PHỤ LỤC VỨT NÓ ĐI ĐÂU?
Jan Neruda là nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học và cũng là một nhà báo. Trong suốt thời gian từ giữa thế kỉ 19 cho đến khi qua đời năm 1891, nhà báo Jan Neruda đã đóng góp rất nhiều cho nền báo chí Séc. Đặc biệt, hơn hai nghìn tiểu phẩm từ ngòi bút sắc sảo nhạy bén của Jan Neruda đã làm rạng danh ông trong làng báo Séc.
Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc tiểu phẩm nổi tiếng nhất của ông Vứt nó đi đâu? (Kam s ním?). Mặc dù được viết vào năm 1886, nhưng cho đến nay, chủ đề Jan Neruda nói đến vẫn không mất đi một chút nào tính thời sự của nó, mà ngược lại, còn phản ánh vấn đề nóng bỏng toàn cầu của thời đại chúng ta đang sống.
VỨT NÓ ĐI ĐÂU?Praha ngày 25 tháng 9
Lời cầu nguyện mở đầu của nhà văn: “Kính lạy Đức Chúa Trời toàn năng! Xin Đức Chúa hãy rủ lòng thương mà bảo vệ những suy nghĩ của con, mà gọt giũa những câu bông đùa của con, để chúng không làm phiền lòng những người có quyền thế của đất nước này, để chúng không làm tổn hại đến đạo đức trong sạch của đồng bào yêu quý của con, cả đến thành công của số báo ra ngày mai, tức là ngày chủ nhật, của chúng con. - Amen!”
Độc giả đã bao giờ ra ngoài phố vào buổi sáng sớm chưa? Tôi không muốn xúc phạm đến độc giả, tôi biết độc giả là người sang trọng và không có việc gì bắt độc giả phải thức dậy trước 9 giờ sáng - nhưng mà biết đâu có sự tình cờ! Khi mà lúc nào đó tình cờ phải đi ra khỏi nhà từ sáng sớm, chắc hẳn thế nào con mắt tinh tường của độc giả cũng để ý thấy là ở ngoài đường không chỉ có người qua lại, mà còn có cả các đồ vật mà bình thường thì không thấy nó ở đấy. Lẽ tất nhiên là với đầu óc nhạy bén của mình, độc giả sẽ suy nghĩ về những con người và những đồ vật ấy, chủ yếu là về những đồ vật ấy. Một cái bình sứt miệng đang trơ trọi ở gần một ngôi nhà. Một chiếc cặp lồng tuột quai đang lăn lóc sát vỉa hè. Một cái chảo nướng đen sì đang chễm chệ giữa đường qua lại. Làm thế nào mà những đồ vật ấy ra được những nơi đó? Có thể là vào ban đêm, chúng tự rời khỏi các ngăn tủ bếp không đóng cẩn thận để ra đường, rồi đến gần sáng thì quên mất lối về nhà chăng? Hay là trên đường đi chợ buổi sáng, chúng tình cờ đánh mất bà đầu bếp của mình? Và phải chăng bây giờ thì như con chó mất chủ, chúng ngoan ngoãn nằm ngay ở ngoài đường để chờ chủ tìm ra chúng?
Vâng, thì cứ cho là thế đi. Hiện nay người ta đang nói về bệnh tả và cách phòng bệnh - xin độc giả đừng hỏi việc này có liên quan gì đến những đồ vật kia - xin hãy để tôi viết tiếp, rồi cuối cùng thì độc giả cũng thấy là tôi không nói cái gì quá ngốc nghếch đâu! Vâng, bây giờ đang nói về bệnh tả, về việc mỗi người phải làm gì để phòng chống bệnh tả. Trước hết, nghe nói nhà sạch là một nửa sức khỏe. Nghe bảo khử trùng không khí cũng là một nửa sức khỏe. Rồi nghe bảo ăn thịt bò, thịt bê, thịt lợn sạch cũng là một nửa sức khỏe. Nghe bảo cả uống bia Pilsner ngon cũng là một nửa sức khỏe. Tóm lại, nếu cứ nghiêm chỉnh tuân theo những qui định đó thì trong thời gian bệnh tả hoành hành, xem ra con người ta khỏe mạnh hơn đến hai lần rưỡi mức cần phải khỏe. Vậy thì tại sao tôi lại không cố gắng chấp hành mọi quy định, khi mà a) có lợi cho sức khỏe của tôi, b) khi chấp hành quy định ban hành thì con người ta đồng thời cảm thấy vô cùng sung sướng!?
Vì thế, sau khi đọc xong qui định của thành phố treo ở góc phố gần đó, tôi bèn bỏ dở chuyến đi dạo để trở về nhà. Vâng - tôi nghĩ nhà tôi rất sạch sẽ! Sàn nhà và đồ đạc luôn là nghĩa vụ dọn dẹp chu đáo của Anna, cô giúp việc của tôi. Sách thì thuộc nghĩa vụ của tôi, nhưng tôi nghĩ là có một tí bụi cũng chẳng sao - dù có bị phủ chút bụi, trông chúng vẫn ngoạn mục làm sao, vẫn có vẻ khoe khoang và ngốc nghếch làm sao! Ngoài ra - hừm, ngoài ra ở nhà tôi không còn có gì khác. Có lẽ còn cái giường - nhưng mà trên đời này, có cái gì sạch hơn chiếc giường của người đàn ông chưa vợ! Hai chiếc gối duyên dáng như đôi thiên nga. Chiếc chăn mềm mại như cánh hoa. Ga trải giường trắng như tuyết. Ba tấm đệm giường vuông vắn nằm cạnh nhau... A, rơm nhồi đệm giường - phải rồi, rơm..
“Anna!”
“Dạ!”
“Đệm giường này thay ruột rơm lần cuối hồi nào?”
“Dạ, thưa ông con không biết - từ ngày con đến đây chưa thay lần nào - vẫn cái đệm cũ ạ.”
Anna đã ở đây được 6 năm. Tôi cố nhớ lại thời trước đây 6 năm, nhưng vô hiệu! Tôi đã mua những tấm đệm nhồi rơm được khâu chần này từ thời còn trai trẻ...
“Anna!”
“Dạ!”
“Mang tiền này đến ngay nhà hàng rơm, mua về đây ba bó rơm - ngay lập tức!”
Anna chạy như bay. Rồi mang về ba bó rơm. Rồi lôi một cái đệm ra, cắt chỉ, mở phanh chỗ khâu, thò tay vào kéo rơm lót ra...
“Nhưng mà thưa ông - bỏ rơm cũ vào đâu ạ?”
Cái đầu óc đàn bà dù sao cũng khôn ngoan hơn chúng ta! Vâng, trước khi nhồi rơm mới vào đệm thì phải rút rơm cũ ra, nhưng rút ra rồi thì bỏ vào đâu? Quẳng nó ra ngoài cửa sổ lên đầu người qua lại ư?
“Bỏ nó vào đâu ạ, thưa ông?”
“Không biết!” Nhưng tôi chợt nghĩ ra: “Này, tiền đây, cô cầm sang nhà bên kia. Ở đấy có hố rác - đưa tiền cho người coi nhà, chắc chắn hắn cho vứt rơm xuống hố.” Xem ra đầu óc đàn ông cũng không kém thông minh!
Anna đi rồi lại về. Người coi nhà bên ấy không đồng ý. Nghe bảo các cô giúp việc ở nhà ấy hay đổ tro nóng xuống hố rác, vứt rơm xuống đấy ngộ nó bén tàn rồi cháy thì sao? Nếu không cháy thì nó lại làm hố rác chóng đầy, mà phải đến mùa đông mới có người đến lấy rác, chứ bây giờ mùa hè bận việc đồng áng không ai đến được.
“Làm sao bây giờ?”
“Thưa, con không biết ạ!”
“À, à!”, tôi kêu lên - đầu óc đàn ông nghĩ ra được nhiều thứ! - “ngày mai là thứ tư, có xe của phố đến chở rác! Cô đem tiền này cho người ta, chắc họ sẽ xếp rơm lên xe rác!”
“Vâng, thế nhưng đêm nay thì ông sẽ nằm ở đâu ạ? Con tháo đệm ra rồi, đặt lên giường thì rơm rơi lung tung…”
“Ừ nhỉ? - Nhưng mà không sao - ngủ ở dưới sàn cũng được - quận công cũng còn có lúc ngủ dưới đất, nữa là …”
Và tôi đã ngon giấc như quận công. Ngay từ sáng sớm hôm sau, Anna mang cái đệm rơm ra hành lang rồi đứng chờ. Nghe tiếng xe đến, tôi nhoài người ra ngoài cửa sổ, nhìn thấy Anna kéo chiếc đệm ra trước nhà.
“Không! Cô có các vàng tôi cũng không cho rơm lên xe được - tôi không được phép!”, người đánh xe chở rác nói rồi vút cái roi vào lưng con ngựa.
Anna lại kéo cái đệm rơm vào phòng.
“Rắc rối quá nhỉ!”
“Vâng, rắc rối quá,” Anna khẳng định.
“Ối trời! Thế thì nghĩ ra cái gì đi chứ! - Đi hỏi hàng xóm xem người ta bảo sao!”
Anna chạy đi hỏi. Khoảng một tiếng sau lại chạy về. “Người ta bảo là tốt nhất đem đốt ở trong lò, ông ạ.”
“Ừ nhỉ - có thế mà không nghĩ ra! Vậy thì đem đốt đi! Hay là cô đi hỏi khắp các nhà, xem có ai hôm nay muốn làm bánh nướng không, hay muốn hun nóng lò, hiểu không?”
Anna lại chạy đi, rồi trở về thông báo là hôm nay không ai muốn làm bánh nướng, cũng chẳng ai muốn hun nóng lò. Còn bây giờ thì cô ấy phải đi chợ chứ không có thời gian ngồi đốt rơm. Việc ấy phải để đến tối. - Ừ thì để đến tối vậy!
Buổi tối, sau bữa chiều, Annna bắt đầu rút rơm ra, rồi cho từng nắm vào lò đốt. Tôi ngồi vào bàn viết và hài lòng châm lửa hút tẩu. Từ ống khói, tiếng ngọn lửa reo phì phì làm tôi vô cùng thích thú.
Đột nhiên, có tiếng người ầm ĩ trước cửa nhà, rồi tiếng chuông nhà bấm inh ỏi. Tôi nhảy ra tận hành lang nghe ngóng xem có chuyện gì xảy ra. Người ta bảo nhau có lửa đang bốc từ ống khói nhà tôi, bay cả sang mái nhà bên cạnh.
“Trời ơi, Anna - đừng đốt nữa! Mang ngay cái đệm sang phòng bên kia. Nếu có ai đến hỏi thì phải bảo là không biết gì cả, rõ chưa? Lò có nóng không?”
“Mới chỉ đốt có mấy nắm, lò vẫn còn lạnh nguyên ông ạ!”
May quá, không ai đến! Không còn tia lửa nào bay trên mái nhà, mọi người từ từ giải tán.
Tôi bực bội nhả khói lên trần nhà. Đêm ấy tôi lại nằm dưới sàn, trong người rất lấy làm khó chịu.
Nhưng sáng hôm sau, tôi thấy thoải mái hơn. Tôi vội vàng ra khỏi nhà để đi tìm kinh nghiệm. Tôi hỏi viên cảnh sát ở ngoài đường. Hỏi kẻ chuyên làm thuê ở phố. Hỏi tất cả các bà vợ của các bạn mình. Cảnh sát giơ tay chào: “Cái này tôi không biết.” Kẻ làm thuê nhấc cái mũ trên đầu: “Thưa ông, cái này tôi chịu.” Các quý bà thì trả lời như nhau: “Vâng, thứ ấy là chuyện khó xử.”
“Anna này, khó đây! - Nhưng mà chẳng lẽ lại chịu sao! Cô có biết quấn giấy thành hình phễu không? - Không à? Làm thế này này!” Chúng tôi đã quấn rất nhiều cái phễu giấy rồi nhét rơm vào đó. Tôi cho những gói rơm ấy vào các túi quần áo rồi lần lượt vứt chúng trên đường đi dạo phố. Ngày hôm ấy, tôi đi dạo đến sáu lần nữa. Ngày hôm sau tận mười hai lần.
Tôi làm như thế được bốn ngày, nhưng thấy là mới chỉ bỏ đi được có một tí rơm cũ. Tôi tính là nếu cứ đà này thì tôi sẽ phải đi dạo phố đến bảy tháng trời.
Dĩ nhiên còn không nói đến chuyện là tôi đã bị ốm. Tôi đã không nghĩ đến bất kì việc gì khác. Trong đầu tôi chỉ có rơm và mắt tôi cũng chỉ nhìn thấy rơm. Ở phòng góc này có ba bó rơm mới, ở góc kia có ba cái đệm rơm cũ tội nghiệp, dưới sàn có cái gối - nhìn đi đâu được để khỏi trông thấy chúng? Đêm đến, lại nằm dưới sàn nhà, tôi làu bàu chửi cái khổ sở nhục nhã tôi đang phải chịu. Hầu như không ngủ được, buổi sáng tôi dậy trước lúc mặt trời mọc để lại đi dạo phố.
Và trong một lần đi dạo như thế, tôi để ý thấy cái bình sứt, cái cặp lồng tung quai và cái chảo nướng đen sì.
Với những thứ đồ đạc kể trên thì sự thể là thế này: mỗi một người dân ở Praha được phép có cái bình, hoặc cái cặp lồng, hoặc cái chảo nướng - đó là điều tất nhiên và không có gì là tội lỗi. Nhưng mà cái gì sẽ xảy ra, thí dụ khi chiếc bình bị vỡ. Vứt nó đi đâu? Nếu vứt nó ra sân thì người coi nhà sẽ yêu cầu ta phải mang nó về phòng. Nếu vứt nó ra đường thì cảnh sát sẽ bắt ta. Nếu vứt nó vào xe rác thì người chở xe rác sẽ quẳng nó xuống, có cho tiền đến đâu thì người ấy cũng không chịu vì không được phép. - Vậy thì vào ban đêm, ta lén mang cái bình vỡ ra đặt ở ngoài đường, đặt vào chỗ nào cũng được. Ngày hôm sau, người chở rác sẽ bỏ nó lên xe rác, dù chẳng được ai cho đồng nào cả, thế là xong việc!
Tôi chợt nảy ra một ý nghĩ đê tiện đáng xấu hổ! Cái gì sẽ xảy ra, nếu vào ban đêm tôi và Anna mang cái đệm giường ra góc phố kia rồi giũ rơm cũ xuống đó? - Chắc chắn đó là ý định không tốt đẹp - không tử tế - trái luật lệ - nhưng thú thật là tôi thấy khoái trí! Trời ạ, sao mà con người ta trở thành người xấu xa dễ dàng đến như vậy! Tất nhiên, tôi sẽ có vấn đề, có thể tự nhiên có nhóm cảnh sát tuần tra xuất hiện, có trời biết họ từ đâu đến. Họ sẽ muốn tôi phải mang rơm đi chỗ khác. Tôi sẽ chống cự, sẽ nói những lời xúc phạm, họ sẽ bắt rồi giải tôi đi - thế là tự nhiên tôi bị mất danh tiếng của một công dân lương thiện vô tội - nhưng mà đã đến nước ấy thì thế nào cũng được - tôi...
“Ông ơi! Ông ơi!” - Anna nhảy bổ vào phòng - “Con biết mang rơm đi đâu rồi! Bà hàng sữa nói là bà ấy lấy để lót chuồng ngựa! Ngày mai ta đưa cho bà ấy ông ạ!”
“Có chắc không hả?”
“Dạ, chắc ạ!”
Còn biết nói gì hơn nữa? Tôi đã ngủ rất ngon giấc. Sáng hôm sau, chúng tôi vác bao tải rơm ra cho bà hàng sữa, trước đó Anna đã cẩn thận hỏi lại xem có thật bà ấy nhận món quà ấy không.
Đó là giây phút tuyệt vời! Khi bà hàng sữa đưa lại cái bao tải rỗng, tôi cảm động hôn tay bà ấy, vòng tay ôm con ngựa của bà ấy rồi đi về nhà; hai mắt tôi rớm lệ.
Chúng tôi nhồi rơm mới vào đệm giường. Khi đã xong công việc, tôi nắm tay Anna nhảy xung quanh các tấm đệm giường một điệu nhảy dân gian, vừa nhảy vừa huýt sáo.
Đó là tất cả câu chuyện đã xảy ra, một câu chuyện hay và thời sự; tôi thấy hài lòng với nó nên xin dừng lại ở đây.
Lời cầu nguyện kết thúc của nhà văn: “Kính lạy Đức Chúa Trời vạn năng! Con xin đội ơn Đức Chúa Trời đã rủ lòng thương mà bảo vệ con trước những suy nghĩ không lành mạnh và gọt giũa những câu bông đùa của con, nhờ đó mà con đã không làm cho những người có quyền thế của đất nước này phải nổi giận, không làm tổn thương đến sự trong sạch tâm hồn của đồng bào yêu quý của con, cả đến thành công của số báo ra ngày mai, tức là ngày chủ nhật, của chúng con. - Amen!”
BÌNH SLAVICKÁ dịch