôi ngả người nằm xuống và nhìn sang đó qua cửa sổ, ở đó lúc này đang tối mờ. Tôi không biết mình đã nhìn trong bao lâu, chỉ biết là bỗng nhiên tôi thấy cái tối mờ ở cửa sổ biến thành một màu xanh sáng, mỗi lúc một trong sáng hơn. Tôi có cảm giác như nhìn lên bầu trời xanh. Vào lúc đó, có tiếng điểm giờ trên tháp, tiếng nọ nối tiếng kia, tưởng như không bao giờ dứt.
Cái đau ghê gớm đột ngột đánh thức tôi, vâng, cái đau do giá buốt. Người tôi rã rời như bị đánh. Mắt tôi như đang nhìn vào một cái lò lớn rừng rực lửa đỏ. Tai tôi ù đi vì những tiếng rít tiếng hét kinh hoàng.
Tôi chợt bừng tỉnh. Tôi đang nằm trên hai bậc thang, tay đặt trên ngực, nhưng bàn tay đã mở, trống không. Phía bên đối diện, qua cửa sổ tôi nhìn thấy ánh sáng bên trong điện Đức Thánh Václav. Tôi nghe thấy tiếng đàn đại phong cầm và bài Thánh ca quen thuộc của buổi nguyện sáng sớm.
Đó là buổi lễ thánh của Đức thánh Václav chăng?
Tôi bối rối đứng dậy và lặng lẽ đi xuống phía cửa sổ ở gác đàn bên dưới. Qua cửa kính, tôi rụt rè nhìn xuống.
Linh mục đang hành lễ ở bàn thờ chính. Người giúp lễ là một trong những người coi nhà thờ, lúc này ông ấy lắc chuông vì linh mục đang làm lễ dâng bánh và rượu.
Tôi hốt hoảng nhìn xuống chỗ ngồi quen thuộc ở dãy ghế. Giống như mọi khi, mẹ tôi đang cúi đầu bái quỳ và đập tay vào ngực. Và bên cạnh mẹ là cô tôi, bà cô ở bên Thành phố Cổ.
Bây giờ thì mẹ tôi ngẩng đầu lên và tôi nhìn thấy những giọt lệ nối nhau tuôn trên má mẹ.
Tôi đã ý thức được tất cả. Tôi cảm thấy xấu hổ vô cùng, thấy bất hạnh đau khổ đến tột cùng... Tôi chợt thấy đau đầu, rồi chóng mặt như bị lốc cuốn. Tôi đã làm mẹ đau đớn, làm mẹ sầu thảm khóc thương đứa con bị mất. Nỗi đau buồn của mẹ làm tim tôi thắt lại, làm tôi nghẹn thở. Tôi muốn chạy xuống thật nhanh để đến đứng trước mẹ, nhưng chân tôi khuỵu xuống, tôi va đầu vào tường rồi nằm vật xuống sàn. Hầu như cùng lúc đó, tôi bật khóc. Những giọt nước mắt lúc đầu nóng rát như lửa đốt, nhưng rồi làm tôi nguôi nguôi dần.
Lễ Mùa vọng Rorate Coeli buổi sáng đã kết thúc, mọi người ra về khi vẫn còn đang tối, trời lâm thâm mưa lạnh. Không ai để ý đến người anh hùng đang đứng ở trước cửa Thánh đường. Người anh hùng ngoan đạo đó đang xấu hổ và thất vọng, và cũng chẳng hề để ý đến ai. Nhưng khi người mẹ cùng người cô ra khỏi cửa Thánh đường, bất chợt bà thấy một cặp môi nóng như lửa áp lên đôi tay nhăn nheo của mình.
BÌNH SLAVICKÁ dịch