← Quay lại trang sách

PHỤ LỤC 2 LÂU ĐÀI VÀ KHU PHỐ NHỎ VEN SÔNG

Đối với bạn đọc Việt Nam, đặc biệt là những người yêu thích văn chương cổ điển Việt Nam và thế giới, yêu thích quá khứ và những giá trị xưa cũ không di dịch (cứ quan sát thị trường sách hiện nay, có thể nói, số người ấy không ít), tôi tin rằng tập truyện ngắn của Jan Neruda[42] sẽ mang đến một cảm giác vô cùng thân thuộc. Nói đúng ra, trong hình hài của một vị khách lạ (đây là lần đầu tiên Jan Neruda, tác gia lớn của văn chương Séc, được giới thiệu với người đọc Việt Nam một cách trọn vẹn), chúng ta vẫn nhận thấy một cái gì thật gần gũi. Đó là sự gần gũi trong phong cách viết, trong thế giới nghệ thuật cũng như sâu xa hơn, trong vị trí của nhà văn trên tiến trình văn học.

Thế giới trong truyện ngắn của Jan Neruda là thế giới của những con người tầm thường, những con người bé nhỏ ở những đô thị đang bắt đầu hiện đại hóa: những người chủ cho thuê nhà, những công chức hạng trung và thấp, những người buôn bán vặt vãnh, chủ tiệm ăn, chủ hiệu tạp hóa, thầy thuốc, hạ sĩ quan... Lớp người ấy thời nào cũng có, là một thứ sản phẩm tất yếu của thành thị. Nếu đã yêu truyện ngắn của Gogol, Chekhov, Lỗ Tấn hay Tản Đà, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, độc giả sẽ thấy những con người trong truyện ngắn của Jan Neruda thật thân thuộc biết bao. Đó là lớp người mà ở một thời điểm của lịch sử văn chương, khi mà tiến trình hiện đại hóa và đô thị hóa đã tạo cho họ một vị thế thật mâu thuẫn, vừa bé mọn nhưng cũng vừa không thể bị bỏ qua bởi sự đông đảo và đồng thời khi mà những lớp sóng cổ điển hay lãng mạn đã lùi xa, họ trở thành một nhân vật quan trọng trong bất cứ nền văn chương nào, nhưng đặc biệt, hình như trong những nền văn học phương Đông, họ có một vị trí đặc biệt hơn. Tất nhiên, vẫn là về những con người ấy nhưng Neruda có một cách nhìn riêng. Các nhà nghiên cứu nói rằng đó là ảnh hưởng của con người nhà báo khi viết văn, một sự thiếu vắng chủ nghĩa lí tưởng trong bút pháp của ông. Chủ nghĩa hiện thực của Neruda, nếu có thể nói vậy, là một thứ chủ nghĩa hiện thực, có lẽ, rất gần với Vũ Trọng Phụng hay Nguyễn Công Hoan, mà rất khác với thứ chủ nghĩa hiện thực nhuốm màu thương cảm của Thạch Lam hay Nguyên Hồng. Chủ nghĩa hiện thực ấy lật lên mọi khía cạnh của con người và cuộc sống thị dân, cả khía cạnh mơ mộng hão huyền, cái thực dụng đến khô khốc, cái nhẫn tâm một cách tầm thường cũng như cái bé mọn nhỏ nhặt. Ông mô tả sâu sắc và tinh tế tất cả những thói tật của thị dân, đặc biệt là cái ác tầm thường, cái vô tâm và ích kỉ cũng như sự nhẫn tâm của lời nói cũng như những điều bịa đặt, những định kiến, tin đồn. Nó như căn bệnh mãn tính của thị dân, trở thành một thứ thói tật gần như là bản chất của những đô thị mà người ta sống trong những cộng đồng vừa thành thị nhưng cũng vừa rất đỗi làng xã, khi mà mỗi cánh cửa mở ra đều có thể soi thẳng vào đời sống của một kẻ khác, khi mà mỗi tin đồn có thể bay từ đầu phố đến cuối phố chỉ trong thoáng chốc, khi mà cuộc sống của kẻ này có thể bị chà đạp bởi cả một cộng đồng rằng rịt trong những mối quan hệ và sự cô đơn chưa trở thành án chung thân của mỗi con người. Có thể nói, văn chương của Neruda thuộc về một thời đại mà thành thị vẫn là một thế giới mở mà những con người không tránh khỏi, không thể nào thoát khỏi thế giới của những kẻ khác. Trong thế giới ấy, con người chưa trở nên lạc lõng và cô độc trong cái biển xa lạ của những siêu đô thị.

Nhắc đến tập truyện ngắn của Neruda, không thể không nhắc đến một nhân vật đặc biệt: khu phố nhỏ ven sông, khu Malá Strana trong tiếng Séc. Đặt trong một cái nhìn so sánh, Malá Strana được mô tả trong tập truyện của Neruda giống như khu 36 phố phường của Hà Nội, khu phố mà hình ảnh của nó thấp thoáng trong ca khúc của Nguyễn Đình Thi, được lưu lại trong tranh của Bùi Xuân Phái và phim tài liệu của Trần Văn Thủy, khu phố gắn với những cái tên có chữ Hàng. Tôi muốn nói đến những Hàng Bông, Hàng Gai, Hàng Hòm, Bát Sứ,... những Tô Tịch, Hàng Mành, những khu “đặc Việt Nam” nhất trong khu phố bàn cờ giữa lòng Hà Nội. Chỉ cần nhích một chút, sang đến những Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Đường, Tạ Hiện... đã là một 36 phố phường khác, đa văn hóa hơn, của những khu Ấn kiều và đặc biệt, Hoa kiều, một khu vực mà nếu so sánh với Praha, có thể đặt cạnh Khu Do Thái, nơi có nhà cũ của F. Kafka.

Giống như Hà Nội, Praha có lịch sử cả ngàn năm, cũng trải qua những giai đoạn là kinh thành rồi những giai đoạn thành phố thuộc địa, bị đồng hóa và cũng được tạo nên bởi những khu vực rất tương phản. Lịch sử của một thành phố phản chiếu lịch sử của một dân tộc. Praha từng là trái tim của Vương quốc Bohemia; rồi trở thành một thành phố bị đồng hóa khi Séc nằm trong đế quốc Áo Hung và trỗi dậy, trở thành thủ đô của Tiệp Khắc, trải qua những giai đoạn chiếm đóng và cuối cùng, ngày nay là trái tim của Cộng hòa Séc. Đi qua lịch sử, từ mảnh đất ban đầu chỉ là một khu định cư bên bờ sông Vltava, Praha không ngừng được mở rộng thêm những khu mới. Hà Nội cũng có một số phận tương tự và thậm chí còn có phần biến động hơn Praha. Bên cạnh những khu vực được xây dựng thêm, là sản phẩm của lịch sử như “khu phố Tây” với kiến trúc kiểu thuộc địa do người Pháp quy hoạch phát triển hay những khu vực sản phẩm của giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, có những khu vực của Hà Nội bị biến mất gần như hoàn toàn dù tích tụ những giá trị văn hóa và kiến trúc vô giá: khu vực Hoàng thành cũ. Dẫu vậy, đi qua những thăng trầm của lịch sử, khu Malá Strana nay, khu 36 phố phường luôn thuộc về cái “lõi” của một đô thị cổ là nơi trầm tích rất nhiều lớp văn hóa. Tất nhiên, về diện mạo kiến trúc, cả Malá Strana lẫn Hà Nội đều còn rất trẻ. Khu phố của Praha chủ yếu mang diện mạo kiến trúc của thế kỷ XVII, XVIII, trong khi đó khu 36 phố phường của Hà Nội mới chỉ được định hình về kiến trúc từ đầu thế kỷ XX. Tuy vậy, cái cốt lõi về văn hóa của khu vực thì lại vô cùng xưa cũ. Ít nhất, cho đến thời điểm mà Jan Neruda viết tập Những câu chuyện về khu phố nhỏ ven sông. Đọc tập sách này, ta sẽ bắt gặp hình ảnh của một khu phố đang ở điểm khởi đầu của tiến trình hiện đại hóa. Giống như 36 phố phường ở Hà Nội, Malá Strana trong tập truyện là một thế giới “ở bên cạnh Hoàng thành”. Nó nằm dưới chân ngọn đồi nơi có Lâu đài Praha đầy quyền uy và nhìn ra ngọn đồi công viên Petrin thơ mộng. Đó là một thứ đô thị vừa ra khỏi trạng thái phường hội. Thế nên với nhiều cư dân, cuộc sống ở đó vẫn còn vô cùng ổn định. Có những người sống ở đó gần như cả cuộc đời, ngày này qua ngày khác, lặp lại những sinh hoạt, đến quán bia quen thuộc, gặp gỡ những người quen thuộc, chính xác như một cái đồng hồ. Vẫn còn chưa có bóng dáng của khách du lịch và những cửa hiệu phục vụ du lịch, chưa nhiều những cư dân cư trú một cách tạm bợ theo cái kiểu cách mà mỗi căn phòng, mỗi ngôi nhà chỉ như một điểm dừng chân trên hành trình sống vô tận biến dịch. Đọc tập truyện này, ta sẽ bắt gặp hình ảnh của một khu phố với những ngôi nhà liền kề nhau, hai, ba tầng, mái ngói san sát, giống như Hà Nội được Trần Văn Thủy ghi lại trong Hà Nội trong mắt ai[43], một khu phố mà sau những dãy nhà là những khu vườn. Nơi ấy, người ta nuôi gà, lợn trong sân và mở cửa sổ, người ta có thể đón ánh trăng và nhìn thấy đồi Petrin. Ta cũng có thể gặp những phong tục tập quán, những thói quen, sinh hoạt cũng như những lối ứng xử rất riêng. Có thể nói, tập truyện giống như một cánh cửa để ta hiểu tâm hồn người Séc và văn hóa Séc, vừa mới lạ nhưng cũng có một cái gì gần gũi với tâm hồn Hà Nội.

Giống như Paris, như Dublin hay bất cứ thành phố có văn hiến nào khác, Praha in dấu ấn của các nhà văn đã góp phần làm nên vẻ đẹp của thành phố và làm cho thành phố trở nên bất tử, những Jan Neruda, những Franz Kafka và cả Vaclav Havel hay Milan Kundera. Quán cà phê ở góc đường nhìn ra sông Vltava, nơi Karel Capek, Vaclav Havel hay Milan Kundera từng ăn vẫn giữ được nguyên không khí y những ngày xưa cũ. Nhưng, ở đây, tôi muốn nói về F. Kafka, nhà văn Séc quen thuộc nhất với người Việt Nam. Nếu ai yêu F. Kafka và đã từng đến Praha chắc chắn không thể không nghĩ về Lâu đài Praha, ngự trên ngọn đồi cao của đô thị, nơi mà ở góc nào của thành phố người ta cũng có thể nhìn thấy bóng của tòa kiến trúc này. Phải chăng chính cái cái cảm giác về một kiến trúc trên cao, to lớn và quyền lực, hiện diện ở mọi nơi đã khơi nguồn cảm hứng cho tiểu thuyết Lâu đài bất hủ của Kafka. Chắc chắn bất cứ ai yêu F. Kafka đặt chân đến Praha cũng sẽ có ý nghĩ ấy. F. Kafka cũng sẽ cho chúng ta một cái nhìn thú vị khi so sánh với J. Neruda. Kafka viết bằng tiếng Đức, trong khi đó Neruda viết bằng tiếng Séc, thứ ngôn ngữ dân tộc của người Séc. Những “lấn cấn” giữa tiếng Đức và tiếng Séc trong một tình thế giống như người Việt Nam phải lựa chọn giữa tiếng Hán Việt, tiếng Pháp và tiếng Việt cũng được phản chiếu trong tập Những câu chuyện về khu phố nhỏ ven sông (lại thêm một điều gần gũi thật đặc biệt!). Văn chương của Kafka mang tính nhân loại, tính phi thực, giống như người nhân viên đạc điền trong Lâu đài luôn loay hoay tìm con đường “lên phía trên” để rồi bị mắc kẹt trong một thế giới hoàn toàn xa lạ, không thể hiểu nổi và một số phận bi thảm. Neruda lại có một lựa chọn khác. Viết bằng tiếng Séc, thế giới văn chương của ông gắn với khu phố nhỏ ven sông, khu Malá Strana của những người thị dân tầm thường và bé mọn. Trên mọi khía cạnh, Neruda “Séc” hơn Kafka. Để hiểu văn hóa Séc, cuộc sống của người Séc bình dân hồi giữa thế kỉ XIX, cần phải đọc Neruda. Kafka đến với tính nhân loại bằng cách vượt qua tính dân tộc, trong khi đó Neruda đến với nhân loại bằng con đường đi sâu tận cùng vào tâm tính dân tộc.

Nói như vậy không có nghĩa là văn chương Jan Neruda hoàn toàn xưa cũ. Giống như Tản Đà hay muộn hơn, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Công Hoan của Việt Nam, Neruda viết văn trong một tình thế khi mà tiến trình hiện đại hóa văn chương song hành với sự trỗi dậy của tinh thần dân tộc và văn hóa bản địa. Đó là thời điểm giao thời ở buổi bình minh của tiến trình hiện đại hóa khi mà những khát vọng đan xen, hòa trộn vào nhau, khi mà người viết vừa muốn tạo dựng một cái gì “đặc định dân tộc”, vừa muốn thể nghiệm và bắt kịp với tiến trình hiện đại hóa đã được diễn ra ở những khu vực khác hoặc xa, hoặc gần trên thế giới. Thời khắc đặc biệt trong tiến trình lịch sử văn học đó khiến cho văn chương của Neruda có một tính mới mẻ đặc biệt về kĩ thuật. Đọc những truyện ngắn như Một tuần trong ngôi nhà yên tĩnh hay Buổi thánh lễ đặc biệt sẽ thấy ông sử dụng những kĩ thuật về giọng kể và điểm nhìn một cách hết sức tự nhiên nhưng cũng không kém phần điêu luyện nếu so với bất cứ nhà văn hiện đại và đương đại nào trên thế giới. Khác với nhiều nhà văn Việt Nam, Neruda có một sự đa dạng đặc biệt về văn phong. Dẫu chỉ là một tập truyện ngắn không dày với những mẩu chuyện nhỏ nhưng ngòi bút của Neruda rất biến ảo, có khi hiện thực đến lạnh lùng và nghiệt ngã, cũng có khi rất đỗi tinh tế và buồn bã và cũng không thiếu cả những trang hết sức trữ tình khi ông viết về khung cảnh thành phố, về tâm hồn con người và cũng có cả những trang vô cùng trào lộng. Có thể nói, bằng tập truyện này, chúng ta được tiếp xúc một cách trọn vẹn và đầy đủ với chân dung của một con người vô cùng độc đáo.

Ở điểm cuối cùng này, tôi lại muốn quay lại với Kafka, người Séc mà bất cứ ai yêu văn chương cũng không thể quên được. Viết về Neruda sẽ không tránh khỏi cảm giác quay lại với những liên tưởng về Kafka. Dẫu rằng mọi so sánh đều khập khiễng nhưng có lẽ, Kafka và Neruda giống như Nguyễn Huy Tưởng và Nam Cao. Kafka đến với thế giới bằng tòa lâu đài mù mịt luôn luôn ở phía trên, bởi những gì vô cùng bi thảm và nghiêm trọng của thân phận và số kiếp con người. Trong khi đó, Neruda đến với thế giới bằng cái khu phố nhỏ ven sông với những kiếp người bé mọn. Nhưng trong cái khu phố ấy, mỗi người chúng ta, ngay cả ở thời hiện đại này, vẫn có thể tìm thấy hình ảnh của mình.

PGS.TS. Phạm Xuân Thạch

Trưởng Khoa Văn học,

Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn,

Đại học Quốc gia Hà Nội

HẾT