Chương 2 1925-Alouette[3]-
“Cô nhìn kìa!” Cậu nói. “Đó - một con chim. Một con chim chiền chiện.” Cậu ngước nhìn cô và thấy rằng cô đang nhìn sai hướng. “Không, ở đằng kia cơ ạ.” Cậu vừa nói vừa chỉ. Cô vẫn chưa nhìn ra.
“Ồ!” Cuối cùng, cô nói. “Kia rồi, cô thấy rồi! Lạ nhỉ - nó đang làm gì vậy?”
“Nó đang bay lơ lửng tại chỗ, có lẽ tí nữa nó sẽ lại bay lên.” Con chim chiền chiện bay vọt lên cao giữa tiếng hót mê ly của chính nó. Cú vút bay và tiếng hót tuyệt diệu của con chim đã khơi lên một mối cảm xúc sâu sắc trong cậu mà ngay đến bản thân cậu cũng không ngờ đến. “Cô có nghe thấy không?”
Cô của cậu khum bàn tay bên tai một cách khoa trương ra vẻ lắng nghe. Trông cô lạc quẻ như một con công khi đội chiếc mũ kỳ quặc có màu đỏ chót như cái hòm thư hình cột trụ, nó lại còn được đính hai cái lông đuôi chim trĩ to tướng, chúng cứ rung rinh, ve vẩy theo từng cử động dù là nhẹ nhất của đầu cô. Cậu sẽ không ngạc nhiên nếu ai đó nhắm bắn cô. Giá mà có người làm thế thật, cậu nghĩ. Teddy được phép - cậu tự cho phép mình - có những ý nghĩ xấu xa như vậy, miễn là chúng được giữ kín trong đầu. (“Sự lễ phép…” Mẹ cậu dạy. “… Là chiếc áo giáp mà người ta phải khoác lên người vào mỗi buổi sáng.”)
“Nghe thấy cái gì cơ?” Cuối cùng, cô của cậu nói.
“Tiếng hót.” Cậu dồn hết kiên nhẫn để nói. “Tiếng hót của con chim chiền chiện. Giờ thì hết rồi.” Cậu nói thêm khi cô tiếp tục tỏ ra như đang lắng nghe.
“Nó có thể hót lại mà.”
“Không. Nó sẽ không hót lại đâu ạ. Nó không thể. Nó đi rồi. Nó bay mất rồi.” Cậu vỗ vỗ hai cánh tay như chim vỗ cánh để minh họa cho lời mình. Mặc dù đính lông vũ trên mũ nhưng rõ ràng cô chẳng biết gì về loài chim. Hoặc bất cứ loài động vật nào. Cô thậm chí còn chẳng nuôi mèo. Cô dửng dưng với Trixie, con chó lóc[4] của họ, hiện đang hăng hái sục sạo dưới cái mương cạn khô bên vệ đường. Trixie là người bạn đồng hành đáng tin cậy nhất của cậu và đã ở bên cậu từ lúc nó còn là một con chó con nhỏ xíu, nhỏ đến mức nó có thể len qua cánh cửa ngôi nhà búp bê của các chị gái cậu.
Cậu tự hỏi, phải chăng cô của cậu cần cậu chỉ dạy? Phải chăng đó là lý do họ có mặt ở đây? “Chim chiền chiện nổi tiếng vì tiếng hót của mình.” Cậu giảng giải. “Tiếng hót của nó rất hay.” Đương nhiên, không thể giải thích thế nào là hay được. Hay chỉ đơn giản là hay thôi. Ta có thể rung động bởi tiếng hót ấy hoặc không. Các chị Pamela và Ursula của cậu thì có. Anh cả Maurice của cậu thì không. Em trai Jimmy của cậu còn quá nhỏ nên chưa cảm nhận được, còn bố cậu có lẽ đã quá già. Bố cậu, Hugh, có một cái đĩa hát mang tên Chim chiền chiện vút bay, thi thoảng họ lại mở nó lên nghe vào những buổi chiều Chủ nhật mưa gió. Nó cũng hay nhưng không thể sánh bằng tiếng hót của con chim chiền chiện thực thụ được. “Mục đích của Nghệ thuật…” Mẹ cậu, Sylvie, nói - hay đúng hơn là dạy bảo - “… Là chuyển tải tính chân xác của một sự vật chứ không phải hóa thân thành cái tính chân xác ấy.” Cha của bà, ông ngoại của Teddy, từng là một họa sĩ nổi tiếng nhưng đã mất từ lâu, vì có người cha là họa sĩ như vậy nên mẹ cậu mới cho rằng mình có quyền mạnh miệng về chủ đề nghệ thuật. Và Teddy cho rằng cả vấn đề thẩm mỹ nữa. Tất cả những thứ này - Nghệ thuật, Tính chân xác, Thẩm mỹ - đều được mẹ cậu ngầm viết hoa khi nói về chúng.
“Khi chim chiền chiện bay cao…” Cậu tiếp tục nói với cô Izzie, vẻ vô vọng. “… Thì có nghĩa là thời tiết đẹp đấy ạ.”
“Ôi dào, chả cần đến một con chim người ta cũng biết thời tiết có đẹp hay không, người ta chỉ việc nhìn xung quanh thôi.” Izzie nói. “Và tiết trời chiều nay thật rực rỡ. Cô yêu ánh mặt trời biết bao.” Cô nói thêm, nhắm mắt và ngửa khuôn mặt tô son trát phấn lên bầu trời.
Có ai mà không yêu ánh mặt trời cơ chứ? Teddy ngẫm nghĩ. Có lẽ là bà nội cậu. Bà luôn ở lì trong một căn phòng khách âm u ở Hampstead. Căn phòng ấy luôn được che rèm kín mít để ngăn ánh sáng từ bên ngoài lọt vào trong nhà. Hoặc có lẽ để ngăn bóng tối từ trong nhà thoát ra ngoài.
Vào những lúc do dự, thiếu tự tin, cậu thường tìm đến cuốn Hướng đạo cho trẻ em nam, mặc dù bây giờ cậu đã “tự trục xuất mình” ra khỏi phong trào hướng đạo ấy. “Quy tắc Hiệp sĩ” mà cậu thuộc nằm lòng trong cuốn sách đó đòi hỏi rằng “thanh thiếu niên nên được rèn luyện để làm những công việc khó nhọc và hèn mọn nhất với tinh thần vui vẻ và lịch thiệp.” Cậu cho rằng giải khuây cho cô Izzie là một trong những việc như vậy. Đây chắc chắn là một công việc vô cùng nặng nhọc.
Cậu che mắt trước ánh dương chói lọi và quét mắt khắp bầu trời để tìm con chim chiền chiện. Nó không quay lại nên cậu đành tiêu khiển bằng cách dõi nhìn theo những động tác bay lượn trên không của lũ chim nhạn. Cậu nghĩ về Icarus[5] và tự hỏi từ dưới đất nhìn lên trông cậu ta sẽ như thế nào. Chắc là to lắm. Icarus là một nhân vật hư cấu trong truyện thần thoại đúng không nhỉ? Sau kỳ nghỉ hè, Teddy sẽ đi học ở trường nội trú và cậu phải bắt đầu tìm hiểu về cậu ta mới được. “Con sẽ phải trở thành một người chín chắn, khắc kỷ.” Bố cậu khuyên. “Đó sẽ là một thử thách khó khăn, nhưng mục đích của việc đi học nội trú là như vậy. Tốt hơn hết là con nên tránh xa mọi rắc rối.” Ông nói thêm. “Đừng chìm quá nhưng cũng đừng nổi quá, cứ bình bình thôi.”
Bà nội cậu ở Hampstead (giờ cậu chỉ còn duy nhất người bà này, mẹ của Sylvie đã mất từ lâu) nói rằng “tất cả những người đàn ông trong gia đình” đều đi học ở ngôi trường ấy, như thể đó là một luật lệ được viết ra từ thời xa xưa vậy. Teddy cho rằng con trai cậu rồi cũng sẽ đi học ở đó, mặc dù đứa bé ấy tồn tại ở một tương lai mà bây giờ Teddy thậm chí còn chưa bắt đầu tưởng tượng ra. Đương nhiên, cậu không cần tưởng tượng làm gì, vì trong cái tương lai đó, cậu sẽ chẳng có đứa con trai nào cả, chỉ có duy nhất một cô con gái thôi, là Viola, đây sẽ là một nỗi buồn đối với cậu mặc dù cậu chẳng bao giờ nói ra, nhất là nói với Viola, vì cô chắc chắn sẽ nổi cơn tam bành.
Teddy sửng sốt khi Izzie bất ngờ cất tiếng hát và - đáng kinh ngạc hơn - đung đưa nhún nhảy. “Alouette, gentille Alouette[6].” Cậu không biết tiếng Pháp mấy và nghĩ là cô đang hát từ “jaunty[7]”, một từ mà cậu khá thích, chứ không phải là “gentille”. “Cháu có biết bài hát đó không?” Cô hỏi cậu.
“Không ạ.”
“Nó là một bài hát từ thời chiến tranh. Những người lính Pháp đã hát nó.” Trên mặt cô thoáng hiện một nét u ám - có lẽ là nỗi buồn - nhưng rồi cô bất ngờ tươi cười nói: “Lời bài hát khá ghê rợn. Chỉ toàn nói về việc vặt mọi thứ của con chim tội nghiệp ấy. Mắt nó, lông nó, chân nó, vân vân…”
Trong cuộc chiến tranh không ai ngờ nổi nhưng không thể tránh khỏi sẽ đến trong tương lai - cuộc chiến tranh của Teddy - Alouette là tên của Phi đoàn 425, bao gồm những người Canada gốc Pháp. Vào tháng Hai năm 1944, trước chuyến bay cuối cùng của Teddy không lâu, cậu sẽ hạ cánh khẩn cấp xuống căn cứ của họ ở Tholthorpe vì máy bay của cậu bị bắn khi đang băng qua eo biển Anh khiến hai động cơ bốc cháy. Những người Quebec ấy sẽ mời tổ bay của cậu rượu brandy khiến cậu và đồng đội của mình vô cùng cảm kích. Phù hiệu của họ có hình một con chim chiền chiện, bên dưới con chim ấy là khẩu hiệu Je te plumerai[8], và cậu sẽ nghĩ về ngày hôm nay, khi cậu ở bên cô Izzie. Đó là một ký ức dường như thuộc về ai khác.
Izzie xoay tròn một vòng trên đầu ngón chân. “Chiền chiện ơi, vui quá!” Cô cười nói. Cậu tự hỏi đây có phải là lý do khiến bố cậu nói Izzie là người có “tâm thần bất ổn” không.
“Cô nói gì vậy ạ?”
“Chiền chiện ơi, vui quá!” Izzie lặp lại. “Đó là một câu trong truyện Những kỳ vọng lớn lao. Cháu chưa đọc truyện đó à?” Trong một khoảnh khắc đáng kinh ngạc, giọng điệu cô nghe giống hệt mẹ cậu. “Nhưng đương nhiên là cô chỉ đang pha trò thôi. Bởi vì chẳng còn con nào nữa. Ý cô là con chim chiền chiện. Bay zồi. Đi mất zồi.” Cô nhái giọng khu Đông London nghe đến là ngớ ngẩn. “Cô từng ăn thịt chim chiền chiện.” Cô vô tư nói thêm. “Ở Ý. Ở đó, chúng được coi là đặc sản. Đương nhiên, chim chiền chiện chẳng có nhiều thịt. Tợp một miếng là hết.”
Teddy rùng mình. Ý nghĩ con chim nhỏ bé tuyệt vời ấy bị “vặt” khỏi bầu trời và tiếng hót tuyệt diệu của nó bị ngưng lại giữa chừng khiến cậu cảm thấy thật khủng khiếp. Rất nhiều năm sau, vào đầu những năm bảy mươi, Viola phát hiện ra nhà thơ Emily Dickinson trong môn Hoa Kỳ học của cô. Cô nguệch ngoạc chép lại khổ đầu tiên của một bài thơ mà cô nghĩ là bố cô sẽ thích (cô lười đến nỗi cả bài thơ rõ là ngắn ngủn nhưng cô vẫn chẳng chịu chép lại đầy đủ). “Xẻ đôi con chim chiền chiện/ Sẽ tìm thấy tiếng hót ca/ Từng mẩu bọc trong lớp bạc/ Cứ thế cứ thế lăn ra.” Teddy sẽ ngạc nhiên vì con gái nghĩ đến mình. Cô hiếm khi như vậy. Văn chương là một trong vài sở thích chung ít ỏi giữa họ mặc dù họ hiếm khi - nếu có bao giờ - bàn về nó. Teddy cân nhắc xem nên gửi thứ gì đáp lại - một bài thơ, thậm chí là một vài câu thơ được lựa chọn - như một cách giao tiếp với con gái mình. “Chào mi, tâm hồn vô tư lự/ Mi chưa bao giờ là một con chim” hoặc “Kìa, lắng tai nghe lũ chim rộn rã cất cao tiếng hót/ Ríu rít ca ngợi tình yêu” hoặc “Hỡi kẻ hát rong trên tầng không cao vợi! Hỡi kẻ hành hương dọc ngang khắp bầu trời! Mi căm ghét chăng mặt đất đầy phiền não?” (Có nhà thơ nào không viết về chim chiền chiện không nhỉ?) Cho rằng con gái sẽ nghĩ mình đang lên mặt với nó, bởi nó vốn ghét học bất cứ điều gì từ cha nó, hay có lẽ là từ tất cả mọi người, cuối cùng Teddy sẽ chỉ đơn giản hồi đáp bằng một câu: “Cảm ơn con, con thật sâu sắc.”
Trước khi cậu kịp ngăn mình lại - chiếc áo giáp lễ phép đã bị rơi mất - cậu buột miệng nói: “Thật là ghê tởm khi ăn thịt chim chiền chiện, cô Izzie.”
“Sao lại ghê tởm? Cháu chẳng ăn thịt gà với đủ thứ thịt khác đấy ư? Suy cho cùng, có gì khác biệt chứ?” Izzie từng lái một chiếc xe cứu thương trong cuộc Đại Chiến. Một con chim chết chẳng thể làm cô mảy may xúc động.
Khác nhau một trời một vực, Teddy nghĩ, mặc dù cậu không thể thôi băn khoăn thịt chim chiền chiện sẽ có vị thế nào. May thay, tiếng sủa dữ dội của Trixie đã kéo cậu ra khỏi ý nghĩ ấy. Cậu cúi xuống kiểm tra xem nó sủa cái gì. “Ồ, nhìn này, một con rắn thủy tinh.” Cậu tán thán, tạm thời quên bẵng con chim chiền chiện. Cậu dùng cả hai tay nhẹ nhàng nhặt con rắn thủy tinh lên và giơ ra cho Izzie xem.
“Rắn à?” Cô nhăn mặt nói, những con rắn dường như không có sức hấp dẫn nào đối với cô.
“Không ạ, nó là rắn thủy tinh.” Teddy nói. “Không phải rắn. Cũng không phải giun. Nó thực chất là một loại thằn lằn.” Những cái vảy màu vàng kim và màu đồng của nó ánh lên rực rỡ dưới bóng nắng. Đây cũng là cái đẹp. Có thứ gì trong tự nhiên mà không đẹp cơ chứ? Ngay cả một con sên cũng cần được chào đón, mặc dù mẹ cậu không đời nào làm vậy.
“Cháu quả là một cậu bé thú vị.” Izzie nói.
Teddy không coi mình là một “cậu bé”. Cậu cho rằng cô mình - em gái út của bố cậu - không những chẳng biết gì mấy về động vật mà còn chẳng biết gì mấy về trẻ con. Cậu không biết tại sao cô lại “bắt cóc” cậu. Hôm ấy là thứ Bảy, sau khi ăn trưa xong, cậu đang tha thẩn quanh vườn, gấp máy bay giấy với Jimmy thì Izzie sà tới chỗ cậu và dụ dỗ cậu đi dạo với cô ở “vùng đồng quê”, hình như “vùng đồng quê” với cô là con đường mòn chạy từ Góc Cáo tới nhà ga chứ không phải thiên nhiên hoang dã nơi núi đá và sông ngòi. “Một cuộc phiêu lưu nho nhỏ. Và tán gẫu một chút. Điều đó không thú vị sao?” Giờ thì cậu thấy mình đã trở thành con tin cho sự đồng bóng của cô khi cô vừa thơ thẩn bước đi vừa hỏi cậu những câu hỏi kỳ lạ - “Cháu đã bao giờ ăn một con sâu chưa? Cháu có chơi trò đóng giả làm cao bồi và người da đỏ không? Khi lớn lên, cháu muốn làm gì?” (Chưa ạ. Có ạ. Một người lái tàu.)
Cậu cẩn thận đặt con rắn thủy tinh trở lại bãi cỏ và để bù đắp cho sự thất bại của cô trong việc cảm nhận cái đẹp của chim chiền chiện, cậu rủ Izzie đi ngắm những bông hoa chuông xanh. “Chúng ta phải băng qua cánh đồng để tới khu rừng.” Cậu nói rồi nhìn đôi giày của cô với ánh mắt nghi ngại. Chúng có vẻ được làm từ da cá sấu và nhuộm màu xanh lét, thứ màu mà không một con cá sấu có lòng tự tôn nào chấp nhận nổi. Chúng còn mới toanh và rõ ràng không phù hợp với việc băng qua những cánh đồng. Giờ là xế chiều và may mắn thay, đàn bò sữa, “chủ nhân” của cánh đồng này, không có mặt ở đây. Lũ bò với thân hình đồ sộ núng nính và đôi mắt tò mò dịu dàng sẽ ngơ ngác không hiểu Izzie là cái thứ gì mất.
Một bên tay áo của cô bị rách toạc lúc cô leo qua cái bục trèo, rồi sau đó cô tiếp tục giẫm phải một bãi phân bò mà nếu là người khác thì họ chắc chắn sẽ nhìn thấy và tránh được. Cô cứu vãn được chút hình ảnh của mình trong mắt Teddy khi vẫn tỏ ra vui vẻ một cách đáng ngưỡng mộ trước cả hai rủi ro đó. (“Mẹ hy vọng…” Mẹ cậu nói sau đó. “… Cô ấy sẽ vứt cả hai cái vật chướng mắt đó đi.”)
Tuy nhiên, thật đáng thất vọng, cô chẳng mảy may ấn tượng với những bông hoa chuông xanh. Ở Góc Cáo, mỗi dịp hoa nở hằng năm là mọi người lại hân hoan chào đón với niềm sùng kính như thể chào đón các họa sĩ bậc thầy vĩ đại. Họ hãnh diện dẫn các vị khách tới khu rừng để chiêm ngưỡng tấm thảm hoa màu xanh lam trải dài ngút tầm mắt. “Nhà thơ Wordsworth có những bông thủy tiên hoa vàng…” Sylvie nói. “… Còn chúng ta có những bông hoa chuông xanh.” Chúng không phải là hoa của họ, hoàn toàn không phải, nhưng mẹ cậu có tính sở hữu rất cao.
Lúc đi bộ về theo con đường mòn, Teddy bỗng cảm thấy trái tim mình bất ngờ rung lên niềm hân hoan vui sướng. Ký ức về tiếng hót của con chim chiền chiện kết hợp với mùi hương thơm ngát của bó hoa chuông xanh mà cậu hái về cho mẹ đã tạo nên một khoảnh khắc lâng lâng thuần khiết, một cảm giác phấn khích như thể mọi bí ẩn sắp được hé lộ. (“Có một thế giới ánh sáng…” Chị gái Ursula của cậu nói. “… Nhưng chúng ta không thể nhìn thấy nó vì nó đã bị bóng tối che khuất.” “Tín đồ Mani giáo[9] bé bỏng của chúng ta.” Hugh trìu mến nói.)
Đương nhiên, trường nội trú không phải là nơi xa lạ với cậu. Anh trai Maurice của Teddy giờ đang học ở trường Oxford, nhưng hồi anh còn học ở ngôi trường nội trú ấy, Teddy thường đi theo mẹ (“người hộ tống bé nhỏ của mẹ”) tới các buổi lễ trao thưởng, ngày thành lập trường và một dịp được gọi là “ngày thăm viếng” - mỗi học kỳ phụ huynh sẽ được phép (nhưng không được khuyến khích lắm) đến thăm con cái vào một ngày nhất định. “Giống như nhà tù hơn là trường học.” Mẹ cậu nhạo báng. Sylvie không mặn mà với những lợi ích của giáo dục như đáng lẽ phải thế.
Mặc dù có tình cảm gắn bó với ngôi trường cũ của mình nhưng bố cậu tỏ rõ vẻ miễn cưỡng đối với bất cứ “loại thăm viếng” nào liên quan đến “chốn xưa”. Hugh thường viện đủ mọi lý do để vắng mặt trong những dịp như vậy, nào là bận rộn với các công việc ở ngân hàng, bị vướng các cuộc họp quan trọng, đối phó với các cổ đông cáu kỉnh. “Vân vân và vân vân.” Sylvie lẩm bẩm. “Quay trở lại thường khó khăn hơn là tiến về phía trước.” Bà nói thêm khi tiếng đại phong cầm của nhà nguyện vang lên khúc dạo đầu của bài Lạy Đức Chúa, vị cha của nhân loại.
Đó là hai năm trước, trong buổi lễ trao thưởng vào học kỳ cuối của Maurice. Maurice lúc ấy là Phó chủ tịch Hội Học sinh, từ “phó” trong danh hiệu của anh khiến anh cáu kỉnh. “Chủ tịch thứ hai.” Anh đã tức tối khi được bổ nhiệm vào vị trí đó hồi đầu năm học cuối. “Con tự coi mình là một chủ tịch, không phải phó phiếc gì cả.” Maurice tin rằng mình có tố chất của một người hùng, là người nên dẫn dắt những người đàn ông khác xông pha nơi trận mạc, mặc dù trong cuộc chiến tiếp theo anh sẽ ngồi ngoài cuộc, theo đúng nghĩa đen, đằng sau một chiếc bàn quan trọng ở Whitehall[10], ở nơi đó, những người chết chỉ đơn giản là những bảng số liệu phiền phức đối với anh. Trong số những người có mặt ở nhà nguyện của ngôi trường ấy vào cái ngày tháng Bảy nóng nực của năm 1923 đó, không một ai tin rằng một cuộc chiến tranh nữa có thể bám gót cuộc chiến trước kia chóng vánh đến vậy. Lớp vàng mạ ở tên của các cựu học sinh (“Các liệt sĩ”) trên những tấm biển bằng gỗ sồi quanh nhà nguyện vẫn còn mới. “Sự tôn vinh ấy có ý nghĩa gì với họ khi họ đã chết rồi chứ!” Sylvie cáu kỉnh thì thầm vào tai Teddy. Cuộc Đại Chiến đã biến Sylvie trở thành người yêu hòa bình, dẫu có hơi cực đoan.
Nhà nguyện của trường lúc ấy vô cùng ngột ngạt, sự uể oải giống như một lớp bụi phủ khắp các hàng ghế khi giọng nói của thầy hiệu trưởng ề à mãi không dứt. Ánh mặt trời được lọc qua những ô cửa sổ kính màu, biến thành các đốm màu hình thoi giống như những viên đá quý lấp lánh, một tạo tác chẳng thể thay thế nổi cho vật thật ở ngoài kia. Và Teddy cũng sắp phải chịu chung số phận đó. Một viễn cảnh u ám về những gì cậu sẽ phải chịu đựng.
Khi thời điểm ấy đến, cuộc sống ở trường học cũng không đến nỗi quá tồi tệ như cậu đã lo sợ. Cậu có nhiều bạn bè và giỏi thể thao, đây vốn là điều giúp người ta có được một mức độ nổi tiếng nhất định. Cậu còn là một chàng trai tốt bụng, không tha thứ cho những kẻ bắt nạt bạn bè, và điều này cũng khiến cậu nổi tiếng. Tuy nhiên, đến lúc cậu tốt nghiệp và vào học ở trường Oxford, cậu đã kết luận rằng ngôi trường ấy là một nơi đầy bạo lực và kém văn minh, và cậu sẽ không bắt các con trai mình phải tiếp nối cái truyền thống tàn nhẫn ấy. Cậu đã mong đợi có thật nhiều cậu con trai - những chàng trai vui vẻ, trung nghĩa và mạnh mẽ - nhưng niềm hy vọng của cậu sẽ được chắt lọc (hoặc có lẽ là thu gọn lại) thành Viola.
“Kể cho cô nghe thêm về cháu đi!” Izzie nói, bứt một bông nga sâm trên hàng rào và phá hủy khoảnh khắc lâng lâng của cậu.
“Cô muốn biết điều gì ở cháu ạ?” Cậu hỏi, tâm trạng phấn khích biến mất, những bí ẩn lại được che kín. Sau này, ở trường, cậu sẽ được học bài thơ Giọng nói của Brooke - trong đó có câu “Khoảnh khắc nhiệm mầu tan biến, chìa khóa nào thấy được đâu” rất phù hợp để miêu tả khoảnh khắc này, nhưng lúc đó thì cậu đã quên mất những cảm giác phù du của ngày hôm nay rồi.
“Bất cứ điều gì.” Izzie nói.
“Ờ, cháu mười một tuổi.”
“Cô biết điều đó rồi, đồ ngốc.” (Không hiểu sao cậu lại nghi ngờ điều này.) “Cháu là người thế nào? Cháu thích làm gì? Bạn bè cháu là những ai? Cháu có cái… cái gì ấy nhỉ…” Cô nói, cố gắng tìm một từ vốn xa lạ với cô. “Cái vật xuất hiện trong câu chuyện về David và Goliath ấy - cái gì cao su ấy nhỉ?”
“Súng cao su phải không ạ?”
“Đúng rồi! Để mang đi bắn người ta và giết các con vật, đại loại vậy.”
“Giết các con vật ạ? Không! Cháu sẽ không bao giờ làm điều đó. (Anh trai Maurice của cậu thì có.) Cháu còn chẳng biết bây giờ nó đang ở đâu. Cháu từng dùng nó để bắn những quả dẻ ngựa trên cây.”
Cô tỏ vẻ thất vọng trước lòng bác ái của cậu nhưng vẫn không sao lãng bảng câu hỏi của mình. “Còn những trò dại dột thì sao? Hẳn là cháu đã từng làm vô số trò dại dột nhỉ, cậu bé nào cũng vậy, đúng không? Những trò dại dột và những trò chơi khăm.”
“Những trò dại dột ạ?” Cậu kinh hãi nhớ lại sự cố với thùng sơn màu xanh lá cây.
“Cháu có phải là hướng đạo sinh không?” Cô hỏi, giả vờ đứng nghiêm và giơ tay chào. “Cô cá rằng cháu là một hướng đạo sinh. Dyb, dyb, dob[11], đại loại thế.”
“Cháu đã từng ạ.” Cậu lẩm bẩm. “Đã từng là một Sói con[12].” Đây không phải là chủ đề mà cậu muốn cùng cô đi sâu vào nhưng thực sự cậu không thể nói dối, như thể cậu đã bị yểm một loại bùa phép nào đó ngay từ lúc mới chào đời. Cả hai chị gái của cậu - và thậm chí cả Nancy - có thể nói dối trơn tru nếu cần thiết, còn Maurice hầu như chẳng biết sự thật (hoặc Sự thật) là cái gì, nhưng Teddy thì lại thật thà quá mức.
“Cháu đã bị đuổi ra khỏi hội à?” Izzie háo hức hỏi. “Bị trục xuất? Cháu đã gây ra vụ bê bối khủng khiếp nào chăng?”
“Đương nhiên là không ạ.”
“Kể cho cô nghe đi. Chuyện gì đã xảy ra?”
Đó là vì Bộ tộc Kibbo Kift[13] xuất hiện, Teddy nghĩ. Nếu cậu nhắc đến mấy từ đó, có lẽ cậu sẽ phải mất đến hàng tiếng đồng hồ để giải thích cho Izzie hiểu.
“Kibbo Kift ư?” Cô nói. “Nghe như tên của một chú hề ấy nhỉ!”
“Còn kẹo thì sao? Cháu có thích kẹo lắm không, và nếu có thì là loại nào?” Một cuốn sổ nhỏ xuất hiện trên tay Izzie làm Teddy cảnh giác. “Ồ, đừng để ý đến cái này.” Cô nói. “Thời buổi bây giờ ai mà chả ghi chép chứ. Thế nào… kẹo thì sao?”
“Kẹo ạ?”
“Kẹo.” Cô xác nhận rồi thở dài, nói. “Cháu biết đấy, Teddy thân yêu, cô không biết đứa bé trai nào cả, trừ cháu. Cô vẫn thường tự hỏi một cậu bé được tạo nên từ những thứ gì, dĩ nhiên là ngoại trừ những thứ quen thuộc như sên trần, ốc sên và đuôi chó con[14]. Và một cậu bé…” Cô tiếp tục. “… Chính là một người đàn ông đang được nhào nặn. Cậu bé trong lốt người đàn ông, người đàn ông trong lốt cậu bé, kiểu vậy.” Câu cuối cùng này cô nói với vẻ khá lơ đãng khi đang ngắm nhìn bông nga sâm. “Cô tự hỏi khi lớn lên, liệu cháu có giống bố cháu không?”
“Cháu hy vọng là có.”
“Ồ, cháu không được an phận với những điều bình thường, cô chắc chắn cô sẽ chẳng bao giờ như vậy. Cháu phải giống như một tên cướp biển!” Cô bắt đầu ngắt từng cánh hoa nga sâm. “Đàn ông nói phụ nữ là giống loài bí ẩn, nhưng cô nghĩ đó là một thủ đoạn của họ để khiến phụ nữ bọn cô không nhìn ra sự khó hiểu tuyệt đối của họ mà thôi.” Mấy từ “sự khó hiểu tuyệt đối” được cô nói khá to và giận dữ như thể cô đang nghĩ đến một người cụ thể trong đầu. (“Lúc nào quanh cô ấy cũng có một người đàn ông nào đó.” Cậu từng nghe mẹ mình nói.) “Còn về các cô bé thì sao?” Izzie nói.
“Điều gì ở họ ạ?” Cậu thắc mắc.
“À, cháu có “người bạn đặc biệt” nào không - cháu biết đấy, một cô bé mà cháu rất thích?” Cô nở nụ cười điệu đà ngớ ngẩn như thể đang cố gắng ám chỉ sự lãng mạn hoặc mấy chuyện tào lao như vậy (nhưng không thành công lắm).
Cậu đỏ bừng mặt.
“Có con chim nhỏ mách với cô rằng…” Cô kiên trì tiếp tục. “… Cháu đang “trồng cây si” một cô bé hàng xóm.”
Con chim nhỏ nào? Cậu tự hỏi. Nancy và các chị em gái của cô ấy - Winnie, Gertie, Millie và Bea - sống trong một ngôi nhà ngay bên cạnh Góc Cáo có tên là Quạ Gáy Xám. Loài chim này sinh sống ở trong rừng với số lượng lớn và chúng tỏ ra rất thích bãi cỏ nhà Shawcross, vì bà Shawcross thường ném những mẩu bánh mì nướng đã nguội ra đó vào mỗi sáng.
Teddy sẽ không tiết lộ với Izzie về Nancy dù trong bất cứ tình cảnh nào, dù bị tra tấn, hành hạ như thế nào (như lúc này chẳng hạn). Cậu sẽ không nói ra tên của cô bé để cho nó bị hoen ố qua đôi môi của Izzie và bị đem ra làm trò cười. Nancy là bạn của cậu, là tri kỷ của cậu, không phải là kiểu yêu đương ủy mị ngớ ngẩn mà Izzie đang ám chỉ. Dĩ nhiên, một ngày nào đó cậu sẽ cưới Nancy và cậu sẽ yêu cô, đúng thế, nhưng đó sẽ là thứ tình yêu hào hiệp thuần túy của một chàng hiệp sĩ. Thực ra cậu cũng chẳng hiểu gì về bất cứ kiểu tình yêu nào khác. Cậu từng nhìn thấy con bò đực làm chuyện yêu đương với những con bò cái và Maurice nói con người cũng làm như vậy, bao gồm cả bố mẹ họ, rồi cười rinh rích. Teddy chắc chắn anh cậu nói dối. Hugh và Sylvie quá trang nghiêm, cao quý nên sẽ không thể nào làm mấy trò giống diễn viên nhào lộn như thế được.
“Ôi trời ơi, cháu đang đỏ mặt đấy à?” Izzie reo lên. “Cô tin rằng cô đã khám phá ra bí mật của cháu rồi!”
“Kẹo lê.” Teddy nói, cố gắng chấm dứt cuộc điều tra này.
“Kẹo lê làm sao?” Izzie nói. (Cô dễ dàng bị đánh lạc hướng.) Bông nga sâm trụi thùi lụi bị ném xuống đất. Cô chẳng quan tâm gì đến thiên nhiên. Sự lơ đễnh của cô sẽ khiến cô giẫm nát đồng cỏ, đá bay tổ chim te te, làm kinh động lũ chuột đồng. Cô là người thuộc về thị thành, thuộc về thế giới của những cỗ máy.
“Đó là loại kẹo cháu yêu thích.” Cậu nói.
Khi quành ở góc rẽ, họ chạm trán đàn bò sữa đang chen lấn xô đẩy nhau dọc theo con đường mòn để trở về chốn nghỉ ngơi sau khi bị vắt sữa. Hẳn là muộn rồi, Teddy nghĩ. Cậu hy vọng mình không bỏ lõ bữa trà.
“Ồ, hoa chuông xanh, đẹp quá!” Mẹ cậu nói khi cậu và Izzie đi qua cửa. Bà đang mặc bộ váy dài buổi tối và trông bà rất đẹp. Theo lời Maurice, ở ngôi trường mà Teddy sắp theo học, mẹ cậu có khá nhiều người ngưỡng mộ. Teddy cảm thấy hãnh diện về nhan sắc của mẹ mình. “Con đã đi đâu, làm gì cả ngày nay thế hả?” Sylvie hỏi. Câu hỏi dành cho Teddy nhưng lại nhắm vào Izzie.
Sylvie khoác trên người bộ áo choàng lông, ngắm nghía hình ảnh phản chiếu của mình qua tấm gương trong phòng ngủ. Bà dựng cổ chiếc áo choàng ngắn không tay mặc buổi tối lên rồi áp vào mặt mình. Một sự kiểm tra kĩ lưỡng. Tấm gương từng là người bạn của bà, nhưng bây giờ bà cảm thấy nó thật dửng dưng, lạnh nhạt với bà.
Bà đưa tay lên tóc, “niềm hãnh diện” của bà, nó được tô điểm bằng một lô lược cài và kẹp tóc. Bây giờ thì kiểu tóc này đã lỗi mốt rồi, nó là dấu hiệu của một bà mệnh phụ không theo kịp thời đại. Bà có nên cắt tóc không? Hugh sẽ cảm thấy hụt hẫng. Bà chợt nhớ đến một ký ức - một bức chân dung được cha bà vẽ bằng chì than trước khi ông mất không lâu. Ông đã gọi bức tranh ấy là Sylvie tạo dáng thiên thần. Hồi ấy bà mười sáu tuổi, e lệ trong chiếc váy dài màu trắng - thực ra là một chiếc váy ngủ khá mỏng manh - và quay nửa người đi để phô bày suối tóc diễm lệ. “Hãy tỏ ra thật u sầu.” Cha bà hướng dẫn. “Hãy nghĩ về Sự sa ngã của loài người[15].” Sylvie lúc đó còn cả cuộc đời tươi đẹp đầy ẩn số ở trước mắt nên cảm thấy khó mà nhập tâm vào chủ đề ấy, nhưng bà vẫn duyên dáng bĩu môi và nhìn lơ đãng vào bức tường đối diện trong phòng vẽ rộng thênh thang của cha bà.
Giữ nguyên tư thế đó không hề dễ dàng và bà nhớ mạng sườn bà đã đau đớn thế nào khi phải chịu đựng vì nghệ thuật của cha bà. Llewellyn Beresford vĩ đại, họa sĩ chuyên vẽ tranh chân dung cho những người giàu có và nổi tiếng, một người đàn ông chẳng để lại gì ngoài những món nợ khi qua đời. Sylvie vẫn cảm thấy hụt hẫng, không phải vì mất đi cha bà mà là vì mất đi cái cuộc sống mà ông đã xây lên trên một nền tảng bấp bênh.
“Gieo nhân nào…” Mẹ bà lặng lẽ than khóc. “… Sẽ gặt quả ấy. Nhưng người gieo là ông ấy mà người gặt quả đắng lại là mẹ con mình.”
Một buổi phát mãi tài sản đáng xấu hổ đã diễn ra sau cái chết của ông, và mẹ của Sylvie đã khăng khăng đòi được tham gia, như thể bà cần chứng kiến từng món đồ mà họ đã bị tước mất được đem đi trước mắt họ. Họ ngồi kín đáo (họ hy vọng như vậy) ở hàng ghế sau cùng và ngẩn ngơ nhìn những món của cải của mình bị diễu qua diễu lại cho tất cả mọi người cùng thấy. Gần cuối buổi phát mãi ô nhục này, bức chân dung của Sylvie được đem ra bán. Họ công bố đây là “lô 182. Bức chân dung bằng chì than của con gái ông họa sĩ”, dường như họ không nhận ra Sylvie đang tạo dáng thiên thần. Đáng lẽ cha bà nên vẽ thêm cho bà một vầng hào quang và đôi cánh, như thế mục đích của ông sẽ rõ ràng hơn. Vì không có hai thứ ấy nên trông bà chỉ giống như một cô gái xinh đẹp mặc váy ngủ đang ủ rũ.
Một gã béo với thái độ khá chướng mắt đã giơ điếu xì gà của mình lên ở mỗi vòng đấu giá và cuối cùng bức chân dung của Sylvie được bán cho hắn với giá ba bảng mười si linh sáu xu. “Rẻ quá!” Mẹ bà lẩm bẩm. Có lẽ bây giờ còn rẻ mạt hơn, Sylvie nghĩ. Sau chiến tranh, những bức họa của cha bà đã trở nên khá lỗi thời. Bà tự hỏi bây giờ bức tranh ấy ở đâu nhỉ? Bà muốn lấy lại nó. Ý nghĩ ấy khiến bà bực tức, một nét cau mày hiện ra trong gương. Khi cuộc phát mãi cuối cùng cũng kết thúc (“Một lô tạp nham bao gồm một cặp vỉ lò bằng đồng, một cái lò hâm bằng bạc ố bẩn, một cái bình to bằng đồng”), họ đã nhanh nhanh chóng chóng rời khỏi căn phòng ấy cùng với đám đông và tình cờ nghe thấy gã đàn ông nhớp nhúa kia nói oang oang với bạn mình: “Tao sẽ nhìn trái đào to chín mọng này trong lúc tự làm mình thỏa mãn.” Mẹ Sylvie khẽ rít lên - bà không phải là kiểu người gây ồn ào - và kéo thiên thần ngây thơ của mình ra khỏi tầm nghe.
Ô uế, tất cả mọi thứ đều ô uế, Sylvie nghĩ. Ngay từ lúc khởi đầu, ngay từ Sự sa ngã của loài người. Bà chỉnh lại cổ chiếc áo choàng không tay. Trời nóng quá mức, không phù hợp để mặc nó, nhưng bà tin rằng trông bà xinh đẹp nhất khi mặc đồ lông thú. Chiếc áo choàng không tay này được may từ lông cáo trắng Bắc Cực, điều này khiến bà khá buồn vì bà vốn thích những con cáo thường đến thăm khu vườn của họ - bà đã lấy tên chúng để đặt tên cho ngôi nhà. Phải giết bao nhiêu con cáo mới làm được một cái áo choàng không tay nhỉ? Bà tự hỏi. Ít nhất thì cũng không nhiều bằng số cáo bị giết để làm một cái áo choàng dài. Trong tủ quần áo của bà vẫn treo một cái áo khoác lông chồn vizon, đó là món quà mà Hugh đã tặng bà nhân dịp kỷ niệm mười năm ngày cưới của họ. Bà phải đem nó đến tiệm bán đồ lông thú mới được, nó cần được sửa chữa thành thứ gì đó hiện đại hơn. “Mình cũng vậy.” Bà nói với tấm gương.
Izzie có một cái áo choàng mới hình tổ kén. Bằng lông chồn zibelin. Làm thế nào mà Izzie mua được áo lông thú khi không có tiền? “Một món quà.” Cô nói. Từ một người đàn ông, đương nhiên, và chẳng người đàn ông nào tặng áo lông thú cho ta mà không mong nhận được thứ gì đáp lại. Trừ khi đó là chồng của ta, dĩ nhiên rồi, người chồng ấy sẽ chẳng mong đợi gì ngoài lòng biết ơn đơn thuần.
Sylvie muốn phát ngát vì lượng nước hoa mà bà lỡ tay xức quá nhiều lên người trong lúc hồi hộp, mặc dù bình thường bà vốn không dễ xúc động đến thế. Tối nay bà sẽ lên London. Trên tàu sẽ nóng bức và ngột ngạt, thậm chí trong thành phố còn nóng bức và ngột ngạt hơn, bà sẽ phải hy sinh chiếc áo choàng lông. Giống như lũ cáo đã phải hy sinh vì bà vậy. Nghe cứ như một câu pha trò ấy, nhưng là kiểu pha trò của Teddy chứ không phải của Sylvie. Sylvie không có khiếu hài hước. Đó là một khiếm khuyết tai hại trong tính cách của bà.
Đôi mắt bà vô tình liếc phải bức ảnh trên bàn trang điểm, một bức chân dung được chụp trong hiệu ảnh sau khi bà sinh Jimmy. Sylvie đang ngồi. Đứa bé mới sinh mặc áo choàng rửa tội - một chiếc áo rộng thùng thình mà tất cả những đứa trẻ nhà Todd đều đã mặc qua - trông nó như sắp tuột khỏi cánh tay bà trong khi những đứa trẻ còn lại được sắp xếp một cách nghệ thuật quanh bà, trông như thể đang ngưỡng mộ bà. Sylvie lướt một ngón tay lên cái khung bằng bạc của bức ảnh với vẻ trìu mến nhưng lại thấy nó bám đầy bụi. Bà phải nói chuyện với Bridget mới được. Con bé ấy đã trở nên nhếch nhác rồi. (“Cuối cùng, tất cả tôi tớ đều quay lưng lại với chủ.” Mẹ chồng Sylvie đã khuyên khi Sylvie mới cưới Hugh.)
Tiếng ồn ào dưới nhà chỉ ra rằng Izzie đã về. Sylvie miễn cưỡng cởi chiếc áo choàng lông và bận vào cái áo khoác ngoài buổi tối nhẹ nhàng. Để làm ra cái áo này thì chỉ có những con tằm siêng năng bị hy sinh mà thôi. Bà đội mũ lên đầu. Mái tóc lỗi mốt của bà không phù hợp với những cái mũ tròn không vành gọn gàng và những cái mũ bê rê phổ biến dạo gần đây, vì vậy bà vẫn đang đội một cái mũ thường. Bà chẳng may đâm cái ghim cài mũ bằng bạc dài thoòng vào tay mình. (Ta có thể giết ai đó bằng ghim cài mũ không nhỉ? Hay chỉ làm họ bị thương thôi?) Bà lẩm bẩm nguyền rủa các đấng tối cao vì họ đã khiến cho những khuôn mặt trắng trẻo ngây thơ của các con bà từ trong bức ảnh nhìn bà với vẻ quở trách. Cũng chẳng có gì lạ, bà nghĩ. Bà sắp bốn mươi tuổi và viễn cảnh ấy khiến bà bất mãn với chính mình. (“Bất mãn hơn.” Hugh nói.) Bà có thể cảm thấy sự nóng vội đeo bám ở đằng sau và sự bốc đồng lù lù ở đằng trước bà.
Bà ngắm mình lần cuối cùng. Tạm ổn rồi, bà nghĩ, đây vốn không phải là lời đánh giá mà bà thường dễ dàng chấp nhận. Bà đã quen ông được hai năm. Liệu ông có còn nghĩ bà là một người đẹp không? Ông từng gọi bà như vậy. Có người phụ nữ nào trên đời này cưỡng lại được khi một người đàn ông gọi mình là người đẹp chứ? Nhưng Sylvie đã cưỡng lại và đã giữ gìn tiết hạnh. “Em là phụ nữ có chồng.” Bà đã nghiêm khắc lặp đi lặp lại. “Vậy thì em không nên đắm chìm trong trò chơi này, em yêu.” Ông nói. “Hậu quả có thể rất khủng khiếp đối với em - đối với chúng ta.” Ông cười trước ý kiến này như thể nó rất hấp dẫn. Thực vậy, bà đã chơi trò mèo vờn chuột với ông và rồi nhận ra rằng trò chơi này đã rơi vào bế tắc.
Ông đã ra nước ngoài, tới các thuộc địa, làm những công việc quan trọng cho đế chế, nhưng bây giờ ông đã trở về và cuộc đời của Sylvie đang trôi tuột qua các kẽ ngón tay như nước chảy, bà không còn muốn làm người đức hạnh nữa.
Bà được chào đón bởi một bó hoa chuông xanh to tướng. “Ồ, hoa chuông xanh, đẹp quá!” Bà nói với Teddy. Con trai bà. Bà còn hai đứa con trai khác nữa nhưng thi thoảng bà không tính đến chúng. Mấy cô con gái của bà không phải là đối tượng bà yêu mến, chúng giống như những rắc rối cần được giải quyết hơn. Chỉ có một đứa con duy nhất giữ được trái tim bà trong nắm tay khá dơ dáy của nó. “Nhớ rửa tay trước khi dùng bữa trà nhé, con yêu.” Bà nói với Teddy. “Con đã đi đâu, làm gì cả ngày nay thế hả?”
“Tìm hiểu về nhau.” Izzie nói. “Đúng là một cậu bé đáng yêu. Này, trông chị lộng lẫy quá, Sylvie. Và em có thể ngửi thấy mùi của chị từ cách xa cả trăm thước. Quả là femme séduisante[16]. Chị có kế hoạch gì à? Nói cho em biết đi!”
Sylvie trừng mắt với Izzie nhưng bà còn chưa kịp trả lời thì đã nhìn thấy đôi giày da cá sấu màu xanh lá cây lấm lem bẩn thỉu giẫm trên tấm thảm Voysey trải ở tiền sảnh. “Biến đi!” Bà nói, xua Izzie về phía cửa, rồi lại nói. “Biến đi!”
“Vết nhơ đáng nguyền rủa[17].” Hugh lẩm bẩm, thơ thẩn bước từ phòng làm việc ra tiền sảnh khi Izzie đùng đùng đi ngược trở lại lối dẫn vào nhà. Ông quay sang Sylvie và nói: “Trông em đẹp lắm, em yêu.”
Họ nghe tiếng động cơ chiếc xe Sunbeam của Izzie khởi động và tiếng nó gầm rú đinh tai nhức óc khi cô tăng tốc lao vút đi. Cô lái xe theo kiểu của nhân vật Cóc trong truyện Gió qua rặng liễu, bấm còi inh ỏi và ít khi nhấn phanh. “Sớm muộn gì cô ấy cũng sẽ đâm chết ai đó mất.” Hugh nói, ông vốn là một người lái xe nghiêm chỉnh. “Vậy mà anh cứ nghĩ cô ấy đang không xu dính túi. Cô ấy đã làm gì để có đủ tiền mua một chiếc xe khác vậy?”
“Chẳng phải việc gì đứng đắn, anh có thể chắc chắn điều đó.” Sylvie nói.
Cuối cùng thì Teddy cũng thoát khỏi những lời huyên thuyên khủng khiếp của Izzie, nhưng cậu vẫn phải chịu đựng sự chất vấn thường lệ từ mẹ cậu trước khi bà yên tâm rằng con trai bà không bị hư hỏng trong chừng mực nào đó bởi sự tiếp xúc với Izzie. “Cô ta làm gì cũng có động cơ cả.” Bà rầu rĩ nói. Cuối cùng thì cậu cũng được tự do để đi tìm bữa trà của mình, đó là món bánh mì nướng ăn kèm cá mòi đã được chuẩn bị sẵn từ trước vì tối hôm đó bà Glover nghỉ phép.
“Cô ấy đã ăn thịt chim chiền chiện.” Teddy nói với hai chị bên bàn trà. “Ở Ý. Mặc dù ở đâu thì cũng chẳng có gì khác biệt.”
“Một con chiền chiện bị thương ở cánh.” Ursula nói, và khi Teddy ngây ngốc nhìn cô, cô nói tiếp: “Thơ của Blake. Một con chiền chiện bị thương ở cánh/ Một tiểu thiên sứ đã ngừng hát ca.”
“Hãy hy vọng có ngày thứ gì đó sẽ ăn cô ấy.” Pamela, một người trần tục hơn, vui vẻ góp lời.
Pamela sắp học ngành Khoa học ở trường Đại học Leeds. Cô đang trông chờ được tới “miền Bắc trong lành”, với những con người “thực thụ”. “Chúng ta không đủ “thực” sao?” Teddy càu nhàu với Ursula và Ursula cười nói: “Thực là gì?” Câu hỏi ấy có vẻ ngớ ngẩn đối với Teddy vì cậu chưa có dịp nào để thắc mắc về thế giới hiện tượng. “Thực” là những gì mà ta có thể nhìn thấy, ngửi thấy và sờ thấy. “Em đang thiếu mất ít nhất là hai giác quan.” Ursula chỉ ra. “Thực” là khu rừng và hoa chuông xanh, con cú và con cáo, một đoàn tàu đồ chơi của hãng Homby lăn bánh quanh sàn phòng ngủ của cậu, mùi một chiếc bánh ngọt đang nướng trong lò. Con chim chiền chiện vừa bay vút lên vừa cất cao tiếng hót.
Bóng chiều tà phủ xuống Góc Cáo. Sau khi Hugh lái xe chở Sylvie tới nhà ga, ông lại lui về phòng riêng của mình với một ly whisky nhỏ và điếu xì gà hút dở. Ông là người đàn ông có chừng mực, đó là bản năng hơn là sự lựa chọn có ý thức của ông. Sylvie hiếm khi lên thành phố. “Tới rạp hát và ăn tối với bạn bè.” Bà nói. “Em sẽ ở lại qua đêm.” Bà là người có tư tưởng xê dịch, đó là điều không nên có ở một người vợ, nhưng ông phải tin tưởng bà trong tất cả mọi chuyện, nếu không, toàn bộ cuộc hôn nhân này sẽ sụp đổ và tan thành tro bụi.
Pamela đang ở trong phòng sinh hoạt ban ngày, chúi mũi vào cuốn sách giáo khoa Hóa học. Cô đã thi trượt trường Girton và không thực sự muốn mạo hiểm tới “miền Bắc trong lành”, nhưng “buộc phải” làm vậy, đó là một từ mà Sylvie thường nói và khiến người khác bực bội. Pamela đã (âm thầm) hy vọng sẽ có những giải thưởng lấp lánh và một sự nghiệp xán lạn, nhưng bây giờ cô e rằng cô sẽ không phải là người phụ nữ táo bạo như cô hằng mong ước.
Ursula nằm xoài trên thảm dưới chân Pamela, liệt kê ra tất cả các biến cách của các động từ Latin bất quy tắc. “Ôi trời!” Cô nói với Pamela. “Cuộc đời từ đây chắc chắn chỉ có thể tốt đẹp hơn.” Và Pamela cười nói: “Đừng quá chắc chắn như thế.”
Jimmy đang mặc bộ pyjama, ngồi ở cái bàn trong bếp, thưởng thức sữa và bánh quy trước khi đi ngủ. Bà Glover, đầu bếp của nhà họ, vốn ghét cay ghét đắng truyện thần thoại hay truyện ngụ ngôn, vì thế nhân dịp không có sự giám sát của bà, Bridget đã giải khuây cho Jimmy bằng một câu chuyện đã được rút gọn nhưng vẫn còn rất ghê rợn về “yêu tinh Pooka[18]” trong lúc cô cọ rửa nồi niêu xoong chảo. Bà Glover giờ này đang ngủ gà ngủ gật ở nhà mình, chân gác lên thanh chắn lò sưởi, tay vẫn cầm một cốc bia đen nhỏ.
Trong khi đó, Izzie đang ở trên con đường thênh thang, vừa lái xe vừa hát bài Alouette. Giai điệu ấy giờ đã hằn sâu trong trí óc cô. Je te plumerai, cô hét lên, Je te plumerai. Ta sẽ vặt mi. Cuộc chiến ấy thật đáng sợ, cô ước gì mình chưa từng nhớ đến nó. Cô đã là một FANY. Theo Izzie, đó là một từ viết tắt khá ngớ ngẩn. Đội quân Y tá và Cứu thương[19]. Cô đã xung phong lái những chiếc xe cứu thương, mặc dù trước đó cô chưa từng lái một cái xe nào, nhưng cuối cùng cô phải làm đủ mọi loại việc khủng khiếp. Cô nhớ đến cảnh mình lau chùi những cái xe cứu thương vào cuối ngày, chúng dính đầy máu me, các loại chất lỏng và chất thải. Cô cũng nhớ đến những người què cụt, những bộ xương cháy đen, những ngôi làng bị phá hủy, những cánh tay, ống chân thòi lên khỏi bùn đất. Những cái xô đựng gạc bẩn và băng quấn đầy mủ, những vết thương rỉ máu gớm ghiếc của những chàng trai tội nghiệp. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi người ta muốn quên hết về nó. Nhưng cũng có chút thú vị, vì Chúa. Cô đã được thưởng một tấm huân chương Croix de Guerre. Cô chưa bao giờ kể với ai ở nhà về nó. Cô đã cất nó trong một cái ngăn kéo lúc cô trở về. Nó chẳng có ý nghĩa gì cả khi ta nghĩ đến những điều mà các chàng trai tội nghiệp kia đã trải qua.
Cô đã đính hôn hai lần trong cuộc chiến, cả hai người đàn ông đó đều chết chỉ trong vòng vài ngày sau khi cầu hôn cô, trước cả khi Izzie kịp viết thư về nhà để báo tin vui. Cô đã ở bên người đàn ông thứ hai khi anh ta chết. Cô đã tình cờ phát hiện anh ta trong một bệnh viện dã chiến khi cô chở người bị thương tới đó. Lúc đầu, cô không nhận ra anh ta, anh ta đã bị lửa pháo làm cho biến dạng. Vì thiếu y tá và hộ lý nên nữ y tá trưởng đã động viên cô ở lại với anh ta. “Nào, nào.” Izzie an ủi, canh chừng bên cạnh lúc anh ta hấp hối dưới ánh đèn vàng vọt của một ngọn đèn dầu Tilley. Vào phút cuối, anh ta đã gọi tên mẹ mình, tất cả bọn họ đều thế. Izzie không thể hình dung ra cảnh mình gọi tên mẹ là bà Adelaide lúc cô lâm chung.
Cô vuốt phẳng những tấm chăn của vị hôn phu, hôn tay anh ta vì khuôn mặt anh ta không còn nguyên vẹn rồi thông báo với một hộ lý rằng anh ta đã chết. Cô không dùng uyển ngữ nào cả. Sau đó, cô quay lại chỗ chiếc xe cứu thương của mình và tiếp tục đi tìm kiếm những người thương vong khác.
Cô né tránh khi người thứ ba, một chàng trai khá nhút nhát, một đại úy tên là Tristan ngỏ ý muốn buộc một sợi dây quanh ngón tay cô[20]. (“Xin lỗi em, đây là tất cả những gì mà anh có. Anh sẽ tặng em một chiếc nhẫn kim cương thật lộng lẫy khi nào cuộc chiến này kết thúc. Em không nhận ư? Em chắc chứ? Nếu nhận lời là em đang ban ân huệ lớn cho một chàng trai đấy!”) Izzie nghĩ cô là kẻ mang vận xui nên không muốn truyền nó sang cho anh ta - lòng vị tha này thật trái ngược với tính cách của cô - nhưng ý nghĩ ấy thật kỳ cục vì dù có dính dáng đến cô hay không thì tất cả những anh chàng sĩ quan cấp úy dễ thương đó đều sẽ phải chịu số phận bi đát.
Sau khi từ chối Tristan, Izzie không bao giờ gặp lại anh ta nữa và cô đoán rằng anh ta đã chết (cô đoán rằng tất cả bọn họ đều đã chết), nhưng sau khi chiến tranh kết thúc một năm, trong lúc đang lật giở những trang báo tin tức xã hội, cô bắt gặp bức ảnh anh ta đang bước ra từ nhà nguyện St Mary Undercroft. Bây giờ anh ta là một thành viên của quốc hội, và hóa ra, giàu nứt đố đổ vách nhờ tiền bạc của gia đình. Anh ta đang cười rạng rỡ với cô dâu trẻ quá mức đang bám vào cánh tay anh ta, nếu dùng kính lúp để soi thì có thể thấy trên tay cô ta đang đeo một chiếc nhẫn kim cương trông thực sự lộng lẫy. Izzie cho rằng cô đã cứu được anh ta, nhưng buồn thay, cô đã không cứu được chính mình. Lúc cuộc Đại Chiến kết thúc, cô hai mươi tư tuổi và nhận ra rằng mọi cơ hội của mình đã hết.
Vị hôn phu đầu tiên của cô tên là Richard. Cô chẳng biết gì mấy về anh ta trừ cái tên đó. Cô nhớ hình như anh ta từng tham gia đội săn Beaufort[21]. Cô đã nhận lời cầu hôn của anh ta trong một phút bốc đồng. Còn vị hôn phu thứ hai, người đã chết trong bệnh viện dã chiến trước sự chứng kiến của cô, mới là người mà cô yêu điên dại. Cô yêu anh ta và anh ta cũng yêu cô. Họ đã dành những giây phút ngắn ngủi bên nhau để cùng hình dung ra một tương lai tươi đẹp - bơi thuyền, cưỡi ngựa, khiêu vũ. Thức ăn, tiếng cười, ánh nắng. Sâm banh để chúc mừng vận may của họ. Không có bùn lầy, không có cảnh giết chóc khủng khiếp kéo dài bất tận. Anh ta tên là Augustus. Bạn bè gọi anh ta là Gussie. Vài năm sau, cô phát hiện ra rằng tiểu thuyết chính là một phương tiện phục sinh và bảo tồn. “Khi tất cả mọi thứ khác đều biến mất, nghệ thuật vẫn tồn tại.” Cô nói với Sylvie như vậy trong cuộc chiến tiếp theo. “Những cuộc phiêu lưu của Augustus là nghệ thuật ư?” Sylvie nói, nhướng một bên lông mày mảnh mai. Trong lời nói của bà, từ Augustus không được viết hoa. Đương nhiên, định nghĩa của Izzie về nghệ thuật rộng hơn định nghĩa của Sylvie nhiều. “Nghệ thuật là bất cứ thứ gì mà người này sáng tạo ra để người khác thưởng thức.”
“Kể cả Augustus?” Sylvie nói và bật cười.
“Kể cả Augustus.” Izzie nói.
Những chàng trai tội nghiệp đã chết trong cuộc Đại Chiến chỉ lớn hơn Teddy có vài tuổi. Lúc ở cùng cậu cháu trai trong ngày hôm nay, đã có giây phút cô trở nên yếu lòng. Giá mà cô có thể bảo vệ cậu khỏi mọi mối nguy hại, khỏi nỗi đau mà thế giới (chắc chắn) sẽ mang đến cho cậu. Đương nhiên, cô cũng từng có con, nó được sinh ra khi cô mười sáu tuổi và lập tức được đem cho làm con nuôi, một sự cắt đứt quá nhanh gọn đến nỗi cô chẳng bao giờ nghĩ về thằng bé. Cũng may là khi cô xúc động định giơ tay ra vuốt tóc Teddy, cậu đột nhiên cúi đầu xuống và nói “Ồ, nhìn này, một con rắn thủy tinh” khiến bàn tay Izzie chỉ chạm vào không khí. “Cháu quả là một cậu bé thú vị.” Cô đã nói, và trong một thoáng, cô chợt nhìn thấy khuôn mặt biến dạng của Gussie khi anh nằm hấp hối trên cái giường xếp. Và rồi khuôn mặt của tất cả những chàng trai tội nghiệp đã chết hiện ra, tầng tầng lớp lớp, trải dài bất tận. Những người chết.
Cô tăng tốc hết mức có thể để dứt khỏi ký ức này, rồi lạng xe kịp lúc để tránh một người đi xe đạp, khiến cậu ta lảo đảo dạt vào bên vệ đường và hét toáng lên những lời chửi rủa đằng sau thanh hãm xung của chiếc Sunbeam ẩu tả đang lao đi vun vút. Khẩu hiệu của FANY là Arduis invictus. Không khuất phục trước khó khăn. Cực kì tẻ nhạt. Izzie đã có đủ khó khăn rồi, xin cảm ơn.
Chiếc xe lao như bay trên những con đường. Mầm mống của Augustus trong đầu Izzie đã nảy nở.
Maurice lúc này không có nhà, anh ta hiện đang bó mình trong chiếc áo đuôi tôm và cài nơ bướm màu trắng, chuẩn bị cho một bữa tối của Câu lạc bộ Bullingdon[22] ở trường Oxford. Trước khi tiệc tàn, theo truyền thống của Câu lạc bộ Bullingdon, nhà hàng này sẽ bị phá hoại. Mọi người sẽ ngạc nhiên khi biết rằng bên trong lớp mai cứng ngắc này có một sinh vật mềm mại đang quằn quại đầy hoài nghi và đau đớn. Maurice hạ quyết tâm rằng sinh vật ấy sẽ không bao giờ nhìn thấy ánh sáng ban ngày và trong tương lai không quá xa, anh ta sẽ hợp nhất với lớp mai, như một con ốc sên không bao giờ thoát được khỏi cái vỏ của nó.
Một “cuộc hẹn hò”. Từ đó nghe thật tội lỗi. Ông đã đặt trước hai phòng ở khách sạn Savoy. Họ từng gặp nhau ở đó trước khi ông lên đường đi xa, nhưng chỉ gặp gỡ một cách (tương đối) trong sáng ở những không gian công cộng.
“Phòng liền kề.” Ông nói. Nhân viên khách sạn sẽ biết mục đích của từ “liền kề”, đúng không nhỉ? Thật đáng xấu hổ. Trái tim Sylvie đập thình thịch trong lồng ngực khi bà bắt một chiếc tắc xi từ nhà ga tới khách sạn. Bà là một phụ nữ sắp sửa sa ngã.
Sự cám dỗ đối với Hugh.
“Vầng dương rạng rỡ với những tia nắng huy hoàng bất diệt.” Hugh đang hát một mình trong vườn. Ông đã ra khỏi phòng riêng để đi dạo một lát sau bữa tối (nếu có thể gọi đó là bữa tối). Từ phía bên kia hàng rào nhựa ruồi ngăn cách Góc Cáo với Quạ Gáy Xám, ông nghe thấy một tiếng hát đáp lại. “Ngắm nhìn ánh hồng rực lửa của chàng là nàng mệnh phụ an nhiên, thiên hậu mặt trăng. “Dường như chính điều này đã xui khiến ông len qua lỗ hổng trên hàng rào mà bọn trẻ con tạo ra sau nhiều năm chui qua chui lại và thấy mình choàng tay quanh người Roberta Shawcross trong nhà kính của gia đình Shawcross. (Mới đây cả ông và bà Shawcross đều tham gia vở opera nghiệp dư của làng có tên là Nhật hoàng. Họ khiến cho cả bản thân và đối phương phải ngạc nhiên vì màn trình diễn xuất thần của mình trong vai Ko-Ko và Katisha.)
Mặt trời và mặt trăng, Hugh nghĩ, những thực thể tượng trưng cho giống đực và giống cái. Ông sẽ nghĩ gì nếu biết rằng một ngày kia, đây sẽ là tên các chắt của ông? “Chị Shawcross.” Ông nói khi sang tới phía bên kia của hàng rào, cơ thể có chút xây xước vì bị những cành nhựa ruồi cọ phải. Ông nhận ra rằng bọn trẻ dùng lối tắt này nhỏ hơn ông rất nhiều.
“Ồ, làm ơn gọi tôi là Roberta, Hugh à.” Tên ông nghe thân mật đến đáng ngại khi phát ra trên môi bà. Đôi môi mềm mại, ướt át luôn khen ngợi và động viên mọi người.
Khi ông chạm vào bà, ông thấy bà thật ấm áp. Và bà không mặc coóc xê. Bà ăn mặc khá giống phong cách Bohemian, nhưng bà là người ăn chay, yêu hòa bình, và, đương nhiên, tích cực tham gia phong trào đòi quyền bầu cử cho phụ nữ. Người phụ nữ này là một nhà lý tưởng tuyệt vời. Ta không thể không ngưỡng mộ bà. (Ít nhất cũng ở một mức độ nào đó.) Bà có những đức tin và niềm đam mê bên ngoài bản thân bà. Còn những niềm đam mê của Sylvie lại là những cơn bão cuồng nộ ở trong lòng.
Ông khẽ siết chặt vòng tay quanh người bà Shawcross và cảm thấy bà cũng đáp lại ông.
“Ôi trời!” Bà nói.
“Tôi biết…” Hugh nói.
Điều đặc biệt ở bà Shawcross - Roberta - là bà hiểu về chiến tranh. Không phải là ông muốn nói chuyện về nó - Chúa ơi, không - nhưng có cảm giác thật an yên khi ở bên một người thấu hiểu. Dù chỉ một chút. Thiếu tá Shawcross đã mắc phải chút vấn đề khi ông từ tiền tuyến trở về và vợ ông đã rất thông cảm. Người ta đã nhìn thấy vài chuyện khủng khiếp, đó là những chuyện không phù hợp để nói ở nhà, và đương nhiên Sylvie không có ý định bàn luận về chiến tranh. Nó đã là một vết rách trên tấm vải cuộc đời họ và bà Shawcross đã khâu nó lại một cách tài tình.
“Ồ, đó là một cách ví von rất hay, Hugh à.” Bà Shawcross - Roberta - nói. “Nhưng, anh biết đấy, trừ phi anh khâu khéo đến mức những vết khâu dường như vô hình