- 12 - DỊP LỄ CÁC ĐẲNG LINH HỒN NĂM NAY
Tôi không biết cô ấy sẽ còn lại đến nghĩa trang Košíř vào dịp Lễ các Đẳng Linh hồn[32] bao nhiêu lần nữa, vì ít ra thì ngày hôm nay cô ấy đi lại đã nặng nhọc, chân cô ấy xem ra không còn khỏe nữa. Năm nay cũng lại giống như mọi năm. Khoảng mười một giờ trưa, cô ấy nặng nề xuống xe ngựa; người đánh xe lấy ra hai vòng hoa bọc trong vải trắng rồi bế một bé gái năm tuổi mặc quần áo ấm ra khỏi xe. Đã mười lăm năm nay, bé gái vẫn chỉ là đứa trẻ năm tuổi, bởi cô Máry luôn luôn mượn con của một nhà hàng xóm nào đó.
“Cháu ơi! Cháu thấy chưa, ở đây đông người nhỉ? Lại còn nhiều đèn nến, cả hoa nữa! Cháu cứ đi đi, đừng sợ, cứ đi trước đi, lối nào thích thì đi, cô sẽ theo cháu.”
Bé gái rụt rè đi lên phía trước. Cô Máry bước liền sau nó, cô giục nó đi, nhưng không nói về hướng nào. Họ cứ đi, rồi bỗng nhiên cô bảo: “Chờ cô!” và cầm tay bé gái, dắt nó tới ngôi mộ gần đó. Từ cây thập giá sắt, cô gỡ vòng hoa cũ đã sờn và bạc màu vì mưa gió rồi treo lên đó vòng hoa mới, tết bằng hoa giả màu trắng và màu đen. Cô đặt tay lên cây thập giá và bắt đầu cầu nguyện; cô không quỳ xuống, vì nó khó nhọc đối với cô. Lúc đầu, cô nhìn xuống đám cỏ khô héo trên nền đất nâu của ngôi mộ, sau đó đột ngột ngẩng đầu lên. Khuôn mặt cô to và dễ chịu, con mắt lớn màu xanh thành thật như nhìn vào đâu đó xa xăm, rồi như mờ đi, khóe miệng cô giật giật, đôi môi đang cầu nguyện mím lại run rẩy, nước mắt cô đầm đìa. Bé gái ngạc nhiên ngước mắt nhìn, nhưng cô Máry không trông thấy gì cả, không nghe thấy gì cả. Một lúc sau, như thể bị đánh, cô đột nhiên bừng tỉnh lại, nghẹn ngào thở dài, đau đớn mỉm cười với đứa trẻ và cất tiếng thầm thì hơi khô khan: “Nào, lại đi tiếp đi cháu! Muốn đi lối nào cũng được, cô vẫn theo cháu.”
Thế là cô lại theo đứa trẻ đi từ chỗ này sang chỗ khác, để rồi lại đột nhiên bảo nó: “Cháu chờ cô!”, và đi tới một ngôi mộ khác. Cô lại làm đúng như ở ngôi mộ thứ nhất, tôi nghĩ cô không ở đó lâu hơn một chút nào so với lúc ở bên mộ ấy. Cô xếp cái vòng hoa cũ vào túi đựng có vòng thứ nhất, rồi cầm tay người dẫn đường nhỏ bé của mình và bảo nó: “Cháu rét rồi nhỉ? Thôi, đi về nhé, kẻo cháu bị lạnh. Cháu muốn về rồi, phải không? Cô cháu mình lại lên xe ngựa về nhà nhé!” Cả hai chậm rãi ra xe ngựa, bé gái và các vòng hoa cũ được đặt trước lên xe, cô nặng nề lên sau. Người đánh xe thúc ngựa, quất nó hai ba roi, rồi xe chạy. Cứ như thế, năm này qua năm khác.
Nếu mà là nhà viết văn còn trẻ thì chắc đến đây tôi sẽ viết: “Bạn hỏi hai ngôi mộ ấy là của ai ư?” Nhưng tôi biết là bạn đọc không bao giờ hỏi cái gì cả. Người viết văn phải ép độc giả của mình, thế nhưng ở đây thì hơi khó. Cô Máry là người khó gần, cô ấy không bao giờ nói về mình và không bao giờ làm thân với ai, kể cả với hàng xóm gần cận nhất. Suốt từ hồi nhỏ cho đến bây giờ cô chỉ có duy nhất một người bạn gái, đó là cô Luize, trước đây xinh gái, nhưng bây giờ là người vợ góa héo hon của ông Nocar, nguyên là phụ trách sở Hải quan. Chiều hôm nay, cả hai sẽ cùng ngồi với nhau ở nhà cô Nocarová. Không mấy khi cô Máry đến nhà bạn gái của mình ở phố Vlašská, nói chung cô ấy rất ít khi ra khỏi căn hộ tầng một của mình ở phố Janský Vršek. Chỉ trừ khi đi nhà thờ Thánh Mikuláš vào buổi sáng sớm ngày chủ nhật, còn thì hầu như không lúc nào khác cô ra khỏi nhà. Đã từ lâu nay, cô đi lại rất khó khăn bởi cô quá béo. Vì vậy mà bạn gái của cô không muốn cô vất vả, ngày nào cũng tới thăm cô. Tình bạn lâu năm và chân thật đã gắn bó họ với nhau.
Nhưng ngày hôm nay mà ở nhà thì cô Máry thấy buồn vô cùng. Cô cảm thấy trống trải hơn, cô đơn hơn mọi khi, thế là cô bỏ sang nhà bạn gái. Vì thế, đối với cô Nocarová ngày hôm nay là ngày hội. Không bao giờ cô rang cà phê cẩn thận như ngày hôm nay, không bao giờ cô trông coi lò nướng bánh kĩ lưỡng như ngày hôm nay, làm sao để cho cái bánh ga tô nở phồng chứ không bị xẹp. Buổi gặp gỡ của họ mang không khí ngày hội và không ồn ào. Họ không nói nhiều, bất kỳ điều gì họ nói cũng có vẻ đơn điệu, nhưng vẫn có nhiều ý nghĩa. Chốc chốc họ lại ứa nước mắt và ôm nhau nhiều hơn mọi khi.
Họ ngồi bên nhau ở ghế sofa đã lâu, cuối cùng thì họ nói đến điều mà hàng năm họ vẫn nói.
“Chị ạ,” cô Nocarová nói, “trời phú cho chị em mình số phận gần giống nhau. Em đã có người chồng tốt bụng và hiền lành, nhưng về ở với nhau được hai năm thì anh ấy mất mà chẳng để lại cho em một mụn con nào làm vui. Thế là từ ấy em cũng ở một mình - em không biết cái gì khổ hơn cái gì: không bao giờ biết ai, hay là biết, rồi bị mất đi.”
“Vâng, chị cũng biết đấy, em bao giờ cũng tuân theo ý trời,” cô Máry trịnh trọng nói. “Em đã biết trước được số phận của mình mà. Em đã mơ thấy - vâng, em nằm mơ thấy là hồi hai mươi tuổi, em đã đi khiêu vũ - chị biết là em chưa hề đi khiêu vũ lần nào. Em và các bạn nhảy đi từng cặp với nhau trong tiếng nhạc, trong ánh sáng rực rỡ, nhưng có một điều lạ là phòng nhảy ở một chỗ giống như một tầng mái rộng thênh thang. Tự nhiên, các đôi bạn nhảy ở phía trước đi ra cầu thang để xuống tầng dưới, em ra sau cùng với một người đàn ông mà em không nhớ mặt. Khi chỉ còn lại vài người, tự nhiên em quay lại rồi nhìn thấy thần chết đang đi sau lưng. Hắn mặc áo khoác nhung, đầu đội mũ có cắm một cái lông trắng, tay cầm thanh kiếm. Em giục mọi người đi nhanh xuống, nhưng mà tất cả đã biến mất, cả bạn nhảy của em cũng biến mất. Bất ngờ, thần chết chộp tay em rồi lôi em đi. Em đã sống rất lâu ở một lâu đài và thần chết đã như là chồng của em. Hắn đối đãi với em rất tử tế, hắn yêu em, nhưng em ghét hắn. Mọi thứ xung quanh em và thần chết đều đẹp vô cùng, toàn là đồ pha lê, vàng bạc và nhung lụa, nhưng không cái gì làm em vui được. Em chỉ luôn luôn mong được trở về trần gian, một thần chết khác đã thường báo tin cho em về mọi việc ở đấy. Em biết là khát vọng của em làm chồng em đau buồn, nên em đã cảm thấy thương hại hắn. Ngay từ hồi đó, em đã biết là em sẽ không bao giờ đi lấy chồng, và thần chết là chú rể của em rồi. Chị Luizi ơi, chị thấy chưa, các giấc mơ chẳng là ý trời thì là gì? Cái chết chẳng đã tách đời em khỏi đời mọi người sao?”
Mặc dù đã nghe kể về giấc mơ ấy không biết bao nhiêu lần rồi, nhưng cô Nocarová vẫn bật khóc. Tiếng khóc của người bạn gái như dòng nhựa thơm mát lạnh, thấm vào tâm hồn đau đớn của cô Máry.
Quả cũng lạ, là cô Máry không bao giờ đi lấy chồng. Cô mồ côi từ nhỏ, là người tự lực, là chủ nhân của ngôi nhà hai tầng ở đường Svatojánský. Cô cũng không xấu, cứ nhìn cô bây giờ thì thấy. Cô cao, ít người đàn bà quý phái nào có dáng người như cô, đôi mắt xanh của cô thật đẹp, đôi má tuy có hơi to một chút, nhưng đều đặn và dễ chịu, chỉ có điều ngay từ nhỏ, cô khá đẫy đà nên bị mang cái tên là “Máry béo”. Chính vì khổ người như vậy nên cô hơi lười, chẳng đi chơi với những đứa trẻ khác, sau này cô cũng không đi lại chơi bời ở đâu, hàng ngày duy nhất một lần cô ra khỏi nhà để đi dạo ở khu tường thành Marián. Không thể nói là đã có khi nào một người nào đó của khu Malá Strana suy nghĩ về việc tại sao cô Máry không lấy chồng. Xã hội của Malá Strana là xã hội có những đặc thù nhất định, cô Máry thuộc người mang đặc thù nữ đồng trinh, và không một người nào lại nghĩ rằng điều đó có thể khác đi được. Nếu mà có một người phụ nữ nào đó khôn khéo dùng những lời lẽ thông thường của đàn bà để khơi chuyện về điều đó, thì cô Máry cũng trả lời với nụ cười bình thản: “Tôi nghĩ là con người ta, dù không lập gia đình thì cũng có thể phục vụ trời được, có đúng không?” Nếu ai hỏi cô Nocarové về chuyện đó, thì cô nhún đôi vai gầy của mình rồi trả lời: “Cô ấy có muốn đâu! Cô ấy có thể lấy chồng, mà lấy chỗ tử tế, có trời chứng giám! Bản thân tôi, tôi biết là có hai đám, toàn người rất tốt cả, nhưng mà cô ấy có muốn đâu!”
Nhưng mà tôi, trí nhớ của Malá Strana, thì tôi biết là cả hai đám ấy đều là hai kẻ lêu lổng và không ra gì cả! Họ có phải là ai khác đâu, đó là tay bán hàng tạp hóa, tên là Cibulka, và tay thợ khắc, tên là Rechner, hai kẻ mà bất kỳ ở đâu người ta cũng bảo là “Cái bọn rượu chè!” Tôi không cho rằng họ đến mức là kẻ tội lỗi, họ vẫn còn chưa đến nỗi ấy, nhưng mà họ cũng chẳng ra gì, không nền nếp, không an cư lập nghiệp, không thông minh. Tay Rechner không bao giờ bắt đầu làm việc trước ngày thứ tư và từ trưa ngày thứ bảy đã lại nghỉ không làm việc nữa. Hắn có thể kiếm được nhiều tiền, và hắn rất khéo tay, ông Hermann, người làm nghề viết thuê và là đồng hương với mẹ tôi, thường khẳng định như vậy; nhưng mà hắn đâu có thích làm việc! Còn tay bán hàng tạp hóa Cibulka thì ngồi trong quán rượu dưới vòm hiên nhiều hơn là ngồi ở trong cửa hàng của mình, bao giờ hắn cũng ngủ cho đến sáng bạch, ấy vậy mà khi ra đứng ở quầy bán hàng thì lúc nào hắn cũng còn ngái ngủ, cái miệng luôn lầu bầu. Nghe nói hắn còn biết cả tiếng Pháp, nhưng hắn chẳng chăm lo gì đến việc buôn bán, thành ra đứa giúp việc của hắn cứ thả cửa muốn làm gì thì làm.
Cả hai gần như lúc nào cũng đi đôi với nhau; thi thoảng, giả sử mà trong trí óc người nào có nảy ra được một ý nghĩ gì cao thượng, thì người kia chắc hẳn dập ngay. Nhưng nếu có ai muốn đến ngồi cùng bàn với họ thì tất nhiên không có bạn chơi nào hóm hỉnh vui nhộn hơn họ. Nụ cười nhẹ luôn thoáng qua khuôn mặt sắc cạnh đã cạo râu, vênh ra phía trước của gã Rechner nhỏ bé, giống như mặt trời di chuyển từ bên này sang bên kia. Mái tóc dài màu hạt dẻ của hắn chải lật về phía sau, bao giờ cũng để lộ rõ cái trán cao; và trên đôi môi mỏng nhợt nhạt luôn luôn thường trực cái vẻ nhạo báng. Cái thân hình gầy gò lúc nào cũng mặc bộ quần áo màu vàng ưa chuộng của hắn liên tục ngọ ngoạy, đôi vai hắn co giật từng hồi.
Anh bạn Cibulka của hắn thì lại luôn luôn mặc đồ đen, là người bình tĩnh hơn nhiều, nhưng chỉ là vẻ bề ngoài vậy thôi. Hắn ta cũng đét người như Rechner, nhưng cao lớn hơn một chút. Hắn có cái đầu nhỏ và trán thấp vuông vuông, cặp lông mày rậm và đen, hơi nhô ra che cả hai con mắt sáng, bộ ria dài, đen và mềm mại như nhung rủ xuống cái miệng góc cạnh rõ ràng, qua đó lấp lánh hàm răng trắng như ngọc mỗi khi hắn cười. Trên gương mặt của Cibulka có một cái gì đó vừa dữ tợn nhưng đồng thời cũng vừa tốt bụng hiền lành. Cibulka thường nén cười đến lúc không nhịn được nữa thì cười phá ra, để rồi lại cố tỏ ra bình thản. Họ hiểu nhau, chỉ cần đưa mắt một cái là họ hiểu hết mọi chuyện, kể cả lời bình luận. Thế nhưng ít người đến ngồi cùng bàn với họ. Mọi người thấy các câu đùa của cả hai có vẻ ăn chơi, quá đáng và họ không hiểu được; họ cảm thấy là lời lẽ của hai người luôn luôn bất kính phạm thượng thế nào đó. Nhưng Cibulka và Rechner thì chẳng bận tâm gì đến xã hội cổ hủ ở Malá Strana. Vào buổi tối, cả hai thấy thích các quán nhỏ xa ở bên Thành phố Cổ hơn nhiều; họ lang thang khắp thành phố, thậm chí cứ hai ngày một lần họ còn đến cả khu František hẻo lánh. Vào khoảng nửa đêm về sáng, khi nào có tiếng cười vui vẻ ở ngoài phố của Malá Strana thì chắc chắn đó là lúc Rechner và Cibulka đi quán về.
Cả hai cùng lứa tuổi với cô Máry. Trước đây, họ cùng đi học với cô ở trường giáo xứ Mikuláš, nhưng rồi sau đó họ không quan tâm đến cô và cô cũng không quan tâm gì đến họ. Ba người chỉ gặp nhau ở ngoài đường và cái chào hững hờ là trao đổi duy nhất giữa họ.
Nhưng rồi một hôm, cô Máry bỗng nhận được một bức thư viết cẩn thận, nét chữ đẹp như thư pháp. Khi đọc xong, cô buông thõng hai tay và lá thư rơi xuống đất.
Thư viết thế này:
“Kính thưa quý cô!
Chắc hẳn quý cô sẽ rất ngạc nhiên là tôi viết thư cho quý cô, mà lại chính là tôi. Và cô sẽ còn ngạc nhiên hơn nữa vì những gì tôi viết. Chưa bao giờ tôi dám mạo muội đến gần cô, nhưng mà - để khỏi quanh co dài dòng - tôi yêu cô! Tôi đã yêu cô từ lâu rồi. Tôi cảm thấy rằng chỉ sống với cô, tôi mới là người hạnh phúc!
Thưa cô Máry! Có thể là cô sẽ ngạc nhiên và từ chối tôi. Có thể là những lời đồn đại sai trái đã làm tổn thương đến danh tiếng của tôi ở cô và cô sẽ nhún vai khinh thường. Nhưng tôi không thể làm gì khác được mà chỉ xin cô đừng vội vàng, xin cô suy nghĩ kĩ trước khi nói lời quyết định. Tôi chỉ muốn nói là cô có thể tìm thấy ở tôi một người chồng hết sức cố gắng làm cho cô hạnh phúc.
Một lần nữa, tôi xin cô hãy suy nghĩ kĩ càng. Tôi sẽ chờ lời quyết định của cô trong vòng bốn tuần kể từ ngày hôm nay, không sớm hơn và cũng không muộn hơn.
Còn bây giờ - xin quý cô thứ lỗi cho.
“Kẻ trung thành và cuồng nhiệt khát vọng của cô, Vilém Cibulka”.
Cô Máry choáng váng cả đầu óc. Cô đã xấp xỉ tuổi ba mươi và không ngờ lại đột nhiên nhận được lời tỏ tình đầu tiên. Vâng, thật sự đó là lời tỏ tình đầu tiên. Cô chưa bao giờ tự mình nghĩ đến tình yêu và cũng chưa bao giờ có ai thổ lộ tình yêu với cô.
Những tia chớp đỏ nóng bỏng vụt qua đầu cô, hai bên thái dương cô rần rật, cô gần như nghẹn thở. Cô không tài nào suy nghĩ được gì. Cô chỉ thấy trước mặt mình, ở giữa những tia chớp đỏ, có một bóng người đứng - đó là Cibulka với vẻ mặt u sầu.
Rồi cô nhặt bức thư lên, run rẩy đọc lại. - Thư viết mới hay làm sao! - Mới dịu dàng âu yếm làm sao!
Cô không biết phải làm gì, thế là cô mang bức thư đi đến nhà bạn gái, đến bà quả phụ Nocarová. Cô lặng lẽ đưa lá thư cho bạn.
“Đấy, thấy chưa,” một hồi lâu sau cô Nocarová mới lên tiếng. Trên mặt cô lộ rõ vẻ ngạc nhiên bối rối. “Thế chị tính sao?”
“Em không biết, chị Luizi ạ.”
“Thì chị cũng còn nhiều thời gian để suy nghĩ. Dù rằng cái đó bao giờ cũng có thể - chị đừng giận nhé - nhưng chị biết là bọn đàn ông thế nào rồi, có nhiều người đi lấy vợ chỉ vì tiền… nhưng mà... tại sao mà anh ấy lại không thể yêu chị thật sự chứ? Chị ạ, em sẽ đi thăm dò kĩ về anh ấy cho chị.” Cô Máry im lặng.
“Chị ạ, Cibulka đẹp trai đấy! Mắt anh ấy đen như hai hòn than, ria đen và hàm răng... hàm răng như ngọc ấy chị ạ. Anh ấy thật ra rất đẹp trai!” Và cô Nocarová nghiêng về phía người bạn gái đang im lặng rồi ôm bạn một cách âu yếm.
Cô Máry đỏ bừng lên như son.
Đúng một tuần sau đó, khi đi nhà thờ về, cô Máry nhận được một bức thư khác. Càng đọc, cô càng ngạc nhiên hơn:
“Thưa cô!
Xin cô thứ lỗi cho tôi vì tôi dám bạo dạn viết thư cho cô. Đúng là thế, tôi quyết định lấy vợ, tôi cần một người nội trợ thật đảm đang cho việc nhà của tôi, nhưng mà tôi không quen biết ai, bởi vì công việc của tôi không cho phép tôi có thời gian vui chơi, dù có muốn tìm thế nào đi nữa, tôi vẫn càng ngày càng cảm thấy rằng dứt khoát chỉ cô mới có thể là người vợ tốt của tôi. Xin cô đừng nghĩ xấu về tôi, tôi là người tử tế, cô sẽ không sai lầm nếu lấy tôi, tôi có chút gia tài và biết làm việc, và nhờ trời chúng ta sẽ không thiếu thứ gì. Tôi ba mươi mốt tuổi rồi, cô biết tôi và tôi biết cô. Tôi cũng biết rằng cô là người giàu có, và như vậy thì cũng tốt. Tôi phải nói rằng gia cảnh của tôi bây giờ không thể thiếu người nội trợ được nữa, rằng tôi không thể chờ lâu được, vì thế tôi cũng xin cô vui lòng cho biết tin, muộn nhất là đến mười bốn ngày, nếu không thì tôi sẽ phải đi tìm chỗ khác. Tôi không phải là người mơ mộng, tôi không biết nói lời hoa mĩ, nhưng tôi biết yêu thương và trong vòng mười bốn ngày tôi sẽ là kẻ trung thành và biết trân trọng của cô.
Jan Rechner, thợ khắc.”
“Anh ta viết chân thực như một người đơn giản,” buổi chiều hôm đó cô Nocarová nói thế. “Vậy là chị được lựa chọn đấy, Máry ạ - thế bây giờ chị sẽ làm gì?”
“Em sẽ làm gì ư?” cô Máry hỏi lại như trong mơ.
“Thế chị thích ai hơn nào? Chị nói thật đi... chị thích ai trong hai người?... Ai vậy?”
“Vilém” cô Máry đỏ ửng lên, nói thầm.
Vậy là Cibulka đã được cô Máry âu yếm gọi là “Vilém”[33] - dĩ nhiên thì Rechner bị loại khỏi vòng. Hai người thỏa thuận với nhau là cô Nocarová có kinh nghiệm hơn sẽ tự mình thảo bức thư trả lời Rechner và cô Máry sẽ chép lại.
Chỉ chưa đầy một tuần sau, cô Máry lại đến nhà bạn gái, trong tay cầm lá thư mới. Gương mặt cô rạng rỡ hài lòng. Bức thư viết:
“Thưa cô!
Xin cô đừng trách tôi, việc đó cũng tốt và không phải là lỗi của tôi. Giá mà tôi biết trước là bạn thân của tôi, anh Cibulka, muốn cầu hôn cô, thì tôi đã chẳng viết thư ấy cho cô, nhưng mà anh ấy không nói gì với tôi nên tôi đã không biết gì cả. Tôi đã nói tất cả với anh ấy rồi và tôi xin tự nguyện rút lui bởi vì anh ấy yêu cô, nhưng tôi xin cô đừng cười tôi, bởi vì như vậy thì chẳng hay gì và tôi còn có thể đi tìm hạnh phúc ở chỗ khác. Mặc dù đó là điều đáng tiếc cho tôi, nhưng không sao cả, và xin cô hãy quên đi việc tôi là kẻ trung thành và biết trân trọng của cô.
Jan Rechner, thợ khắc.”
“Thế nhé, bây giờ thì chị không phải lưỡng lự gì nữa nhé!” Cô Nocarová nói.
“Nhờ trời!” Và cô Máry ngồi một mình, nhưng cô thấy cái cô đơn hôm nay thật là ngọt ngào. Mọi suy nghĩ của cô đều hướng về tương lai, đều đẹp đến mức cô cứ nghĩ mãi về nó mà không biết mệt mỏi. Các suy nghĩ dần dần có hình dáng cụ thể hơn và gắn lại với nhau thành một khối, làm thành bức tranh về một cuộc sống tốt đẹp và hạnh phúc.
Nhưng ngày hôm sau, cô Nocarová đến thì thấy cô Máry đang mệt. Cô ấy nằm ở ghế sofa, mặt nhợt nhạt, hai mắt lờ đờ và đỏ ngầu vì khóc. Cô Nocarová hốt hoảng không nói ra nổi câu hỏi. Cô Máry lại đầm đìa nước mắt rồi lặng lẽ chỉ tay về phía bàn. Trên đó có một bức thư. Cô Nocarová linh cảm đến một điều gì khủng khiếp. Quả thật, lời lẽ trong thư rất nghiêm trang:
“Kính thưa quý cô!
Vậy là tôi không có diễm phúc được là người hạnh phúc! Giấc mơ thế là tan, nỗi đau giày xé lòng tôi.
Không, tôi không muốn đi trên con đường trải bằng những hi vọng bị dập tắt của người bạn tốt nhất, người bạn duy nhất của tôi! Ôi, người bạn đau khổ của tôi, đau khổ như chính tôi đang đau khổ!
Tất nhiên là cô vẫn chưa quyết định, nhưng mà ở đây làm sao có thể có lời quyết định nào được? Tôi không thể sống trong hạnh phúc khi thấy bạn tôi bất hạnh. Ngay cả khi cô có thực sự mang đến cho tôi khoái cảm yêu đương của cuộc đời đi nữa, tôi cũng không thể đón nhận nó được. Tôi đã quyết định từ bỏ tất cả.
Chỉ xin cô một điều duy nhất: ít ra, xin cô đừng nghĩ đến tôi với cái cười nhạo báng.
Kẻ trung thành của cô,
Vilém Cibulka”.
“Rõ là buồn cười chưa,” cô Nocarová bật cười thành tiếng. Cô Máry ngạc nhiên và bối rối nhìn.
“Ừ, thế đấy!” Cô Nocarová ngẫm nghĩ “Họ là người cao cả, xem ra cả hai đều cao thượng. Nhưng Máry ạ, chị không biết cánh đàn ông! Cái cao cả như vậy không tồn tại lâu đâu, người đàn ông đột ngột vứt bỏ hết mọi quan tâm đến người khác để rồi lại chỉ nghĩ đến mình. Chị cứ mặc họ, thế nào rồi họ cũng quyết định! Rechner là người rất thực tế, nhưng Cibulka - xem ra yêu chị cuồng nhiệt. Anh ấy chắc chắn sẽ đến với chị!”
Tự nhiên, mắt cô Máry lại sáng lên, mơ màng. Cô tin bạn gái và bạn cô lại hoàn toàn tin là mình nói đúng. Cả hai đều là người tốt và lương thiện, họ không hề mảy may nghi ngờ gì. Bởi vì chỉ nguyên cái cảm giác rằng đó có thể là trò đùa ghê tởm và ác ý, cũng đủ làm họ khiếp đảm.
“Cứ chờ chị ạ, anh ấy sẽ đến, anh ấy sẽ quyết định!” Cô Nocarová an ủi bạn trước khi chia tay ra về.
Và cô Máry chờ, các suy nghĩ trước đây lại trở về với cô. Đúng là chúng không còn hoàn toàn đem lại ấn tượng vui sướng như trước, mà phảng phất một chút gì của bài ca bi tráng, cô có cảm giác rằng mặc dù chúng buồn, nhưng chính vì thế mà cô thấy chúng gần gũi thân thiết hơn.
Cô Máry chờ, và ngày tháng cứ trôi đi, tháng này sang tháng khác. Thỉnh thoảng, khi đi dạo ở thành Marian, cô gặp cả hai người, bởi họ vẫn luôn luôn đi cùng nhau. Có thể là trước đây, khi hai người đối với cô còn là người dưng thì cô chẳng hề để ý đến những dịp gặp gỡ như vậy, nhưng bây giờ thì cô có cảm giác là cô gặp họ rất thường xuyên. “Họ muốn chiếm cảm tình của chị đấy, rồi chị sẽ thấy!”, cô Nocarová giảng giải. Ban đầu, khi gặp họ, cô Máry luôn cụp mắt nhìn xuống, nhưng rồi cô cũng bạo dạn hơn và ngước nhìn họ. Cả hai đi vòng qua cô, người nào cũng chào cô một cách trân trọng nhất rồi tỏ ra buồn rầu nhìn xuống đất. Đã có bao giờ họ nhìn thấy câu hỏi ngây thơ trong đôi mắt to của cô không? Còn cô, cô không trông thấy họ cắn môi nín cười, tôi biết như vậy.
Một năm trôi qua. Trong thời gian ấy, cô Nocarová mang đến những thông tin lạ lùng, và ngại ngùng kể cho cô Máry. Nào nghe nói họ chơi bời phóng đãng. Nào nghe nói người ta không gọi họ là gì khác ngoài cái tên “bọn rượu chè”. Rằng nghe nói ai cũng bảo là họ sẽ có kết thúc không ra gì.
Mỗi một tin như thế đều làm cô Máry rung động. Có phải đó cũng là do lỗi ở cô không? Bạn gái cô không biết làm sao; cái ngượng ngùng của đàn bà đã ràng buộc cô Máry, làm cô không tự đi bước đi quyết định. Mặc dù cô có cảm giác như mình là người tội lỗi.
Năm ảm đạm thứ hai trôi qua và người ta đưa Rechner đến nơi an nghỉ cuối cùng. Anh ta mất vì bệnh lao. Cô Máry đau đớn. Con người thực tế như Rechner, cô Nocarová thường khẳng định như vậy, thế mà khổ vậy ư?
Cô Nocarová thở dài rồi bảo: “Thế là việc ấy quyết định thay cho chị đấy! Bây giờ anh Cibulka còn trù trừ một thời gian, nhưng rồi anh ấy sẽ đến với chị.” Cô hôn lên trán cô Máry lúc đó đang run rẩy.
Cibulka không trù trừ lâu. Bốn tháng sau, cả anh ta cũng ra nghĩa trang Košíř. Bệnh sưng phổi đã cướp anh ta đi.
Cả hai nằm ở ngoài đó đã hơn mười sáu năm nay.
Cứ vào dịp Lễ các Đẳng Linh hồn, cho bằng bất kỳ giá nào trên đời, cô Máry cũng không tự quyết định sẽ đến ngôi mộ nào trước. Bé gái năm tuổi ngây thơ bao giờ cũng phải làm việc đó thay cô, và bé đến ngôi mộ nào đầu tiên thì cô sẽ đặt vòng hoa ở đó trước.
Ngoài hai ngôi mộ của Cibulka và Rechner, cô Máry còn mua thêm ngôi mộ thứ ba để lo hậu sự. Mọi người nghĩ rằng cô Máry đang có hứng mua mộ của những người xa lạ. Ngôi mộ thứ ba là nơi bà Majdalena Töpferová an nghỉ - vâng, bà ấy đã là người đàn bà sáng suốt. Người ta kể nhiều chuyện về bà ấy. Rằng khi hạ huyệt ông lái buôn Velš, bà Töpferová nhìn thấy bà hàng nến Hirtová bước qua ngôi mộ bên cạnh và đã nói ngay, là bà Hirtová sẽ sinh ra đứa con đã chết. Quả đúng như vậy. Rồi lại có lần bà Töpferová sang thăm bà hàng xóm là thợ làm găng tay. Khi thấy bà hàng xóm đang gọt cà rốt, bà Töpferová cũng bảo luôn, rằng bà ấy sẽ đẻ con có nhiều tàn hương. Quả vậy, bà hàng xóm sinh ra cô Marina với mái tóc đỏ như gạch nung và người chi chít tàn hương đến phát sợ. Vâng, đó là người đàn bà sáng suốt, nhưng mà...
Như đã nói, đối với cô Máry, bà Töpferová là người hoàn toàn xa lạ. Nhưng mộ của bà ấy lại nằm ở khoảng giữa mộ của anh Cibulka và anh Rechner. Tôi sẽ làm bạn đọc tự ái nếu tôi bộc lộ linh cảm của mình là tại sao cô Máry lại mua ngôi mộ ấy, và cả việc sau này cô sẽ an nghỉ ở chỗ nào.
BÌNH SLAVICKÁ dịch