← Quay lại trang sách

- 11 - CHIẾN TRẬN ĐÁNH NƯỚC ÁO

Ngày 20 tháng 8 năm 1849, vào lúc 12 giờ rưỡi trưa, nhà nước Áo phải bị đánh đổ, theo đúng như điều đã được ghi trong sổ của “nhóm xạ thủ”. Tôi cũng không nhớ ngày đó nước Áo phạm tội gì, nhưng tôi không mảy may nghi ngờ gì về quyết định đã được suy nghĩ chín chắn đó. Không thể làm gì khác được, điều đó đã được quyết định, đã được tuyên thệ và việc thi hành được trao cho những người đáng tin cẩn là Jan Žižka, Prokop Holý, Prokůpek và Mikuláš[31]. Những người đó tức là tôi, rồi Josef - con trai ông hàng thịt, Frantík - con trai ông thợ giày và Antonín - người vùng Rakovník, được anh trai là nông dân nuôi cho ăn học. Việc ai trong chúng tôi đóng vai nhân vật lịch sử nào không phải là chuyện ngẫu nhiên, mà hoàn toàn có lý do chính đáng. Thí dụ tôi đóng vai Žižka, bởi vì tôi có nước da đen nhất trong cả bọn, tôi nói năng dứt khoát nhất, và cũng bởi vì hôm đến buổi họp đầu tiên của nhóm (tổ chức tại tầng áp mái ở nhà của Josef) tôi đã đeo một chiếc băng đen bịt mắt bên trái như Žižka, làm cho mọi người ngạc nhiên khâm phục. Rồi sau đó, lần nào đến họp nhóm tôi cũng phải đeo cái băng bịt mắt ấy. Thú thật là đeo băng tôi thấy không được thoải mái lắm, nhưng tất nhiên là không thể làm sao khác được. Việc thủ vai các nhân vật khác của các bạn tôi cũng đã được quyết định như vậy.

Toàn bộ mọi việc được cân nhắc chuẩn bị một cách hết sức kĩ càng. Suốt cả năm, chúng tôi tranh thủ từng lúc đi chơi để cùng nhau tập bắn súng cao su. Frantík - trong vai Prokůpek - đã lo việc làm súng. Chúng tôi đã có thể bắn trúng được thân cây từ chỗ cách xa một trăm bước. Lẽ tất nhiên, chúng tôi không chỉ dừng lại ở đó. Suốt cả năm, chúng tôi cũng còn gom góp từng krejcar để gây quỹ chung, gọi là “quỹ xạ thủ”, bất kể đó là đồng tiền kiếm được chính đáng, hay là đồng tiền không lương thiện. Cuối cùng, chúng tôi tập hợp được gần mười một zlatý. Cách đây một tuần, chúng tôi bỏ ra năm zlatý để mua một khẩu súng ở phố Příkopy. Theo như người bán hàng nói thì đó là một trong những khẩu súng nổi tiếng, sản xuất tại thành phố Lutych ở Bỉ. Lần nào họp mặt, chúng tôi cũng ngắm nó suốt buổi; dạo này đang là mùa hè, nghĩa là ngày nào chúng tôi cũng họp. Chúng tôi chuyền tay nhau khẩu súng để ngắm nghía, để khẳng định rằng đó chính là khẩu súng chính hiệu sản xuất ở Lutych. Cho đến nay, quả là chúng tôi vẫn chưa hề bắn một phát nào, thứ nhất là bởi vì chúng tôi không có thuốc súng, thứ hai là cho đến lúc này vẫn còn đang có tình trạng khẩn cấp, vì vậy chúng tôi phải cẩn thận. Chúng tôi rất thận trọng để khỏi bị lộ nên cũng không hề nhận thêm ai vào nhóm. Do đó, nhóm chỉ có bốn người “trên nguyên tắc” là chúng tôi, nhưng chúng tôi cho rằng như vậy là nhiều người rồi. Với sáu zlatý còn lại, chúng tôi cũng có thể mua thêm một khẩu súng nữa và làm tăng gấp đôi kho vũ khí của mình, nhưng chúng tôi đã dành số tiền đó vào việc mua thuốc súng. Chúng tôi cũng không rõ nó sẽ hết bao nhiêu tiền. Đối với kế hoạch chúng tôi đã lên thì một khẩu súng là hoàn toàn đủ. Tất nhiên, chúng tôi còn có một vật chung nữa, đó là chiếc tẩu bằng sứ. Trong các cuộc họp bí mật, Frantík thường hút tẩu, đại diện cho tất cả chúng tôi. Chiếc tẩu ấy đẹp và có ý nghĩa, nhưng hiện nay thì chúng tôi hoàn toàn không cho là nó đóng vai trò gì đặc biệt. Chúng tôi cũng có một cái thiết bị điện đặc biệt làm từ đồng hai xu cũ, do anh trai của Josef, học trò nghề khóa, thiết kế. Nhưng nó không chạy được, thế là chúng tôi để ở nhà.

Tôi xin trình bày ở đây kế hoạch của chúng tôi, để ai cũng có thể khâm phục. Mục đích chính của kế hoạch là lật đổ nhà nước Áo. Điều cần thiết trước nhất là chiếm Praha. Phương tiện cần thiết là đánh chiếm pháo đài Belveder ở phía cuối tường thành Marian. Từ chỗ đó, chúng tôi sẽ làm chủ cả Praha. Ở chỗ đó thì chúng tôi sẽ không bị tấn công từ bất kì nơi nào. Chúng tôi đã tính toán tỉ mỉ là sẽ chiếm đóng pháo đài Belveder vào buổi trưa. Thông thường thì từ thời cổ xưa cho đến nay, các loại thành lũy bao giờ cũng bị đánh chiếm vào lúc nửa đêm. Nhưng mà lúc nửa đêm lại cũng chính là lúc lính canh cảnh giác nhất, tỉnh táo nhất. Nếu cứ xem như vậy thì phải công nhận là dự định đánh pháo đài Belveder vào buổi trưa của chúng tôi quả là mưu kế cực kỳ khôn khéo. Vào lúc đó, pháo đài Belveder chỉ có một số lính canh giữ, khoảng sáu đến tám người. Một người lính đứng canh ngay ở cổng sắt dẫn vào sân. Cổng này bao giờ cũng được để ngỏ, từ bên ngoài chúng tôi nhìn thấy lính đi lại thoải mái trong sân. Người lính canh thứ hai đi lại ở chỗ đặt mấy khẩu đại bác, phía nhìn ra Praha. Bốn đứa chúng tôi và một người nữa sẽ đi một cách tự nhiên đến gần cửa sắt. Chúng tôi sẽ nhảy bổ vào lính canh, giết hắn và tước khẩu súng. Chúng tôi sẽ bắn súng cao su vào cửa sổ chòi canh, xông vào đánh gục các tên lính ở trong đó, rồi cũng tước súng của chúng. Chỉ còn lại tên lính canh thứ hai, nhưng chắc là hắn sẽ đầu hàng. Chúng tôi sẽ trói hắn lại và tước súng. Nếu hắn không muốn đầu hàng thì đó là việc của hắn, chúng tôi sẽ giết hắn. Lập tức sau đó, chúng tôi sẽ chuyển một khẩu đại bác đến cổng pháo đài, sẽ châm lửa đốt cái vòng báo hiệu treo ở cây sào, rồi chúng tôi sẽ hô hoán để người dân Praha biết là cách mạng đã bùng nổ. Tất nhiên là quân đội sẽ đưa trợ binh tới, nhưng không thể vượt qua tường thành để đánh chúng tôi được. Còn chúng tôi thì sẽ liên tục bất ngờ mở cổng pháo đài, bắn súng đại bác vào lính rồi lại đóng cổng lại. Chúng tôi sẽ giết hết đám lính đầu tiên ấy, số còn lại chắc là sẽ đầu hàng, vì lúc đó chắc chắn chúng sẽ bị các lực lượng cách mạng bủa vây. Nếu chúng không đầu hàng thì kệ chúng. Chúng tôi sẽ ra khỏi thành, kết hợp với dân chúng Praha và việc đầu tiên chúng tôi làm sẽ là việc giải phóng tất cả các tù nhân chính trị còn đang bị giam cầm ở Hradčany. Còn những việc khác thì tự nhiên nó sẽ đến. Chiến trận lớn thắng lợi đầu tiên của chúng tôi sẽ là trận đánh ở Německý Brod, chúng tôi sẽ lừa để kéo quân đội về đó. Chiến trận thứ hai chúng tôi sẽ đánh là chiến trận ở Morava. Tiếp đó, với sự giúp đỡ của người Hungari, chúng tôi sẽ đánh chiếm thành phố Viên và đánh đổ nhà nước Áo. Sau đó, chúng tôi sẽ tiêu diệt người Hungari. Kế hoạch của chúng tôi đáng được khâm phục như thế đấy!

Ngoài bốn chúng tôi, người đóng vai trò rất quan trọng ngay từ giai đoạn đầu của kế hoạch đẫm máu đó là nhân vật thứ năm. Cho đến phút cuối cùng, người đó không hề biết gì và không được phép biết gì về kế hoạch của chúng tôi. Vâng, người đó là một người bán hàng, tên ông ấy là Pohorák. Ông ấy là người ở gần Bílá Hora. Mỗi tuần, ông ấy đến Praha ba lần, mang theo thịt gà và chim bồ câu trên một chiếc xe có chó kéo để bán. Josef, tướng quân sự của chúng tôi, đã nhớ đến ông Pohorák nhân việc chúng tôi cần mua thuốc súng. Thời đó, mua thuốc súng là việc vô cùng khó khăn. Người ta chỉ bán cho ai có giấy phép của nhà nước thôi. Ông Pohorák thường mua thịt hun khói ở cửa hàng của bố mẹ Josef. Và Josef cho chúng tôi biết là lần nào đến Praha, ông Pohorák cũng còn đi mua thuốc súng cho một người ở quê ông. Vì thế, Josef đã xin ông Pohorák mua thêm thuốc súng cho chúng tôi, tất nhiên là sẽ trả công xứng đáng, và ông Pohorák đã nhận lời. Ngày 19 tháng 8, Josef đưa tất cả sáu zlatý cho ông Pohorák, trong đó hai zlatý là tiền trả công hậu hĩnh cho ông và bốn zlatý còn lại là tiền mua thuốc súng. Ông Pohorák hứa là ngày hôm sau sẽ lại lên Praha bán thịt và sẽ khẩn trương đi mua thuốc súng. Ông hẹn là sẽ kéo xe đến cổng thành Bruska rồi trao thuốc súng cho Josef. Và ở đó, ông ấy mới được biết rằng chúng tôi là đội quân hùng hậu, ông ấy sẽ tháo con chó trắng khỏi xe, bỏ xe ở đường rồi gia nhập đội quân của chúng tôi. Không một ai ngờ vực gì về chuyện ông Pohorák sẽ đi với chúng tôi, ông ấy đã nhận được hai đồng tiền vàng rồi mà, hơn nữa, đó còn là vấn đề danh dự! Josef đã cho chúng tôi biết là ông Pohorák đã kể rằng vào dịp Lễ các Thánh năm ngoái, ông ấy đã làm cho một người lính bị ngã ngựa. Josef khẳng định rằng người ở Bílá Hora là những người hùng mạnh nhất của vùng Bohemia.

“Đúng vậy, cả người ở Rakovník cũng thế”, Antonín tuyên bố và giơ nắm tay đấm đấm vào không khí. Về phía mình, tôi phải nói rằng sự cộng tác của ông Pohorák là điều rất hay. Tôi dám đánh cuộc là các tướng lĩnh khác cũng có cảm giác tương tự. Khi lên kế hoạch tác chiến mà tôi đã kể tỉ mỉ ở trên, trước hết chúng tôi nghĩ đến tay lính canh ở cổng. Thêm vào đó là một việc xảy ra cách đây vài tháng, nhưng mà cho đến bây giờ vẫn còn hằn trong tâm trí chúng tôi. Lần ấy, bốn đứa chúng tôi chơi bóng ở dưới hào xung quanh Lâu đài. Chúng tôi chơi ở đó mấy tiếng đồng hồ. Quả bóng cao su nhỏ của chúng tôi vô cùng đẹp, tuy là nó chỉ có giá bốn mươi xu. Chúng tôi chắc đã chơi rất hay, vì một người lính mang lựu đạn đi qua đã dừng lại để xem chúng tôi chơi. Anh ta đứng ở đó rất lâu, rồi còn ngồi xuống cỏ để xem cho thoải mái. Bỗng nhiên, quả bóng lăn qua chỗ anh ta ngồi. Anh ta lười biếng đưa tay với quả bóng và ngã dúi mặt xuống, nhưng tóm được nó. Anh ta chậm rãi đứng dậy, chậm đến mức chúng tôi tưởng thời gian kéo dài đến vô tận. Chúng tôi đứng đó, chờ xem cánh tay phải to lớn của anh ta sẽ ném quả bóng về phía nào. Thế nhưng không, anh ta thản nhiên nhét nó vào túi mình. Rồi cái thân hình to béo của anh ta chậm chạp leo lên bờ hào. Chúng tôi vây quanh anh ta, nài nỉ, kêu gào, đe dọa, và rốt cục thì Josef bị một cái bạt tai, Antonín cũng vậy. Chúng tôi ném sỏi vào anh ta, nhưng anh ta quay lại đuổi chúng tôi. Công bằng mà nói thì tất cả chúng tôi đã hèn nhát bỏ chạy.

“Các cậu phải công nhận là chúng mình đã xử sự khôn khéo, là chúng mình đã không đánh hắn,” sau đó, tôi đã nói với các bạn mình như vậy. “Các cậu đều biết là chúng mình có kế hoạch muốn làm gì, và ai mà biết được cái gì có thể xảy ra nếu đánh hắn! Khi có âm mưu làm gì thì người ta không bao giờ biết được cái gì có thể xảy ra, tớ biết như thế mà! Tớ đã run cả người và muốn tóm lấy hắn, nhưng mà tớ lại nghĩ: hãy chờ đã!”

Nhận xét rõ ràng về tình huống đã xảy ra được tất cả hài lòng hưởng ứng, ai cũng nói rằng đã run cả người và đã phải cố gắng lắm để có thể đứng vững được.

Trong những ngày đầu tháng tám, khi chúng tôi bắt đầu bàn tỉ mỉ chi tiết kế hoạch của mình, tôi chợt hỏi:

“Con chó của ông Pohorák có biết cắn không?”

“Có,” Josef khẳng định, “hôm qua nó đã cắn rách váy của con bé nhà ông hàng bánh.”

Thông tin về việc con chó của ông Pohorák biết cắn là thông tin rất quan trọng.

Buổi sáng của ngày đáng ghi nhớ ấy đã đến. Sử ký đã ghi lại rằng đó là buổi sáng ngày thứ hai.

Tôi thấy trời hơi xám, rồi xám nhạt đi, rồi đột nhiên sáng hơn, rõ hơn. Tôi thấy thời gian trôi đi vô cùng chậm chạp. Lòng tôi đang nung nấu một ước vọng rất lạ lùng, tôi muốn trời không xám đi, cũng không sáng ra, muốn thời gian nhảy cóc qua ngày hôm ấy, vâng, chỉ một ngày thôi. Tôi biết là một cái gì tương tự như vậy nhất định sẽ phải xảy ra và tôi đã cầu nguyện, và thú thật, tôi cảm thấy hồi hộp nóng ruột đến phát điên phát cuồng.

Cả đêm, tôi trằn trọc không ngủ được. Thỉnh thoảng tôi mới lơ mơ chợp mắt được một lúc, nhưng ngay sau đó tôi lại giãy đạp trên chiếc giường phủ chăn ấm, tôi phải cố kìm để khỏi kêu thành tiếng.

“Con làm sao thế, sao mà thở ngắn thở dài mãi thế?” Mẹ tôi cất tiếng hỏi mấy lần.

Tôi giả bộ như đang ngủ.

Mẹ tôi ngồi dậy, bật đèn và đi đến giường tôi, nhưng tôi nhắm nghiền mắt. Mẹ đặt tay lên trán tôi. “Con nóng như lửa đây này. Bố nó lại đây mà xem, nó ốm hay sao đây này.”

“Để mặc nó,” bố tôi nói, “hôm qua lại nghịch ngợm ở đâu chứ gì, cứ như quỷ sứ ấy. Cái chuyện hội này hội kia là phải bãi hết, lúc nào cũng cặp kè với thằng Frantík, Josef, cả với thằng gì ở Rakovník nữa...”

“Nhưng mà bố nó biết là chúng nó cùng học với nhau thì học vào hơn.”

Thú thật, tôi thấy trong người vô cùng nôn nao khó chịu. Đúng ra thì tôi cảm thấy khó chịu từ mấy hôm nay rồi, càng gần tới ngày 20 tháng 8 bao nhiêu, tôi càng thấy khó chịu hơn bấy nhiêu. Tôi để ý thấy các “tướng lĩnh” trong nhóm cũng có cảm giác tương tự. Trong các cuộc họp gần đây nhất, nhiều lúc chúng nói năng có vẻ hơi lung tung. Trong thâm tâm, tôi nghĩ là bọn nó sợ. Ngày hôm kia, tôi đã cố gắng tự trấn tĩnh mình và đã đứng ra nói rất dứt khoát. Bọn nó hùng hổ cãi lại, chúng tôi nóng nảy tranh cãi, chưa bao giờ chúng tôi gắt gỏng với nhau nhiều như ngày hôm đó. Đêm hôm sau đó, tôi có ngủ, nhưng không ngon giấc tí nào. Vâng, giá mà tôi được thấy cái biểu hiện của sự hùng dũng hoàn toàn ở các bạn mình thì chắc chắn chính tôi cũng có cảm giác hoàn toàn khác.

Bằng bất kỳ giá nào, tôi cũng không thể được phép sợ hãi. Tôi không muốn lên án số phận, nhưng tôi cứ tự hỏi tại sao mà chính tôi lại phải mang cái nghĩa vụ nặng nề như thế. Tự nhiên, tôi thấy việc đánh đổ nhà nước Áo thật sự trở thành một nỗi khổ sở cay đắng cho tôi. Tôi muốn tha thiết cầu nguyện: “Xin Chúa gỡ bỏ cái khổ sở ấy đi cho con!”, nhưng tôi nhận thấy là không còn con đường nào khác. Tôi cũng chợt nhận ra rằng cái đỉnh cao vinh quang đã trở thành đỉnh đồi Golgota đau đớn. Những lời tuyên thệ đã ràng buộc tôi.

Ngày hôm sau, chúng tôi phải có mặt tại chỗ vào lúc mười giờ sáng, ông Pohorák phải tới lúc mười một giờ và chiến dịch phải được tiến hành lúc mười hai giờ rưỡi.

Tôi ra khỏi nhà lúc chín giờ sáng.

Làn gió hè man mát nhè nhẹ vờn quanh thái dương tôi. Bầu trời xanh cười cười, giống như nụ cười của Márinka, em gái của Josef, mỗi khi nó muốn bảo chúng tôi chơi một trò chơi tinh nghịch nào đó. Cũng phải nói thêm rằng Márinka là tình yêu của tôi. Tôi nhớ đến Márinka, nhớ đến sự tôn trọng ngưỡng mộ em vẫn dành cho tính cách anh hùng của tôi, và bỗng nhiên, tôi thấy nhẹ nhõm hơn, ngực tôi căng lên và tâm hồn tôi như bay bổng.

Một bước ngoặt thần kỳ đã xảy ra, bởi vì trên đường tới hào quanh Lâu đài, có hai lần tôi bất giác nhảy lò cò.

Tôi nhẩm tính lại tất cả xem mọi việc đã đâu vào đấy chưa. Tôi thấy mọi việc đều hoàn thiện. Hai cái súng cao su nằm trong một bên túi áo, cái băng bịt mắt màu đen nằm trong túi thứ hai. Một quyển sách giáo khoa cặp dưới nách, tôi mang theo để ngụy trang. Tôi đi trên thành Marian, ngang qua chỗ các đơn vị lính đang tập luyện, nhưng tôi không mảy may sợ hãi. Tôi biết rằng vào giờ chúng tôi khởi sự thì tất cả lính đều đã trở lại doanh trại rồi.

Vì còn nhiều thời gian nên tôi đã đi vòng quanh cả khu chiến trận. Tôi đi qua vườn Chotka, đến chỗ gần đường đi xuống phía dưới. Đó là chỗ Frantík sẽ phải đứng. Tôi nhìn xuống Bruska, nơi Josef sẽ chờ ông Pohorák, rồi phải chạy nhanh từ đó lên trên để báo tin cho chúng tôi. Tôi đi đến tận pháo đài Belveder, đi qua lũy sang cổng thành Bruska. Hệ thống lũy chạy từ pháo đài Belveder đến cổng thành Bruska gồm có hai bờ lũy. Bờ thứ nhất cao, phía trên mặt lũy có một khoảng trống. Ngày xưa ở chỗ ấy có một cái ao nhỏ được xây bờ, xung quanh um tùm toàn cây sậy và các bụi cây. Chỗ ấy cũng là nơi chúng tôi rất thích ra chơi. Ở bên dưới một bụi cây chúng tôi có giấu một đống sỏi làm đạn bắn súng cao su. Bờ lũy thứ hai có sườn dốc sâu hơn. Hiện nay ở đó là quán cà phê Panorama, nhưng ngày xưa chỗ ấy chỉ có các bụi cây um tùm. Cách đó mấy bước là cổng thành Bruska. Đó là nơi mà tôi, tổng chỉ huy quân sự, phải coi giữ.

Tôi ngồi xuống chiếc ghế dài sau cổng thành và giở sách. Tôi hơi run run khắp người, thỉnh thoảng thấy lạnh sau lưng, nhưng tôi nghĩ đó không phải là cái sợ. Tôi cảm thấy khá thoải mái. Nguyên nhân chủ yếu làm tôi thoải mái là tôi không trông thấy một ai trong các đồng đội của mình. Tôi thầm hi vọng là họ sợ và sẽ không đến. Trái tim tôi bảo tôi nên vì thế mà đừng căng thẳng nữa, nên nghỉ, nên bỏ cuộc, nhưng linh tính lại bảo tôi đừng làm như vậy, vì có thể biết đâu tôi bỏ cuộc thì họ sẽ đến. Thế là tôi vẫn sẵn sàng.

Tiếng trống, tiếng kèn thay nhau vang lên từ chỗ luyện binh ở trên thành Marian và pháo đài Belveder. Người và xe cộ ra vào liên tục ở cổng thành. Lúc đầu, tôi không để ý gì đến họ, nhưng rồi cái mê tín làm tôi phải để ý. Tôi tự bảo, nếu người này đi tới cầu rồi ngoặt về phía Bubeneč thì việc của chúng tôi không thành, nếu người ấy rẽ tay trái đi về hướng Podbaba thì mọi việc sẽ tốt đẹp. Một, ba, bốn, năm, tất cả đều đi về phía Bubeneč. Tiếng kèn từ pháo đài Belveder vọng tới, nghe như tiếng kèn ra lệnh tấn công. Tôi đứng bật dậy.

Đồng hồ trên tháp Thánh Vít điểm mười giờ. Tôi nhìn quanh và thấy Antonín đang đi giữa hàng cây để lên vị trí của mình. Antonín quả là một người cao thượng và dũng cảm, là một chiến sĩ rất có khả năng. Hơn nữa, là một người biết hi sinh, dành cả những ngày nghỉ hè cho sự nghiệp lớn. Đúng ra thì Antonín đã có thể về nhà anh trai được hai tuần rồi. Thế nhưng tôi lại cảm thấy hơi khó chịu khi trông thấy nó. Như vậy là tôi bắt buộc phải thực hiện nghĩa vụ quân sự là đi tuần tra xung quanh. Với quyển sách cầm trong tay, tôi đứng dậy và chậm chạp đi lại trên bờ lũy. Tôi hoàn toàn không thấy một bóng người nào qua lại trên đó.

Tôi đi tới ao và trông thấy Josef đang nằm trên bãi cỏ. Tôi bước những bước dài hơn, dứt khoát hơn, giống như bước chân nặng nề nện xuống đường của người đang mặc áo giáp.

Cũng cầm trong tay một quyển sách, Josef ngẩng nhìn tôi. Mắt nó đỏ hoe.

“Mọi việc ổn cả chứ?”

“Tất cả.”

“Cậu có không?”

“Có.”

“Có” ở đây nghĩa là nó có khẩu súng mà chúng tôi đã giao cho.

Tôi đưa mắt nhìn về bụi cây, nơi chúng tôi giấu đống sỏi. Josef cũng thận trọng ngoái nhìn sang đó, có vẻ nó hơi mỉm cười, nhưng không thành. Vừa lúc đó, một người lính đi từ pháo đài ra. Anh ta mặc áo sơ mi, đội mũ, cầm trong tay một cái bình tưới cây. Đó là người lính hầu. Khi nghĩ chiến lược, chúng tôi đã quên không tính đến anh ta, nhưng mà không sao, thêm một người lính thì cũng có sao! Người đó chậm rãi tiến gần và dừng lại ở chỗ chúng tôi. Tim chúng tôi thắt lại.

“Các cậu có xì gà không?” Anh ta hỏi.

“Không, chúng tôi...”, tôi lên tiếng, nhưng ngừng lại. Chẳng lẽ tôi lại đi nói rằng ngoài Frantík ra thì chúng tôi vẫn còn chưa hút thuốc!

“Nhưng chắc chắn các cậu sẽ cho tôi hai krejcar để mua thuốc lào! Tôi đã ở đây từ khởi nghĩa năm ngoái” - chúng tôi lại giật mình hơn, lần này thì như bị điện giật - “ngày nào ở đây cũng có người cho tôi tiền mua thuốc lào.”

Tôi lấy ra hai krejcar và lẩy bẩy đưa cho anh ta. Hắn huýt sáo, nhấc cái bình tưới rồi bỏ đi mà chẳng hề cảm ơn.

Tôi giơ tay chào Josef và đi xuống đường. Tôi vào vườn Chotka, tiến gần đến Antonín đang ngồi trên ghế dài ở Điểm ngắm thành phố. Qua quyển sách, nó đang nhìn xuống bên dưới. Tôi lại bước những bước dài, dứt khoát, nặng nề như mang thiết giáp.

“Mọi việc ổn cả chứ?”

“Ổn cả,” Antonín hơi mỉm cười.

“Frantík đang ở đó chứ?

“Ừ, đang hút thuốc.”

Phía bên dưới, Frantík đang ngồi trên lan can, đung đưa hai chân và hút xì gà.

“Ngày mai tớ sẽ bắt đầu hút thuốc.”

“Tớ cũng thế.”

Tôi giơ tay chào Antonín rồi bỏ đi, cố nện gót chân thật mạnh.

Tôi trở về ngồi ở sau cổng thành. Các người lính đã tập binh xong và đang trở về doanh trại - tuyệt vời! Nhưng không biết làm sao, hôm nay tôi nhìn họ một cách chán chường. Bình thường, cứ thấy họ là tôi thấy bị khiêu khích, chỉ tiếng trống đánh thôi cũng đủ gợi cho tôi nhiều tưởng tượng. Tôi như bay bổng trong tiếng nhạc Thổ Nhĩ Kỳ vang dội, tôi thấy mình đang cưỡi ngựa trắng, đi đầu đoàn quân trở về sau một trận chiến đại thắng, sau tôi là các binh sĩ đang vui mừng hát bài ca hào hùng, xung quanh tôi là cả dân tộc đang phấn khởi mừng rỡ đón chào. Còn tôi, mặt tôi không hề cử động, thỉnh thoảng tôi mới hơi cúi đầu, nhưng chỉ thỉnh thoảng thôi.

Nhưng ngày hôm nay, trí tưởng tượng của tôi giống như bia uống dở đã hả hơi mà mẹ tôi thường cho vào xúp, và tôi rất ghét loại xúp ấy. Cái chính là hôm nay tôi hoàn toàn không muốn đi đến một chiến thắng nào cả, miệng lưỡi tôi như đang ngậm đất cát. Khi một chiến hữu nào tình cờ ngước mắt nhìn tôi thì tôi nhìn tránh sang chỗ khác.

Tôi nhìn ra xung quanh. Một cái yên tĩnh vui vẻ, như thể có những hạt vàng nhỏ xíu đang nhẹ nhàng rơi như mưa xuống các đỉnh đồi và thung lũng. Mặc dù vậy, xung quanh đây vẫn có một cái vẻ buồn lạ lùng. Tôi rùng mình, cho dù trời đang ấm.

Tôi ngước mắt nhìn lên bầu trời xanh và lại nhớ đến Márinka, nhớ đến bé gái yêu quý của mình! Nhưng tôi có cảm giác là lúc này, tôi hơi sợ Márinka. Tôi vội nghĩ sang cái khác. Vâng, chỉ với một nhóm người, Žižka đã đánh tan một trăm nghìn lính Thập tự chinh. Chỉ trong một tiếng đồng hồ, hiệp sĩ Pecival tiêu diệt một trăm lính mang vũ trang. Nhưng mà... có trời biết được tại sao… có những khi ngay cả lịch sử cũng không có sức thuyết phục... bia hả hơi, đất cát ngậm trong miệng…

Không, không thể thế được, không thể lùi bước được, dứt khoát phải làm!

Bây giờ người đi ra khỏi cổng thành nhiều hơn. Tôi thờ ơ nhìn họ. Nhưng tự nhiên, tôi lại mê tín và lại đếm họ, và cũng tự nhiên, tôi quyết định sẽ đếm khác đi. Tôi chỉ chọn những người mặc quần áo có vẻ nhà quê, để có nhiều khả năng là họ sẽ rẽ sang tay trái, đi về phía Podbaba.

Bỗng nhiên thấy lạnh, tôi đứng dậy một cách khó khăn.

Tốt hơn hết là lại đi tuần tra một vòng nữa! Chẳng gì thì đó cũng hoàn toàn là nghĩa vụ đang kêu gọi tôi.

Tôi cố cộp mạnh gót giày bước đến gần Josef, nhưng tự tôi cũng nhận thấy là những bước chân ấy không lấy gì làm mạnh mẽ lắm. Vừa lúc đó, một sĩ quan giám sát đi vào pháo đài. Chúng tôi đành phải chờ đến lúc người ấy đi ra khỏi pháo đài.

Tôi nhìn thấy mặt Josef nhợt nhạt.

“Josef ơi, cậu đang sợ hả?” Tôi hỏi nó bằng giọng thông cảm thành thực.

Josef không trả lời. Nó đặt ngón trỏ tay phải vào mí dưới mắt phải rồi kéo mí xuống tận dưới, làm tôi trông thấy cả cái viền đỏ trong tròng mắt. Đó là cử chỉ không lời của thanh niên Praha, có nghĩa là hoàn toàn không.

Nhưng tại sao mà nó lại không nói ra là nó sợ kia chứ! Nước Áo có thể vẫn còn...

“Mười một... giờ,” Josef lập cập nói.

Tiếng chuông điểm mười một giờ chậm chạp đổ xuống trong bầu không khí nóng ấm, các tiếng chuông gõ rung rất lâu trong tai. Bất giác, tôi nhìn lên trên, như thể muốn xem tiếng chuông có biến thành một cái gì có hình dạng nhìn thấy được không. Đó là những tiếng chuông rất mạnh, vang lên từ một trong những nơi cổ kính nhất và lớn nhất của châu Âu!

Tôi còn từ từ đi vòng quanh chỗ canh gác của Antonín, sau đó chậm rãi đi xuống chỗ của Frantík. Tôi nghĩ là tôi sẽ phải ra lệnh quân sự để nó chú ý hơn.

Frantík vẫn còn đang ngồi ở lan can, nhưng không hút xì gà nữa mà ôm trong tay cái mũ đựng đầy mận. Nó ăn mận rất ngon lành. Nó cẩn thận nhè hạt mận ra tay, đặt lên đầu ngón trỏ rồi búng đi bằng ngón cái. Con gà mái trong đàn gà ở bên kia đường bị hạt bắn trúng kêu ré lên. Cả đàn đã chạy tan tác đến khoảng cách an toàn, chỉ còn một con màu đen còn đang mải tìm mồi ở chỗ gần đó. Đúng lúc Frantík đang nhằm búng hạt mận khác vào con gà đen thì tôi đi tới. Ngón tay búng bất ngờ bị chuyển hướng, lẽ ra hạt mận bắn vào con gà thì nó nhằm trúng cằm tôi. Hạt mận văng mạnh vào cằm, sắc buốt như bị roi quất. Khuôn mặt Frantík rạng rỡ vì thích thú.

“Làm cái gì thế hở? Mắt để vào đâu thế?”

“Tớ á? Cậu biết đấy, tớ không có mắt mà! Có ăn không?”

“Không đói. Mua hết bao nhiêu tiền vậy?”

“Tám krejcar. Ăn đi!”

“Tớ lấy bốn quả cho Josef thôi. Chú ý đấy, ông ấy sắp đến rồi!”

Tôi lại đi lên phía trên. Cảm thấy đau nhói vì một hạt mận khác bay sạt mang tai, nhưng tôi không ngoảnh lại mà điềm tĩnh bước tiếp.

Tôi quay trở lại chỗ canh gác của Josef vào lúc mười một giờ rưỡi. Josef vẫn đang nằm trên cỏ.

“Mận cho cậu đây, Frantík gửi.”

Josef gạt tay tôi ra. Tôi đặt mấy quả mận gần nó, rồi cũng ngả lưng nằm xuống bên cạnh.

Trên trời không một gợn mây. Nhưng mà khi nhìn lên trời thế này, tự nhiên tôi hoa mắt, tôi có cảm giác là nhìn thấy ở trên không đầy những con gì bé nhỏ màu trắng đang vun vút bay. Không chỉ nhìn thấy chúng, tôi còn có cảm giác là chúng đang bò trên khắp người tôi, máu trong tôi rân ran, các cơ bắp giật liên hồi. Chúng như những giọt chì đang nhỏ giọt từ trên trời xuống.

Tôi xoay nghiêng người, quay mặt về phía Josef.

Đồng hồ điểm mười một giờ bốn lăm phút.

“Này,” Josef quay sang nhìn tôi, hai mắt nó trợn tròn, “tớ đang sợ ông Pohorák phản bội chúng mình!”

“Có lẽ nào...”, tôi lắp bắp. Nhưng chính tôi cũng thấy không yên nên đứng dậy rồi đi đi lại lại. Cái cảm giác kinh hoàng nhất về sự phản bội đen tối làm u mê đầu óc tôi.

Qua bụi cây, tôi trông thấy Frantík đang chạy từ dưới đường lên.

“Frantík!”... Và ý nghĩ đầu tiên là: chúng ta hãy chạy trốn!

Josef cũng đã đứng dậy. Từ phía đằng kia, Antonín vội vàng chạy tới, nó cũng nhìn thấy Frantík đang chạy.

Frantík thở không ra hơi. “Một người bán hàng... ở ngoài chợ... bị cảnh sát bắt! Những người đang uống rượu... ở quán dưới kia... nói thế!”

Không ai trong chúng tôi dám nói ra câu “Đó là ông Pohorák!” nhưng như đàn chim bị hòn đá to ném giữa đàn, ngay lập tức chúng tôi tản ra mọi phía.

Ba chân bốn cẳng, tôi lao xuống đường, đầu tôi ngả nghiêng. Chỉ trong khoảng khắc, tôi đã ở dưới phố Valdštýnská, nhưng một cái gì đó thúc tôi chạy mãi. Tôi ngoặt sang phố Senovážná, con đường rải đá lùi nhanh dưới chân tôi. Một loáng sau, tôi đã đến bên nhà thờ Thánh Tomáš. Tôi muốn chạy dọc theo đường che mái vòm xung quanh quảng trường để ngược lên. Tôi chạy qua cái cột thứ nhất, nhưng ngay lập tức tôi phải dừng lại và đứng nép vào chiếc cột thứ hai. Vì chính lúc đó, cảnh sát đang giải ông Pohorák đi, cả con chó và cái xe hàng của ông nữa. Tôi trông thấy rất rõ là ông Pohorák đang xúc động. Nỗi đau khổ không thể tả được in trên nét mặt ông.

Lịch sử loài người sẽ có một chỗ trống, nếu như tôi không kể ra đây cái gì đã xảy ra với ông Pohorák. Sáng ngày hôm ấy, ông Pohorák đi qua cổng thành Strahov muộn hơn mọi khi. Có thể nói là so với thói quen của những người bán hàng và tập quán của Praha thì ông đã đến rất muộn, mãi vào lúc bảy giờ. Ông kéo xe hàng vội vã đi, con chó trắng mừng rỡ vì không phải kéo nên chạy theo rất vui vẻ.

“Sao hôm nay ông đi muộn thế?” Ông thợ nướng bánh mì ở phố Hluboká hỏi. Ông ta đang đứng ở vỉa hè và thong thả hút thuốc.

“Ấy, phải dừng lại mấy chỗ,” ông Pohorák cười và dừng xe lại. Ông thò tay vào túi bên phải, lấy ra một chai rượu carum, đưa cho ông thợ bánh và nói: “Ta uống với nhau một ngụm chứ ông?”

“Cám ơn ông, lúc sáng tôi đã làm một hớp rồi.”

“Thì tôi cũng thế. Nhưng một hớp thì thấm thía gì!” Nói đoạn, ông Pohorák dốc ngược chai, uống cạn, nhét chai vào xe, giơ tay chào rồi đẩy xe đi tiếp.

Chợ Selský đã đông nghịt. Cảnh sát dẫn ông Pohorák đi hết chỗ này sang chỗ kia để tìm nơi đặt xe hàng. Ông Pohorák làu bàu với cảnh sát, nhưng cuối cùng thì họ cũng tìm được một chỗ trống. Tuy cũng có khi mang bán thịt thỏ, bơ và trứng, nhưng hôm nay ông Pohorák chỉ có thịt gà mái và chim bồ câu. Hàng bán chủ yếu của ông là thịt gia cầm, cũng do vậy mà người ông như thấm cái mùi đặc biệt, không thơm tho gì của gia cầm, chỉ đến gần ông mấy bước là đã ngửi thấy rồi.

Ông Pohorák đã gần sáu mươi. Ông không phải là người cao to béo khỏe gì, mà chỉ tầm trên trung bình, lưng hơi còng còng, dáng người xương xương. Khuôn mặt gầy gò của ông rỗ chằng chịt vì bệnh đậu mùa, người tốt bụng có lẽ muốn khuyên ông nên đi mài lát mặt cho nhẵn nhụi. Ông mặc cái áo khoác màu xanh xanh có kẻ ô nhỏ, nhưng ở một vài chỗ, nhất là ở phía lưng bên dưới cổ áo và ở vai bên trái thì không còn thấy ô kẻ nữa, mà trông như có lớp bùn khô. Ông cũng mặc một chiếc quần màu nâu nhàu nát, nhưng hai ống quần bao giờ cũng xắn cao gọn ghẽ, mặc dù đã bảy tám tuần nay không hề có mưa. Mùa hè cũng như mùa đông, bao giờ ông cũng đội cái mũ vải tối màu, ở vành mũ có giắt giấy nộp thuế.

Ông Pohorák trải một ít rơm bên dưới xe hàng cho con chó của ông chui vào cuộn mình nằm trong đó. Rồi ông sắp đặt hàng trên xe, đứng thẳng người lên và ngó nhìn xung quanh.

“Bà chị trông giùm tôi một lát nhé,” ông nói với bà bán hàng trạc sáu mươi ở bên cạnh, “tôi chỉ đi uống cốc sữa thôi, đi từ sáng đến giờ đói rồi.”

Ông sang quán cà phê gần đấy, uống cạn một cốc sữa. Ông đi tiếp ba bước đến hàng rượu, uống hai chén rượu lúa mạch đen và mua chai rượu nhỏ nhét vào túi. Sau đó ông đi mua hai cái bánh rắc hạt thuốc phiện, một cái cho mình, một cái cho con chó, rồi trở về xe hàng của mình.

“Đặt vào bên trái hay bên phải?” Người đàn bà cho thuê ghế ngồi đến hỏi. Ông Pohohák im lặng chỉ tay, đưa cho người đàn bà một krejcar rồi ngồi xuống ghế. Ông đưa tay vào túi bên trái áo khoác, lấy ra cái tẩu và gói thuốc. Ông mở gói thuốc, nhồi tẩu, lấy bao diêm từ túi phải áo khoác, rồi châm lửa hút một cách ngon lành. Lúc này ông mới nhìn hàng của mình.

“Gà sẽ bán bốn mươi krejcar, chim bồ câu hai mươi krejcar,” ông tự nhủ và tiếp tục hút tẩu.

Một người đàn ông già to béo đi tới. Gọi là ông già, bà già, hay ông nấu bia, bà nấu bia, bởi có thể nhận ra họ một cách dễ dàng. Khi ra chợ thì họ có cô hầu đi theo sau, mang theo cái thùng có miệng nẹp đồng.

“Gà giá bao nhiêu đấy ông?”

“Bao nhiêu ư?” Ông Pohorák chuyển cái tẩu sang mép bên kia rồi chậm rãi trả lời. “Có là người ngốc thì tôi mới bảo ông giá bao nhiêu. Nhưng tôi bán bốn chục krejcar.”

“Ôi trời, điên hay sao mà bán đắt thế! Băm hai nhé? Đồng ý thì tôi lấy sáu con.”

Ông Pohorák im lặng lắc đầu, ngồi xuống và tiếp tục hút thuốc. Ông già bỏ đi.

“Này ông ạ, hôm nay giá ấy không bán được đâu,” bà bán hàng ngồi bên cạnh nói. Đó là người mà ông Pohorák đã thân mật gọi bằng “bà chị”. “Tôi bảo đừng giữ giá ấy làm gì, chợ hôm nay nhiều gà lắm.”

“Thì việc gì đến nhà bà, hả mụ già gở mồm? Tôi thích bán thế nào thì tôi bán, bà cứ lo hàng của bà đi, chứ chả phải lên mặt dạy tôi bán hàng! Mà hôm nay có chẳng bán được gì thì tôi cũng đã kiếm được rồi!” Ông Pohorák nói thêm và rút mấy zlatý ra khỏi túi áo, giơ lên lắc lắc.

“Bà chị” lặng thinh không nói gì nữa. Ông Pohorák cũng vậy. Ông uống ngụm rượu để cho vợi nỗi tức giận.

Một bà cùng một cô hầu đi đến.

“Gà này bao nhiêu?”

“Bốn chục.”

“Sao đắt thế! Băm nhăm có được không?”

Ông Pohorák im lặng.

“Nào, bán cho tôi đi.”

“Không được, không bán được. Tôi đã định thế là thế, không rẻ hơn được.”

“Thưa bà, ta đi chỗ khác đi,” cô hầu nói, “mà gà này trông còn có vẻ không tươi nữa bà ạ.”

“Mày nói sao hả? Không tươi à? Có mày không tươi thì có! Đồ phù thủy ạ! Gà của tao tươi đủ màu đây này,” ông Pohorák cầm chân mấy con gà rồi quay tròn chúng trên không.

“Hé hé! Hớ hớ!” Tất cả các “bà chị” ở xung quanh phá lên cười giòn giã. Ông Pohorák lại uống rượu để giải cơn giận dữ.

Chợ dần dần vãn người. Gà và chim bồ câu của ông Pohorák vẫn còn nguyên. Thỉnh thoảng, ông nhìn xe hàng tỏ vẻ khó hiểu, nhưng rồi lại lẩm bẩm: “Mình đã định thế thì làm sao khác được.”

Rượu bắt đầu ngấm.

Ông hàng xúc xích đến. “Xúc xích đây! Xúc Xích đây!”

“Đưa tôi một chiếc!” Ông Pohorák lấy một chiếc xúc xích ăn. Trong khi đó, ông hàng xúc xích đi bán cho các bà hàng ở gần đó. Ông ấy quay trở lại chỗ ông Pohorák.

“Xin ông cho ba krejcar tiền xúc xích ạ.”

“Xúc xích nào?”

“Cái xúc xích ông vừa ăn hết ấy!” Bà bán hàng phía đối diện nhắc.

“Tôi mà vừa ăn hết cái xúc xích á? Các ông các bà điên à?”

Họ cãi nhau. Ông Pohorák lớn tiếng chửi. Ông hàng xúc xích múa cái kẹp xúc xích trên không và gọi cảnh sát.

Cảnh sát hỏi: “Ông đã ăn xúc xích, phải không?”

“Đã.”

“Thế thì trả tiền đi!”

“Thì tất nhiên!... À, bây giờ thì tôi nhớ ra rồi. Ông cảnh sát ạ, ông cũng biết tôi già rồi, đầu óc lẫn cẫn.”

Mọi người xung quanh lại khúc khích cười. Ông Pohorák ngồi xuống ghế, mặt mày ủ dột, ông than phiền: “Cái đầu tôi... ối cái đầu tôi.” Nói đoạn, ông uống cạn chai rượu.

Trời nắng chói chang. Ông Pohorák thấy trong mình khó chịu. Ông nhìn con chó đang ngủ ngon lành dưới bóng râm của xe hàng. Ông thu hết sức, chậm chạp kéo tấm bạt che đống thịt gà và chim bồ câu, rồi cũng chui vào nằm dưới gầm xe.

Người mua hàng cuối cùng đã đi ra khỏi chợ. Các bà bán hàng bắt đầu thu dọn quầy. Người cảnh sát đi vòng quanh chợ và giục mọi người:

“Dọn hàng đi thôi!”

Bây giờ, ông ta đứng trước xe hàng của ông Pohorák.

“Dọn đi chứ! Xe của ai đây?” Nói đoạn, ông bèn lay chiếc xe. Có tiếng gầm gừ từ dưới xe. Người cảnh sát cúi nhìn xuống đó và trông thấy ông Pohorák đang nằm ngủ say sưa trên lớp rơm, cái mũ lót dưới đầu. “Này, ông Pohorák, dậy đi!”, và kéo chân ông ta.

Vừa lúc đó, con chó nhảy phóng ra, đẩy cái xe nghiêng sang một bên, bánh xe lăn qua tay ông Pohorák, nhưng ông ấy vẫn tiếp tục ngủ. Người cảnh sát bật cười.

Nhóm thợ quét dọn chợ đã bắt đầu làm việc. Người cảnh sát gọi một người trong nhóm: “Anh lại đây, té vào ông ấy một tí nước!” Người này lập tức giội lên đầu ông Pohorák một nửa thùng nước.

Ông Pohorák giật mình ngồi dậy dụi mắt.

“Đứng lên!”

Ông Pohorák chập chạp đứng dậy.

“Tôi nhọc quá... già rồi, chẳng làm lụng vất vả được nữa…”

“Vâng, bây giờ thì đi theo tôi, cụ già ạ. Về đồn mà ngủ cho đẫy giấc.”

“Ông ra lệnh thì tôi theo.” Ông Pohorák nắm lấy càng xe rồi đi theo người cảnh sát, trong lòng đầy nỗi u buồn.

Cuộc họp cảm động diễn ra trên tầng mái ở nhà Josef. Tất cả đều thề sẽ không bao giờ và không bao giờ phản bội nhau. Tôi - Žižka - đã kể lại cho các bạn mình: “Tớ đã trông thấy ông ấy, tớ hoảng quá, nhưng không thể giúp được ông ấy cái gì!” Chỉ Antonín không có mặt trong buổi họp, vì lúc này nó đã đang trên đường về Rakovník.

Cái sợ hãi khủng khiếp của chúng tôi kết thúc lúc sáu giờ chiều. Ông Pohorák khó nhọc kéo xe lên dốc, dừng lại ở trước cửa hàng của bố mẹ Josef. Sau cánh cửa kính ngăn cửa hàng với phòng ở, Josef đứng lắng nghe, trống ngực nó đập thình thìch.

“Tự nhiên tôi thấy khó chịu quá ông bà ạ, người ta phải dẫn tôi lên đồn cảnh sát, tôi đã chợp mắt ở đấy được một tí, nhưng tối nay thì tôi phải ngủ lại ở Pohořelec. Chợ búa hôm nay chán quá, chắc ngày mai khá hơn...”

Mấy hôm sau, người ta phát hiện ra một khẩu súng mới tinh ở một góc cạnh đài phun nước. Không ai biết nó từ đâu ra, và thế là mọi người bàn tán với nhau nhiều chuyện lạ lùng.

Phải mãi bốn tuần sau Josef mới tìm gặp ông Pohorák, vừa lúc ông ấy kéo chiếc xe đã bán hết hàng từ chợ ra. Nó hỏi ông ấy:

“Ông ơi, ông đã để sáu zlatý vào đâu rồi ạ?”

Ông Pohorák dừng xe lại:

“Sáu zlatý nào?”

“Tiền cháu đã đưa cho ông... để ông mua... để ông mua cho cháu một ít thuốc súng ấy mà.”

“Đưa cho tôi những sáu zlatý kia ư? Josef ạ, tôi nghĩ là cậu định thử lừa tôi... Này, lừa người già là tội lỗi đấy nhé!”

Nói rồi, ông ta nhấc tay phải, giơ ngón tay lên cảnh báo.

BÌNH SLAVICKÁ dịch