← Quay lại trang sách

Chương 14 30 tháng 3 năm 1944-Chuyến bay cuối cùng

Cú rơi

Anh vừa mới huýt sáo gọi con chó thì nhìn thấy một cặp thỏ rừng trên cánh đồng rợp cỏ nằm ở phía tây của ngôi nhà trại. Hai con thỏ rừng tháng Ba đang đấm nhau như những võ sĩ tay không, mùa xuân đã khiến chúng trở nên cuồng loạn. Anh nhìn thấy con thỏ thứ ba. Rồi đến con thỏ thứ tư. Có lần, hồi còn nhỏ, anh từng đếm được bảy con thỏ một lúc trên đồng cỏ ở Góc Cáo. Pamela kể với anh rằng đồng cỏ ấy giờ đã biến mất, nó đã bị cày xới để trồng lúa mì vụ đông, phục vụ cho những cái miệng đói khát của thời chiến. Lanh, phi yến, mao lương hoa vàng, mỹ nhân thảo, cẩm chướng đỏ và cúc mắt bò, tất cả đều đã biến mất, không bao giờ trở lại nữa.

Lũ thỏ rừng có thể tin rằng đã sang mùa mới, nhưng Teddy vẫn chưa có cảm giác thời tiết đã sang xuân. Những đám mây nhợt nhạt bay lướt qua bầu trời bàng bạc. Chúng bị cuốn theo làn gió đông buốt giá thổi đến từ biển Bắc, quét qua vùng đất bằng phẳng, khuấy tung bụi đất trên bề mặt khô rang của những luống cày trơ trụi. Đó là kiểu thời tiết khiến người ta sa sút tinh thần, mặc dù tinh thần của Teddy đã phấn chân lên một chút bởi cảnh tượng những con thỏ rừng đang đánh nhau cùng tiếng hót thánh thót của một con chim hét ở đâu đó đáp lại tiếng huýt sáo của anh.

Con chó cũng nghe thấy tiếng huýt sáo - Lucky luôn nghe thấy tiếng huýt sáo của anh - và đang cắm cúi chạy về phía anh, chẳng để ý đến “trận đấm bốc” của lũ thỏ rừng đang diễn ra trên cánh đồng. Dạo này con chó thường lang thang khắp nơi, nó đã quen thuộc với vùng đồng quê, mặc dù rõ ràng nó cũng tỏ ra tự nhiên thoải mái như vậy ở khu nhà của các cô gái WAAF. Khi con chó tới chỗ anh, nó lập tức ngồi xuống, ngước nhìn anh chằm chằm, chờ đợi những mệnh lệnh tiếp theo.

“Đi thôi!” Teddy nói. “Tối nay bọn ta có một phi vụ. Ta…” Anh nói thêm. “… Chứ không phải chú mày đâu.” Một lần là đủ rồi.

Khi anh nhìn lại, lũ thỏ rừng đã biến mất.

Sáng nay, các mệnh lệnh đã được truyền xuống từ tổng hành dinh của Binh chủng Máy bay ném bom ở High Wycombe, nhưng chỉ một số ít người ở căn cứ - trong đó có Teddy - là được thông báo sớm về mục tiêu.

Với tư cách một trung tá không quân, anh không được khuyến khích bay quá thường xuyên, “nếu không mỗi tuần chúng ta sẽ mất một trung tá không quân”, như lời sĩ quan chỉ huy nói. Tất cả các quan niệm hồi trước chiến tranh về hệ thống cấp bậc của RAF đã bị tẩy xóa từ lâu. Bạn có thể là một trung tá không quân ở tuổi hai mươi ba và chết ở tuổi hai mươi tư.

Anh đang ở trong kỳ quân dịch thứ ba. Đây là một việc không bắt buộc, đáng lẽ anh có thể trở lại với việc huấn luyện, đáng lẽ anh có thể yêu cầu một công việc bàn giấy. Thật “điên rồ”, Sylvie viết. Anh có vẻ đồng tình với bà. Tính đến nay anh đã xuất kích hơn bảy mươi lần và được nhiều người trong phi đoàn coi là “bất khả xâm phạm”. Dạo gần đây các huyền thoại được tạo ra như vậy, Teddy nghĩ, chỉ cần ta sống lâu hơn những người khác. Có lẽ bây giờ đó chính là vai trò của anh - là tấm bùa thiêng, là phép thần thông. Để bảo vệ an toàn cho càng nhiều người càng tốt. Có lẽ anh là người bất tử. Anh thử nghiệm giả thuyết này bằng cách tham gia các chiến dịch thường xuyên nhất có thể, bất chấp những lời phản đối của cấp trên.

Anh trở lại với phi đoàn đầu tiên mà anh phục vụ, nhưng bây giờ họ không còn đóng quân ở cái căn cứ RAF xây bằng gạch tiện nghi thoải mái hồi trước nữa, mà ở trong một trại lính được dựng lên vội vàng từ bùn và mái tôn dợn sóng. Sau khi họ rời đi (vì chắc chắn họ sẽ rời đi - kể cả Cuộc chiến Trăm năm cũng đi đến hồi kết thúc cơ mà), chỉ mất vài năm là nó sẽ trở lại thành những cánh đồng. Trở lại với màu nâu, màu xanh lá cây và màu vàng kim.

Nếu anh tham gia một phi vụ, anh sẽ bay bằng chiếc F-Fox. Nó là một chiếc máy bay tốt đã chiến thắng số mệnh khi chở một tổ bay vượt qua kỳ quân dịch một cách an toàn, nhưng thực ra anh chỉ thích cái tên của nó và sự tương đồng của cái tên ấy với ngôi nhà của anh. Ursula thông báo rằng Sylvie đang rải bả độc để tiêu diệt lũ cáo ở Góc Cáo, vì trước đó chúng đã “đột kích” thành công chuồng gà của bà, mặc dù trước kia bà từng rất yêu chúng. “Có lẽ kiếp sau mẹ sẽ là một con cáo.” Ursula viết. “Và mẹ sẽ rất hối tiếc.” Chị gái anh nói cô “thích cái quan niệm” về sự tái sinh, nhưng đương nhiên cô không thực sự tin vào nó. Teddy nghĩ đó là vấn đề với niềm tin, về cơ bản, sự tái sinh là điều không thể xảy ra. Anh không tin vào thứ gì nữa. Có lẽ trừ những cái cây. Cây, đá và nước. Mặt trời mọc và hươu chạy.

Anh tiếc thương lũ cáo, nếu là anh, anh sẽ coi trọng chúng hơn một cái chuồng gà. Và còn hơn cả nhiều người nữa.

Anh đã tránh né bữa tiệc Giáng sinh ở Góc Cáo với cái cớ là phải ở lại phi đoàn. Dù sao, đó cũng không hẳn là một lời nói dối, và đã nhiều tháng nay anh chưa được gặp người mẹ có khả năng trở thành một con cáo ấy - không, thực ra anh đã không gặp bà từ bữa trưa khiến anh bực mình ở Góc Cáo sau cuộc không kích Hamburg. Anh nhận ra rằng anh đã ngừng yêu quý Sylvie. “Ai chả vậy.” Ursula nói.

Tổ mặt đất của chiếc F-Fox luôn đe dọa bất cứ ai được phép mượn nó - “Hãy mang “con diều” của Trung tá trở về an toàn, nếu không…” - mặc dù, thực tình mà nói thì đối với họ, chiếc phi cơ ấy thuộc về họ, và họ cũng cảnh báo Teddy bằng những lời lẽ tương tự.

Thi thoảng Teddy bay bằng một trong những chiếc máy bay cũ tồi tàn hơn để kiểm nghiệm thêm về thuyết bất tử của anh. Tổ mặt đất không vui nếu anh bay với những chiếc máy bay mới, máy bay chưa được kiểm tra và máy bay bị rung lắc. Đôi khi anh đảm nhiệm vị trí phi công cho một tổ bay mới toanh, nhưng thường thì anh ngồi ở ghế lái phụ và bay với tư cách một phi công phụ để củng cố tinh thần cho họ. Sẽ chẳng xui xẻo chút nào nếu có mặt anh trên chuyến bay của họ - ngược lại là đằng khác. Anh nghe thấy họ nói: “Giờ chúng ta sẽ an toàn vì có Trung tá bay cùng.” Anh nhớ đến Keith và cái vận may ngược đời của cậu ta, cuối cùng chính cái vận may ấy đã phản lại Keith.

Anh đi ra khu vực đậu máy bay để thăm chiếc F-Fox và tổ mặt đất của nó.

Đó là chuyến bay đầu tiên của tổ bay mà Teddy sẽ bay cùng. Họ vừa mới đến đây từ OTU ở Rufforth vào sáng hôm đó. Họ đã được phân cho một chiếc máy bay riêng, nhưng tổ mặt đất đã tuyên bố rằng nó chưa thể bay được sau chuyến bay thử nghiệm, và Teddy đã cho họ mượn chiếc F-Fox cùng chính bản thân anh. Họ vui vẻ và phấn khích như lũ cún con trước viễn cảnh đó.

Một chiếc máy bay tiếp liệu đang tiếp nhiên liệu vào các bình chứa ở cánh chiếc F-Fox. Tổ mặt đất lờ mờ biết được họ sẽ bay đi đâu bởi lượng nhiên liệu được bơm cho máy bay, nhưng không bao giờ nói chuyện về mục tiêu với các thành viên của tổ bay. Họ giữ kín mọi thứ. Có lẽ họ nghĩ nếu nói ra thì sẽ xui xẻo. Vài người trong số họ sẽ thức đến khuya, túm tụm quanh một cái lò sưởi không đủ ấm áp trong cái lều nhỏ trống trải của mình, ngủ chập chờn trên một cái giường xếp hoặc thậm chí ngồi trên một thùng dụng cụ chổng ngược, lo lắng chờ đợi chiếc F-Fox trở về. Chờ đợi Teddy.

Một chiếc xe chở bom lăn bánh về phía chiếc máy bay, nó giống như một đoàn tàu thu nhỏ, và các sĩ quan phụ trách vũ khí bắt đầu chuyển những quả bom vào trong khoang chứa bom. Ai đó đã dùng phấn viết lên một quả bom “Dành cho Ernie, Adolf”. Teddy băn khoăn không biết Ernie là ai nhưng không hỏi gì và cũng chẳng ai nói gì. Một trong những cậu lính trơn, một người Liverpool vui vẻ, đang ở trên đỉnh một cái thang, bận rộn lau chùi tấm kính Perspex ở tháp pháo đuôi bằng một “mảnh vải đen” - chiếc quần lót tiện lợi cỡ lớn mà các cô gái WAAF thường mặc. Cậu ta đã phát hiện ra - có lẽ tốt hơn hết không nên tưởng tượng là bằng cách nào - rằng nó là vật liệu tốt nhất dành cho công việc thiết yếu này. Chỉ một vết bẩn nhỏ trên lớp kính Perspex cũng có thể khiến cho xạ thủ tưởng nhầm rằng đó là một chiếc chiến đấu cơ của Đức, và cậu ta sẽ lập tức bắn súng xối xả khắp bầu trời, tiết lộ vị trí của họ cho quân địch. Cậu lính nhìn thấy Teddy và nói: “Mọi thứ ổn cả chứ, phi cơ trưởng?”

Teddy vui vẻ đáp rằng mọi thứ đều ổn. Một đội trưởng cần phải có thái độ tự tin, điềm tĩnh, truyền sự lạc quan cho mọi người. Và cố gắng nhớ tên của tất cả bọn họ. Và tốt bụng. Bởi vì tại sao lại không chứ?

Anh đã lập một lời thề, một lời hứa hẹn riêng tư với thế giới trong những đêm dài thao thức, rằng nếu anh sống sót, trong tương lai, anh sẽ luôn cố gắng tử tế, sống một cuộc đời trầm lặng, tốt đẹp. Giống như Candide, anh sẽ trồng vườn. Một cách lặng lẽ. Đó sẽ là sự chuộc tội của anh. Ngay cả khi những gì anh làm chỉ như hạt muối bỏ bể, đó cũng sẽ là một loại đền đáp vì được giữ lại mạng sống. Khi cuộc đời kết thúc và đến thời điểm phán xét, có thể anh sẽ cần đến hạt muối đó.

Anh biết anh chỉ đang lượn lờ loanh quanh, chẳng làm gì hữu ích. Những cơn bồn chồn cả về thể xác lẫn tinh thần này có vẻ tăng lên liên tục. Thi thoảng anh thấy mình mơ mơ màng màng, không phải chìm đắm trong suy nghĩ mà là hoàn toàn chẳng nghĩ ngợi gì cả, và anh bất giác nhận ra mình đã đến chỗ chuồng chim bồ câu tự lúc nào. Lũ bồ câu đưa thư được nuôi trong một cái chuồng lớn đằng sau dãy lều Nissan - khu vực ngủ nghỉ của các tổ bay - và được một người đầu bếp chăm sóc. Anh ta vốn có thú nuôi chim bồ câu và nhung nhớ lũ chim đua của mình ở Dewsbury.

Teddy bắt con chó ở lại bên ngoài chuồng. Nó luôn sủa lũ chim khiến chúng hoảng loạn bay tứ tán, mặc dù bình thường chúng vốn là loài vật có bản tính kiên định, thậm chí là quả cảm. Về mặt lý thuyết, chim bồ câu được đưa lên máy bay có thể dùng để đưa tin, và trong trường hợp hạ cánh xuống biển hoặc nhảy dù, ta có thể viết ra vị trí của mình, cho nó vào một cái hộp nhỏ và con chim sẽ mang thông tin quý giá này về nhà. Tuy nhiên, Teddy cho rằng nếu ta đang cố gắng lẩn trốn trên lãnh địa của kẻ địch, rất khó có khả năng ai đó sẽ tìm thấy ta chỉ nhờ một dòng chữ viết tay nguệch ngoạc. Trước hết, ta phải biết mình đang ở đâu, và con chim sẽ phải vượt qua bao khó khăn trắc trở để quay trở lại bờ biển nước Anh. (Anh tự hỏi liệu cô gái ở Bộ Không quân có số liệu nào về chuyện đó không.) Quân Đức nuôi những con chim diều hâu dọc theo bờ biển nước Pháp chỉ với mục đích tiêu diệt những con chim bồ câu đưa thư tội nghiệp ấy.

Và, đương nhiên, ta sẽ phải nhớ mang con chim ra khỏi cái giỏ được xếp gọn ghẽ trong thân máy bay và nhét nó vào một vật chứa không lớn hơn một cái bình giữ nhiệt (đó là cả một kỳ công khó nhọc). Việc nhảy dù ra khỏi một chiếc máy bay ném bom bị hư hại đòi hỏi người ta phải - trong tình huống lạc quan nhất - cuống quýt cố sống cố chết đeo dù, mở các cửa thoát hiểm, giúp đỡ những người bị thương nhảy ra, giữa lúc chiếc máy bay đang bốc cháy hoặc đang rơi xuống không kiểm soát được. Trong những giây phút cuối cùng ít ỏi, tuyệt vọng ấy, chẳng ai còn tâm trí đâu mà nghĩ đến lũ bồ câu tội nghiệp. Anh tự hỏi bao nhiêu chú chim đã bị bỏ lại, mắc kẹt trong giỏ, bị chết cháy hoặc chết đuối, hoặc chỉ đơn giản tan thành muôn mảnh khi chiếc máy bay nổ tung. Tất cả mọi người đều biết không nên đưa chim bồ câu lên máy bay của Trung tá.

Tiếng gù dịu dàng và mùi amoniac trần tục của cái chuồng tối lờ mờ đã vỗ về Teddy. Anh nhấc một con chim ngoan ngoãn ra khỏi ổ của nó và nhẹ nhàng vuốt ve nó. Nó để yên cho anh làm vậy. Khi anh đặt nó xuống trở lại, nó điềm tĩnh nhìn anh chằm chằm và anh tự hỏi nó đang nghĩ gì. Anh cho rằng cũng chẳng có gì nhiều. Khi anh trở ra bên ngoài với ánh sáng ban ngày chói chang, con chó ngờ vực hít ngửi anh để tìm kiếm những dấu hiệu của sự bội tín.

Đã đến giờ ăn trưa và anh đi tới phòng ăn tập thể. Dạo gần đây anh ăn chẳng ngon miệng lắm, nhưng buộc phải nuốt thức ăn xuống như thể đó là một bổn phận. Trên thực đơn viết ở tấm bảng đen có một món được gọi là “bánh pudding mận” - đó là một loại bánh pudding hấp nhân mận khô cực kì khó tiêu. Chỉ một lát sau, nó đã nặng nề chễm chệ nằm trong dạ dày anh. Anh khoan khoái nhớ đến một loại bánh tên là Far Breton mà anh đã ăn dưới vầng mặt trời nóng bỏng ở Pháp. Người Pháp có thể biến ngay cả những quả mận khô thành thứ gì đó ngon lành. Anh từng hạ cánh khẩn cấp ở Elvington, nơi các tổ bay của Pháp đóng quân, và phát hiện ra rằng các đầu bếp của họ cũng là người Pháp, và những người đầu bếp ấy tận tâm với các suất ăn hơn hẳn đội ngũ phục vụ ở nhà ăn của RAF. Không những thế, bữa ăn của họ còn có cả một ly rượu vang đỏ, dù chỉ là rượu vang của Algerie thôi, nhưng dù sao nó vẫn là rượu vang. Họ sẽ không phải chịu đựng một cái bánh pudding mận.

Các tổ bay đã nghỉ ngơi suốt khoảng thời gian còn lại của buổi chiều: viết thư, chơi ném phi tiêu, nghe radio trong phòng sinh hoạt tập thể - vốn luôn mở kênh BBC Forces Programme. Vài người thì ngủ. Nhiều người trong số họ đã tham gia phi vụ tối qua và mãi đến sáng mới được ngả lưng.

Trong lúc đó, các phi công và hoa tiêu sẽ được tiết lộ về mục tiêu trong một chỉ thị sơ bộ. Các điện đài viên và lính cắt bom sẽ nhận được chỉ thị riêng biệt. Teddy chỉ mong phi vụ này bị hủy - họ đang bước vào thời kỳ sáng trăng, bầu trời trong vắt, nhưng chẳng mấy chốc, với những đêm mùa xuân ngắn ngủi hơn, họ sẽ không thể thực hiện những chuyến không kích dài hơi vào sâu trong lòng nước Đức. Anh cho rằng đây là nỗ lực cuối cùng của Harris trong Cuộc chiến Berlin. Chuỗi không kích mùa đông dài đằng đẵng đầy mệt mỏi với nhiều tổn hại đã sắp kết thúc. Họ đã mất bảy mươi tám chiếc máy bay ném bom ở Leipzig vào tháng trước, bảy mươi ba chiếc máy bay ném bom ở Berlin vào tuần trước. Gần một nghìn tổ bay từ tháng Mười một. Tất cả đều còn rất trẻ. Giống như Những bông hoa rừng, tên khúc bi ca được chơi ở đám tang của một hoa tiêu người Canada mà Teddy và Mac đều biết trong kỳ quân dịch đầu tiên của họ. Walter. Walt. Biệt danh của cậu ta là Disney[223]. Teddy không nghĩ anh biết tên thật của cậu ta, mặc dù cậu ta chắc chắn có tên thật. Chuyện đó có vẻ đã lâu lắm rồi, mặc dù nó mới chỉ xảy ra gần đây thôi.

Viên sĩ quan chỉ huy đã đề nghị họ hộ tống thi thể của Disney tới Stonefall với vai trò người hộ tang bên quan tài. Họ đã tìm được một người thổi kèn túi Scotland ở Leeds và ông ta đã thổi kèn ở huyệt mộ. Disney thiệt mạng vì trúng đạn của hỏa lực phòng không khi đang tham gia một cuộc không kích ở Bremen. Cơ khí viên của họ đã thế chỗ vị trí hoa tiêu của cậu ta và sử dụng phương pháp định vị bằng thiên văn để đưa họ về nhà, cậu ta không thể tham khảo những tấm bản đồ và biểu đồ của Disney, bởi vì chúng đã thấm đẫm máu của Disney và trở nên vô dụng.

Họ đang đốt phá những thị trấn đã cháy rụi, ném bom những thành phố đã bị oanh tạc. Đây từng là một kế hoạch hay. Đánh bại kẻ địch từ trên không trung và cứu rỗi thế giới khỏi nỗi kinh hoàng của những cuộc chiến tranh trên mặt đất, từ Ypres, Somme đến Passchendaele. Nhưng nó không hiệu quả. Mỗi khi bị hạ đo ván, quân địch lại đứng dậy lần nữa, giống như trong những cơn ác mộng, giống như những đội quân liên tục được sinh ra từ răng rồng trên đồng bằng Ares[224]. Thế là họ tiếp tục ném những con chim vào tường. Tuy nhiên bức tường vẫn đứng sừng sững.

Một vị phó thống chế không quân đã ghé thăm phi đoàn. Ông ta trưng rất nhiều huân chương và trên mũ có gắn biểu tượng hình dải lá màu vàng - người ta vẫn gọi biểu tượng đó với cái tên dân dã là “trứng bác”. “Tôi muốn cho mọi người biết mặt tôi.” Ông ta nói. Teddy không nhớ là đã từng nhìn thấy mặt ông ta.

Tâm trí anh để cả vào Nancy. Sáng hôm đó, anh đã nhận được một lá thư - như thường lệ, lá thư có rất nhiều chữ nhưng cũng như thường lệ, nó chẳng có mấy thông tin, tuy nhiên ở cuối thư, cô nhắc đến việc đính hôn của họ và nói rằng cô sẽ “thấu hiểu nếu cảm xúc của anh đã thay đổi”. (“Anh ít viết thư cho em quá, anh yêu.”) Phải chăng cô đang muốn nói rằng cảm xúc của cô đã thay đổi? Sĩ quan chỉ huy chợt cắt ngang dòng hồi tưởng của anh với câu nói “Ted? Sẵn sàng chưa?”, rồi họ đi tới lều chỉ dẫn, viên phó thống chế sải bước đầy vẻ uy quyền ở đằng trước. Đi kèm ông ta là nữ tài xế WAAF khá quyến rũ, cô ta nháy mắt với anh, khiến anh vô cùng ngạc nhiên.

Các tổ bay đã tập hợp lại, một sĩ quan giám sát đứng ở cửa điểm danh họ. Khi tất cả mọi người đã vào trong, cửa chính sẽ được khóa lại còn cửa sổ được che rèm. Nữ tài xế của viên phó thống chế phải chờ ở bên ngoài. An ninh được siết chặt trước một cuộc không kích. Không một ai được phép rời khỏi phi trường hoặc gọi điện thoại. Giữ bí mật về mục tiêu là vấn đề quan trọng sống còn, mặc dù mọi người thường đùa bỡn rằng nếu muốn biết mục tiêu tiếp theo là gì, họ chỉ cần tới quán rượu Betty’s. Thực tế là bằng cách này hay cách khác, quân Đức đã theo dõi họ ngay từ khoảnh khắc họ cất cánh. Chúng nghe lén các tần số radio của họ, làm nhiễu sóng của hệ thống Gee, lần theo hệ thống HS2 và “tóm gọn” họ trong mạng lưới ra đa của chúng, vốn trải dài dọc theo bờ biển châu Âu. Ăn miếng trả miếng.

Khi họ bước vào lều chỉ dẫn, tiếng chân ghế cọ vào sàn vang lên ken két khi chừng một trăm hai mươi tổ bay đứng dậy trong tư thế nghiêm. Căn phòng - một cái lều Nissan - nồng nặc mùi mồ hôi và mùi khói như thường lệ. Tiếng ken két lại vang lên khi tất cả mọi người cùng ngồi xuống ghế. Tấm bản đồ trên tường được phủ một tấm màn đen và sĩ quan chỉ huy luôn kéo soạt nó ra với một cú vung tay khoa trương như trong một trò ảo thuật trước khi phát biểu những lời giờ đã thành thông lệ: “Thưa các anh, mục tiêu của các anh trong tối nay là...”

Nuremberg? Những tiếng lầm rầm bất mãn phát ra từ những tổ bay giàu kinh nghiệm hơn, vài tiếng “Jesus ơi”, “Chúa ơi” và một từ “Chết tiệt” bằng tiếng Úc vang lên, bất chấp sự có mặt của viên phó thống chế. Đó là một chuyến bay dài, đi vào sâu trong lòng địch, xa hơn vùng Ruhr gần ba lần. Sợi ruy băng đỏ gần như trải thẳng tới mục tiêu, hầu như không có đường zíc zắc nào.

Sĩ quan tình báo cấp cao là một WAAF có khuôn mặt nghiêm nghị. Cô ta đảm nhận nhiệm vụ của mình một cách rất nghiêm túc. Cô ta đứng dậy và nói với họ về tầm quan trọng của mục tiêu này. Đã bảy tháng trời nó không bị tấn công và gần như không bị sứt mẻ gì, mặc dù nó là nơi đóng quân của một doanh trại SS khổng lồ, đồng thời cũng là nơi sản xuất các loại thiết bị và vũ khí quân sự của hãng MAN “trứ danh”, và bây giờ, khi nhà máy Siemens ở Berlin đã bị ném bom, quân địch bèn đẩy mạnh việc sản xuất đèn rọi, động cơ điện “và những thứ tương tự” tại các nhà xưởng ở Nuremberg.

Thành phố này có tính biểu tượng, đó là nơi Hitler tổ chức những cuộc mít tinh quần chúng lớn, và nó rất gần với “trái tim” của kẻ địch, sĩ quan tình báo tiếp tục cung cấp thông tin. Cuộc không kích này sẽ đánh mạnh vào nhuệ khí của địch. Mục tiêu được nhắm đến là các bãi để toa tàu, nhưng vì có hiện tượng thả bom sớm theo dây chuyền nên những chiếc máy bay ở đằng sau sẽ thả bom trúng vào khu phố cổ - “Altstadt”, cô ta nói, bắt chước vụng về cách phát âm của người Đức. Họ sẽ mang theo một khối lượng lớn bom lửa, và những tòa nhà gỗ cũ kĩ sẽ cháy rừng rực.

Sinh quán của họa sĩ Dürer là ở Altstadt. Teddy đã lớn lên cùng với hai bức tranh của Dürer. Chúng được treo trong phòng sinh hoạt buổi sáng ở Góc Cáo - một bức vẽ một con thỏ rừng, bức còn lại vẽ một cặp sóc đỏ. Sĩ quan tình báo không nhắc đến Dürer, cô ta chỉ quan tâm đến hỏa lực phòng không, những vị trí của đèn rọi được đánh dấu trên bản đồ bằng những tấm celluloid màu xanh hoặc đỏ. Các tổ bay cũng chăm chú nhìn chúng, sự lo lắng trong lòng họ càng lúc càng tăng khi nhìn vào sợi ruy băng đỏ thẳng băng dài đằng đẵng kia.

Nhưng mặt trăng mới là thứ thực sự làm họ lo lắng, ngay cả Teddy cũng không ngoại lệ. Nó là một vầng bán nguyệt sáng bất thường, giống như một đồng bạc rực rỡ sẽ soi sáng họ suốt đêm dài tăm tối. Tâm trạng rầu rĩ của họ càng tồi tệ hơn khi được thông báo rằng họ sẽ bay qua khe Cologne. Họ được an ủi rằng vào thời điểm này trong năm nơi đó “không chắc” được phòng thủ dày đặc. Thật sao? Teddy nghĩ. Lộ trình của họ băng qua gần sát hàng rào phòng thủ của vùng Ruhr và Frankfurt, chưa kể những phi trường của các chiến đấu cơ bay đêm cùng những chiếc đèn hiệu của chúng, Ida và Otto, nơi các chiến đấu cơ của Đức liên tục bay vòng quanh, chờ đợi, giống như lũ diều hâu đang săn đuổi những chú chim bồ câu.

Đến lượt sĩ quan khí tượng lên cung cấp các chi tiết về tốc độ gió, tình trạng mây và kiểu thời tiết mà họ có thể gặp phải. Ông ta nói “có khả năng” có một đám mây “khá” dày che phủ chặng đường tới mục tiêu và quay về, nó “có thể” giúp họ ẩn nấp khỏi tai mắt của các chiến đấu cơ. Từ “có khả năng” khiến họ lo lắng nhấp nhổm trên ghế, từ “có thể” khiến tình hình càng tệ hơn. Từ “khá” cũng chẳng có gì khả quan. Ông ta nói bầu trời bên trên mục tiêu sẽ quang đãng, mặc dù những chiếc máy bay chỉ điểm đầu tiên đã báo cáo rằng có mây tích ở độ cao hai nghìn bốn trăm mét, nhưng thông tin ấy không được truyền đạt lại cho các tổ bay. Họ cần điều ngược lại - có mây ở khắp chặng đường dài để che giấu họ khỏi con mắt của các chiến đấu cơ và mặt trăng soi tỏ mục tiêu của họ.

Sĩ quan chỉ huy đã giãi bày với Teddy rằng ông ta “chắc chắn” phi vụ này sẽ bị hủy. Teddy không hiểu tại sao họ không cân nhắc điều đó ngay từ đầu. Churchill thích mục tiêu này. Harris thích mục tiêu này. Teddy thì không. Anh không nghĩ Harris và Churchill quan tâm đến ý kiến của anh.

Các lãnh đạo của từng bộ phận chuyên biệt phát biểu vài lời đi thẳng vào trọng tâm của vấn đề. Các hoa tiêu tiếp nhận thông tin về lộ trình và các điểm, ngoặt. Các điện đài viên được nhắc nhở về tần số của họ trong đêm nay. Các lãnh đạo phụ trách việc ném bom thì trình bày chi tiết về khối lượng và tỷ lệ giữa loại bom có sức công phá lớn với bom lửa, thời điểm và khoảng cách giữa các đợt tấn công, màu sắc của các vật đánh dấu mục tiêu mà họ sẽ thả bom xuống. Tất cả mọi người đều được nhắc nhở cẩn thận về các màu sắc trong ngày hôm đó. Họ đều biết chuyện có những tổ bay bắn nhầm mục tiêu vì nhầm lẫn màu sắc của vật chỉ điểm, rồi bị hỏa lực của phe mình, phe đồng minh hoặc phe trung lập bắn hạ.

Thế rồi đến lượt Teddy đứng lên. Một hành trình kéo dài liên tục suốt hai trăm sáu mươi lăm dặm bên trên lãnh địa được phòng thủ nghiêm ngặt của quân địch, dưới ánh trăng sáng rực và khả năng có mây che phủ là rất thấp. Vì nhuệ khí của cả đội (người chỉ huy buộc phải tỏ ra tự tin, điềm tĩnh), anh cố gắng xoay chuyển cái sự thật ảm đạm ấy thành thứ gì đó ít khủng khiếp hơn - nhấn mạnh lại lần nữa tầm quan trọng của thành phố này: nó là một trung tâm công nghiệp và vận tải, đây sẽ là cú đòn đánh vào nhuệ khí của quân địch, vân vân… Hành trình dài sẽ khiến các chiến đấu cơ khó khoanh vùng mục tiêu bị tấn công hơn, chúng sẽ phải tản bớt lực lượng để bảo vệ thêm một số mục tiêu khác mà chúng nghĩ là có thể bị nhắm đến, do đó sẽ lơ là khe Cologne. Hành trình thẳng tắp sẽ đánh lừa được quân địch, và việc không phải rẽ ngoặt vòng vèo sẽ bảo tồn được nhiên liệu, khiến họ chở được khối lượng bom nặng hơn. Và, thẳng thắn mà nói, nó sẽ khiến họ ít mệt mỏi hơn, họ sẽ đến được mục tiêu nhanh hơn, và càng đến đó nhanh chừng nào thì họ càng trở về an toàn sớm chừng ấy. Và giữ được đội hình chặt chẽ. Từ đầu đến cuối.

Anh lại ngồi xuống. Họ tin tưởng anh, anh có thể thấy được điều đó trên những khuôn mặt phờ phạc của họ. Bây giờ họ không còn đường lùi, vì vậy tốt hơn hết là họ nên lên đường trong tâm trạng thoải mái. Chẳng có gì tệ hơn việc khởi hành với tâm trạng nặng trĩu bởi cảm giác ta đang đi đến cửa tử. Anh nhớ đến Duisburg, phi vụ cuối cùng trong kỳ quân dịch đầu tiên của anh. Lúc đó tổ bay của anh đã bất an biết nhường nào vì tin rằng họ sắp đi vào chỗ chết. Đương nhiên, hai người trong số họ đã thiệt mạng. George và Vic. Trong tổ bay ban đầu của chiếc J-Jig chỉ có anh và Mac còn sống. Anh đã nhận được một lá thư từ Mac kể rằng cậu ta đã kết hôn và đi hưởng tuần trăng mật ở Niagara, và “một sinh linh bé bỏng sắp chào đời”. Đối với Mac, chiến tranh đã kết thúc.

Kenny tiếp tục huấn luyện các xạ thủ trên không mới ở một trường đào tạo bắn súng. Cậu ta đã viết một lá thư cho Teddy với nét chữ gần như không thể đọc nổi: “Tôi là một thầy hướng dẫn cơ đấy! Ai mà ngờ được chứ?” Vài tuần sau, chiếc máy bay có mặt cậu ta bị rơi khi đang trở về từ một bài tập huấn luyện bay đường trường. Ba thành viên trong tổ bay sống sót. Kenny không có trong số đó. Một người chị hay em gái của cậu ta đã viết thư cho Teddy với nét chữ cũng xấu gần bằng nét chữ của cậu ta: “Bây giờ Kenny tội nghiệp đã trở thành một thiên thần.” Giá mà điều đó là thật, Teddy nghĩ, giá mà các thành viên của Binh chủng Máy bay ném bom được gia nhập các đội quân rực rỡ[225] của Spenser. Nhưng họ không được như vậy. Người chết chỉ đơn giản là chết. Và họ nhiều không đếm xuể.

Đáng lẽ Kenny nên giữ con mèo đen xơ xác của mình thay vì tặng nó cho con của Vic Bennett. Cuối cùng thì một lá thư cũng đến chỗ anh, nhưng không phải từ Lily mà từ bà Bennett, người bà mới được lên chức, tự hào một cách bất đắc dĩ. “Một đứa con gái, trông không xinh xẻo lắm nhưng cũng chẳng đến nỗi nào.” Vậy là Margaret, không phải Edward, và Teddy nhẹ nhõm vì đứa trẻ không được đặt theo tên mình. Margaret, phải chăng con đang khóc thương khu rừng Goldengrove rụng lá[226]?

Sĩ quan chỉ huy nói thêm vài câu động viên, vị phó thống chế phát biểu vài lời hùng hồn phù hợp với một người trưng quá nhiều “trứng bác” trên vành mũ, một bác sĩ quân y đứng ở cửa phát cho họ những viên thuốc giúp họ tỉnh táo khi họ đi ngang qua. Thế là xong.

Tối nay họ được ăn bữa tối cuối cùng theo truyền thống, nhưng cũng chẳng phải yến tiệc gì - xúc xích và một quả trứng dai nhách như cao su. Không có thịt muối. Teddy nghĩ về con lợn của Sylvie, nghĩ về mùi thịt lợn quay.

Giờ họ đang ở trong tình trạng nội bất xuất, ngoại bất nhập, một thời điểm tồi tệ khi những ý nghĩ của họ có thể phủ bóng u ám lên mọi thứ. Teddy chơi vài ván cờ domino với một trung úy không quân trong phòng sinh hoạt tập thể của sĩ quan. Trò chơi không cần phải động não ấy giúp cả hai người họ khuây khỏa, nhưng họ vẫn cảm thấy nhẹ nhõm khi đến thời điểm tới phòng thay đồ, chuẩn bị sẵn sàng để lên đường.

Áo lót và quần lót dài bằng len dày, tất dài đến đầu gối, áo cổ lọ, đồ chiến, giày bay bằng da cừu, ba lớp găng tay - lụa, da dê, len. Một nửa y phục của họ không phải là quân phục. Điều đó khiến vài người trong số họ có một vẻ ngang tàng, gần giống như cướp biển - nhưng cái vẻ ngang tàng ấy bị giảm bớt phần nào bởi cái dáng đi lạch bạch như thể họ đang đóng bỉm. Sau đó họ còn khoác thêm lên người nhiều thứ nữa - áo phao và bộ dây treo dù - cho đến khi ngay cả việc bước đi cũng trở nên khó khăn.

Họ kiểm tra xem trên cổ áo mình đã có một cái còi và trên cổ mình đã đeo thẻ bài chưa. Sau đó, họ tới chỗ các nhân viên hậu cần của đội WAAF để lấy bình cà phê, sandwich, kẹo cứng, kẹo cao su, sô cô la của hãng Fry. Họ nhận lấy “bộ dụng cụ tẩu thoát” - bao gồm bản đồ bằng lụa của những nước mà họ sẽ bay qua được in lên khăn quàng cổ hay khăn tay, tiền địa phương, la bàn được giấu trong những cái bút và nút áo, những tờ giấy chép những câu nói thông dụng bằng tiếng nước ngoài. Teddy đã giữ một mảnh giấy còn lại từ một chuyến xuất kích dài tới Chemnitz. Họ phải mang theo mảnh giấy ấy vì sợ rằng nếu bị rơi xuống, họ có thể bị lính Nga bắt gặp, những người lính Nga đó sẽ không biết họ là người nước nào và có thể sẽ bắn họ. (Đương nhiên), tờ giấy có chữ “Tôi là người Anh”.

Họ cầm lấy dù của mình, và một cô gái WAAF duyên dáng đưa cho Teddy một cái khăn quàng cổ bằng lụa rồi bẽn lẽn nói: “Ngài mang nó theo giúp em được không? Như thế em có thể nói nó đã bay qua nước Đức và ném bom quân địch.” Mùi của nó thật ngọt ngào. “Violet tháng Tư.” Cô gái nói. Anh nghĩ: Giống như chàng hiệp sĩ đón nhận tấm lòng của một tiểu thư xinh đẹp trong một câu chuyện về hiệp sĩ, rồi anh nhét nó vào túi áo. Anh không bao giờ nhìn thấy nó nữa, hẳn là nó đã bị rơi lúc nào đó rồi. Thời của những câu chuyện về hiệp sĩ đã kết thúc từ lâu.

Họ bỏ hết những gì có thể khiến người khác nhận dạng được họ ra khỏi các túi. Đó là một hành động dường như luôn có tính biểu tượng đối với Teddy - băng qua cái ranh giới giữa việc là một cá nhân cụ thể với việc trở thành một phi công vô danh, đồng nhất với những người khác. Người Anh. Và người Úc, người New Zealand, người Canada. Người Ấn Độ, người Tây Ấn, người Nam Phi, người Ba Lan, người Pháp, người Séc, người Rhodesia, người Na Uy. Người Mỹ. Trên thực tế, cả nền văn minh phương Tây đều chống lại nước Đức. Sao chuyện đó có thể xảy ra với đất nước của Beethoven và Bach? Họ sẽ cảm thấy thế nào về chuyện đó nếu họ còn có cái gọi là “sau này”? Alle Menschen werden Brüder. Ursula đã hỏi: “Em nghĩ điều đó có thể xảy ra không? Một ngày nào đó?” Không. Anh nghĩ là không. Thực sự là không.

Một cô gái WAAF đứng ở cửa phòng thay đồ, gọi tổ bay của chiếc F-Fox và chiếc L-London, và bọn họ ùa lên chiếc xe buýt cũ mà cô ta đang lái. Thi thoảng việc chuyên chở cũng có vẻ lộn xộn như y phục của họ vậy.

Lucky bị bỏ lại trong vòng tay của một cô gái WAAF cực kì quyến rũ, một cô điện đài viên tên là Stella. Anh thích Stella và nghĩ rằng giữa họ có thể có gì đó. Tuần trước, Teddy đã tháp tùng cô tới một buổi khiêu vũ ở phòng sinh hoạt tập thể của một phi đoàn gần đó. Chỉ có một nụ hôn lên má trên đường trở về và một lời “Cảm ơn ngài, buổi khiêu vũ thực sự rất thú vị.” Chẳng có gì hơn nữa. Đã có một sự kiện ghê rợn xảy ra ở phi trường của họ ngay trước hồi đó, một cô gái WAAF bị một lưỡi cánh quạt máy bay phạt mất đầu. Ngay cả bây giờ Teddy vẫn tránh nhớ lại sự kiện đó. Nó đã khiến cho tất cả mọi người ủ rũ, đặc biệt là các cô gái WAAF, đương nhiên rồi. Stella là mẫu người tốt, giống như những chú chó và những chú ngựa. Có lúc sự khủng khiếp của chiến tranh sẽ dẫn đến tình dục, nhưng có lúc lại không. Khó mà hiểu được lý do dẫn đến những kết quả khác nhau ấy. Anh hối tiếc vì đã không lên giường với Stella và tự hỏi liệu cô có cảm nhận giống anh không. Anh đã có một mối quan hệ ngắn ngủi - cực kì ngắn ngủi - với một người bạn của Stella tên là Julia. Họ đã làm tình với nhau rất nhiều lần. Những cuộc làm tình tuyệt vời. Một ký ức bí mật.

Họ tới chỗ chiếc F-Fox đang đậu và xuống xe buýt. Đến nước này rồi mà Teddy vẫn mong đợi ánh đèn đỏ sẽ lóe lên, báo cho họ biết cuộc không kích này đã bị hủy bỏ. Nhưng rõ ràng điều đó sẽ không xảy ra, vì thế anh tiến hành kiểm tra máy bay cùng với viên phi công tân binh, cơ khí viên và tổ mặt đất. Teddy tự nhắc nhở mình rằng cơ khí viên này tên là Roy. Xạ thủ ở tháp pháo giữa là một người Canada có tên là Joe, xạ thủ ở tháp pháo đuôi có cái tên dễ nhớ là Charlie. Trông cậu ta như mới mười hai tuổi. Tấm kính Perspex ở tháp pháo đuôi đang được lau chùi lần cuối bằng một miếng vải màu đen.

Teddy mời thuốc lá khắp lượt. Chỉ có cậu lính cắt bom là không hút thuốc. “Clifford.” Cậu ta nhắc Teddy khi thấy anh đang cố nhớ tên cậu ta. “Clifford.” Teddy lẩm bẩm. Tất cả các thành viên của tổ mặt đất đều hút nhiều thuốc như thể họ là những chiếc ống khói. Teddy ước rằng anh có thể mang họ theo trong một chuyến không kích, một chuyến đi an toàn đảm bảo rằng họ đều sẽ trở về được. Thật đáng tiếc khi họ không bao giờ được trải nghiệm những gì mà chiếc máy bay “của họ” trải qua, không bao giờ được nhìn thấy những cảnh tượng bên ngoài qua tấm kính Perspex được kì cọ kỹ lưỡng đó. Khi chiến tranh kết thúc, RAF đã thực hiện những “chuyến bay thị sát”, chở các cán bộ làm việc trên mặt đất bay qua Đức để họ có thể thấy sự tàn phá mà họ đã góp sức gây ra. Ursula đã tham gia một chuyến bay như vậy. Teddy không biết cô tham gia bằng cách nào nhưng anh không ngạc nhiên. Chiến tranh đã chứng minh rằng chị gái anh khá giỏi xoay xở trong cuộc chơi lớn của bộ máy quan liêu. Cô nói rằng thật khủng khiếp khi thấy một đất nước bị hủy hoại hoàn toàn.

Các chàng tân binh của Teddy đều đi tiểu vào bánh xe của chiếc F-Fox, và rồi có vẻ hơi bối rối khi họ nhận ra Teddy sẽ không tham gia nghi thức đàn ông này. Teddy nghĩ họ coi anh như một thánh nhân, một đạo sư. Nếu anh sai họ leo lên mái của đài kiểm soát không lưu và gieo mình xuống theo thứ tự thì ắt hẳn họ cũng sẽ làm theo. Anh thở dài, lần mò qua mấy lớp quần áo để cởi khuy quần và tiểu vào bánh xe máy bay dù không có nhu cầu. Các tân binh nhẹ nhõm cười trộm với nhau.

Thế rồi tổ mặt đất thực hiện màn chào tạm biệt đầy lạc quan và không màu mè như thường lệ, họ bắt tay nhau khắp lượt. “Chúc may mắn, hẹn gặp lại vào sáng mai nhé!”

Teddy đứng cạnh viên phi công tân binh trong lúc cất cánh. Viên phi công tên là Fraser, người Edinburg, từng là sinh viên ở trường St. Andrews. Một người Scotland có tính cách khác biệt với Kenny Nielson. Cậu ta không phải bay cùng một phi công thực tập mà có một viên trung tá kèm cặp. Teddy nhớ đến tổ bay của chiếc W-William. Phi cơ này cất cánh lúc 16 giờ 20 phút và không trở về. Do đó nó được báo cáo là mất tích.

Các động cơ Bristol Hercules gầm rú, các cánh quạt bắt đầu quay vài vòng giật cục trước khi quay đều và phát ra tiếng phành phạch quen thuộc. Động cơ tốt đấy, Teddy nói với Fraser khi họ đang kiểm tra. Fraser buộc phải quan tâm đến các quy trình của việc ném bom.

Động cơ ngoài ở cánh trái, động cơ trong ở cánh trái, tiếp theo là động cơ trong ở cánh phải, động cơ ngoài ở cánh phải. Sau khi kiểm tra xong xuôi tình trạng giảm tốc độ quay của động cơ khi một trong hai ma nhê tô bị tắt, áp lực dầu, vân vân… - Fraser xin phép đài kiểm soát không lưu để được chạy ra đường băng, chuẩn bị cất cánh. Cậu ta liếc nhìn Teddy như thể cần sự đồng ý của anh hơn là sự đồng ý của đài kiểm soát không lưu, và Teddy giơ ngón tay cái lên với cậu ta. Các vật chèn bánh máy bay được bỏ ra, họ nhích về phía trước để tới chỗ đoàn người đưa tiễn trên đường vành đai, các động cơ rung lên và rú ầm ĩ, sự rung chuyển ấy lan qua cơ bắp vào tận trong xương và nằm lại trong tim, trong phổi. Teddy cảm thấy điều đó thật tuyệt diệu.

Họ là chiếc máy bay thứ năm cất cánh. Họ rẽ vào đường băng, các động cơ hoạt động hết công suất, rồi chờ đợi, giống như một con chó săn thỏ bị mắc bẫy, sẵn sàng lao đi khi ánh đèn Aldis của đài kiểm soát không lưu chuyển sang màu xanh. Teddy vẫn đang mong đợi ánh đèn đỏ từ đài kiểm soát không lưu, tín hiệu cho thấy phi vụ bị hủy bỏ. Nó chẳng bao giờ xuất hiện. Thi thoảng, họ thậm chí còn bị triệu hồi khi đang ở trên không trung. Nhưng không phải lần này.

Đoàn người đưa tiễn đã tụ tập ở chỗ chiếc caravan điều hành bay. Họ bao gồm các cô gái WAAF thuộc các bộ phận khác nhau, tổ đầu bếp và tổ mặt đất. Sĩ quan chỉ huy và vị phó thống chế cũng ở đó, chào tạm biệt mỗi chiếc máy bay khi nó băng qua. Những người sắp chết không vẫy tay chào lại, Teddy nghĩ. Thay vì thế, anh giơ ngón tay cái lên với Stella, cô cũng đang ở đó, ôm Lucky trong tay, và khi họ lăn bánh trên đường băng, cô giơ một cái chân của con chó lên vẫy vẫy. Teddy thấy cử chỉ ấy còn đáng giá hơn bất cứ hành động chào tạm biệt nào của vị phó thống chế. Anh phì cười và Fraser liếc nhìn anh cảnh giác. Cất cánh là một việc nghiêm túc, đặc biệt khi đây là chuyến xuất kích đầu tiên của bạn, và phi công phụ của bạn là một trung tá không quân. Vậy mà viên trung tá đó lại đang có những hành vi kỳ quặc.

Ánh đèn xanh hiện lên và họ bắt đầu ì ạch dọc theo đường băng như một con chim quá khổ, cố gắng đạt tới vận tốc cần thiết là một trăm linh năm dặm một giờ để “nhấc” mười hai tấn kim loại cộng với xăng và các loại bom lên khỏi mặt đất. Teddy trợ giúp Fraser một số thao tác cần thiết, rồi anh cảm thấy sự nhẹ nhõm quen thuộc khi Fraser từ từ kéo cần lái và chiếc F-Fox ì ạch bay lên. Anh vô thức chạm vào con thỏ rừng bằng bạc nhỏ bé trong túi áo ngực.

Họ gầm rú bay về phía ngôi nhà trại. Teddy tìm kiếm cô con gái của người nông dân nhưng không thấy bóng dáng cô ấy đâu cả. Anh cảm thấy ớn lạnh. Lần nào cô ấy cũng ở đó mà. Anh có thể nhìn thấy những cánh đồng bằng phẳng trong bóng hoàng hôn, thấy mặt đất nâu trơ trụi, thấy chân trời đang tối dần. Ngôi nhà trại. Khoảnh sân trại. Họ nghiêng đi và bắt đầu bay vòng, chao lượn, chuẩn bị tinh thần trước khi hướng về phía bờ biển, và khi cánh của chiếc F-Fox nghiêng sang trái, anh đã nhìn thấy cô ấy. Cô ấy đang ngước nhìn họ, vẫy tay rối rít với tất cả bọn họ. Vậy là họ sẽ an toàn. Anh vẫy tay đáp lại, mặc dù anh biết cô ấy không thể nhìn thấy anh.

Các phi đoàn ở phía bắc phải cất cánh sớm một giờ so với các phi đoàn ở xa hơn về phía nam, rồi sau đó họ phải bay về phía nam để gặp nhau ở điểm hẹn. Điều này cho họ một khoảng thời gian tương đối an toàn để tiến hành những nhiệm vụ thường lệ. Một khi đã ở trên không trung, họ chẳng có khoảnh khắc nào rảnh rỗi, tất cả những ý nghĩ u ám cứ bám lấy họ lúc ở dưới mặt đất đều biến mất. Cơ khí viên bận rộn với việc đồng bộ hóa các động cơ, tính toán lượng nhiên liệu còn lại trong mỗi bình xăng để tiến hành đổi các bình xăng khi đến thời điểm cần thiết. Hệ thống IFF[227] được bật lên để cho các chiến đấu cơ của RAF biết rằng họ là bạn chứ không phải là kẻ thù. Điện đài viên tháo sợi dây ăng ten dài ngoằng ngoẵng đang bị quấn của radio ra, còn hoa tiêu cắm cúi xác định các vị trí chính xác, so sánh tình trạng gió trong thực tế so với dự báo. Khi họ bay qua biển, lính cắt bom bắt đầu rải các mảnh nhôm gây nhiễu xạ có tên là Window. Họ vẫn bật đèn hiệu, và Teddy có thể nhìn thấy những ánh đèn xanh đỏ nhấp nháy trên đầu cánh của những chiếc máy bay khác.

Họ ồn ào bay qua biển Bắc, suốt lúc đó vẫn hướng lên trên. Ánh trăng rọi sáng những con sóng và đôi cánh của chiếc F-Fox lấp lánh như thỏi bạc được đánh bóng. Cứ như họ đang bị đèn rọi soi chiếu. Các xạ thủ thử những khẩu súng Browning bằng cách bắn từng tràng ngắn xuống biển. Những quả bom được lắp ngòi nổ, các đèn hiệu bị tắt. Ở độ cao một nghìn năm trăm mét, họ đeo mặt nạ ôxy vào, và Teddy nghe thấy tiếng thở khàn khàn quen thuộc trên hệ thống liên lạc nội bộ.

Họ bay nhanh qua Bỉ một cách êm ái nhờ một cơn gió thuận. Tầm nhìn tốt đến nỗi họ có thể nhìn thấy nhiều chiếc máy bay khác trong đội hình máy bay ném bom. Đây gần giống một cuộc không kích vào ban ngày mà Teddy từng tham gia. Cuộc đời anh vốn diễn ra vào ban đêm. Họ có thể nhìn rõ vầng trăng rực rỡ phản chiếu trên các sông hồ khi bay qua đó, nó hộ tống họ, soi chiếu từng dặm đường. Trên mặt nàng không có dấu hiệu nào của sự rụt rè hay bẽn lẽn[228]. Hugh rất yêu thích những chiếc đĩa hát của Gilbert và Sullivan. Vở kịch Nhật hoàng nghiệp dư từng được biểu diễn ở hội trường của làng, và bố họ đã làm tất cả mọi người ngạc nhiên khi đảm nhận vai Ko-Ko - người đao phủ. Ông đã rất nhập tâm với vai diễn có tính cách hoàn toàn trái ngược với mình ấy - liếc mắt đểu cáng, đi lại nghênh ngang và nghêu ngao hát quanh sân khấu. “Cứ như là Jekyll và Hyde[229] vậy.” Sylvie nói. Bà Shawcross đóng vai Katisha. Bà cũng là một tài năng kịch nghệ nữa vừa được khai quật.

Họ tới điểm ngoặt đầu tiên gần Charleroi và không lâu sau đó, cuộc tàn sát bắt đầu.

Chiến đấu cơ có ở khắp nơi, giống như những con ong vò vẽ giận dữ khi tổ bị chọc phá. Quả là bất ngờ khi gặp chúng sớm như vậy, lại còn rất nhiều nữa. Không phải một tổ ong bị chọc phá mà là một đàn ong dường như đã chờ đợi họ từ lâu.

“Tôi thấy một chiếc phi cơ ở bên trái đầu máy bay của chúng ta bốc cháy và rơi xuống.” Xạ thủ ở tháp pháo giữa báo cáo.

“Ghi lại, hoa tiêu.” Fraser nói.

“OK, phi cơ trưởng.”

Lần này là giọng nói của xạ thủ ở tháp pháo đuôi: “Một chiếc ở sườn bên phải bị rơi.”

“Ghi lại, hoa tiêu.”

Teddy, đang đứng cạnh Fraser, nhìn thấy máy bay bị bắn hạ khắp nơi. Các vụ nổ giống như những vì sao sáng rực rải rác trên bầu trời.

“Chúng có phải là bù nhìn không, thưa ngài?” Lính cắt bom hỏi. Teddy nhận thấy vì Fraser là “phi cơ trưởng” nên cả tổ bay đã gọi Teddy là “ngài” để không bị nhầm lẫn. Họ đều đã nghe lời đồn rằng quân Đức đang sử dụng các “bù nhìn” - tức là những quả đạn phòng không giả vờ là những chiếc máy bay ném bom bị nổ tung - nhưng Teddy cảm thấy không phải như thế. Anh thấy vài “ngôi sao” bốc lên những ngọn lửa đỏ bẩn thỉu do dầu cháy, đó là hình ảnh quá đỗi quen thuộc với anh. Trước thời điểm này các cậu tân binh chưa bao giờ nhìn thấy một chiếc máy bay ném bom bị bắn hạ. Đây là cuộc thử lửa đầu tiên của họ, anh nghĩ như vậy.

Một vài chiếc chao qua đảo lại khi rơi xuống như lá rụng, những chiếc khác thì lao thẳng xuống đất. Một chiếc Halifax ở sườn trái bên trên họ bay qua với cả bốn động cơ đều bốc cháy, những dòng xăng cháy ngùn ngụt chảy tràn xuống dưới, nhưng nó ở quá xa nên họ không thể thấy liệu có còn thành viên nào của tổ bay mắc lại không. Hai cánh của nó đột nhiên cụp lại như một cái bàn gấp và nó rơi xuống như một con chim chết.

“Tôi e rằng không phải “bù nhìn” đâu, là máy bay đấy.” Anh nói và nghe thấy vài tiếng xuýt xoa kinh hãi trên hệ thống liên lạc nội bộ. Đáng lẽ anh nên để mặc họ ảo tưởng. Khắp xung quanh họ là những chiếc máy bay rơi bốc cháy ngùn ngụt hoặc nổ tung, chẳng có dấu hiệu gì cho thấy tổ bay của chúng biết rằng mình bị tấn công. Xạ thủ ở tháp pháo giữa tiếp tục đếm và hoa tiêu đánh dấu vào nhật ký hành trình cho đến khi Teddy chen ngang: “Đủ rồi!” Bởi vì nghe tiếng thở của họ, anh có thể nhận ra họ đang bắt đầu hoảng loạn.

Ở phía sườn trái của họ, một chiếc máy bay bốc cháy toàn thân đang bay qua, nó vẫn bay thẳng nhưng bị lộn ngược. Teddy nhìn thấy một chiếc Lancaster bốc lên những mảng lửa trắng và rơi xuống một chiếc Halifax ở bên dưới. Cả hai chiếc phi cơ đều cùng nhau lộn nhào xuống đất như những bánh xe lửa khổng lồ. Dường như có một chiếc máy bay chỉ điểm đang rơi giống một ống chỉ bị tuột, những quả pháo sáng đánh dấu mục tiêu màu xanh và đỏ của nó duyên dáng nổ tung khi nó chạm đất. Anh chưa bao giờ chứng kiến một “cuộc tàn sát” quy mô như thế này. Ở phía xa, những chiếc máy bay cứ liên tục thi nhau rơi rụng, tựa như những ngôi sao cháy bùng lên rồi chết đi. Các tổ bay chỉ đơn giản biến mất, họ sẽ không xuất hiện vào sáng hôm sau để ăn khẩu phần thịt muối và trứng của mình, chẳng ai nghĩ quá nhiều về cái cách họ biến mất. Nỗi kinh hoàng và khiếp sợ của những khoảnh khắc cuối cùng ấy bị giấu kín. Bây giờ họ không thể lờ đi được.

Chiếc máy bay chỉ điểm làm Teddy hoang mang, nó phải ở phía đầu của lực lượng chính mới đúng. Hoặc là nó đang ở sai vị trí, hoặc chính họ đang ở sai vị trí. Anh đề nghị hoa tiêu kiểm tra những cơn gió một lần nữa. Teddy có cảm giác họ đã dạt về phía bắc của sợi ruy băng màu đỏ. Anh cảm nhận được sự bối rối trong câu trả lời của hoa tiêu. Anh thấy mình ao ước có được kinh nghiệm của Mac.

Ở bên dưới, anh có thể nhìn thấy những cái xác máy bay cháy rực trên mặt đất, chúng trải dài đến năm, sáu mươi dặm.

Thế rồi, thêm một bằng chứng nữa để chứng minh chuyện quân Đức sử dụng “bù nhìn” chỉ là hoang đường. Ở phía trên sườn bên phải, họ nhìn thấy một chiếc Lancaster bị ánh trăng tàn nhẫn soi sáng - cứ như bị đèn rọi chiếu vào - một chiếc chiến đấu cơ của Đức đang lén lút theo dõi nó từ bên dưới, khuất khỏi con mắt của xạ thủ tháp pháo đuôi. Chiếc chiến đấu cơ có một khẩu đại bác chĩa lên trên. Đây là lần đầu tiên Teddy nhìn thấy nó. Đương nhiên - đó chính là lý do tại sao lại có nhiều máy bay bị bắn rơi đột ngột đến vậy. Khẩu đại bác trông như đang nhắm thẳng vào cái bụng sơ hở của những chiếc máy bay ném bom, nhưng nếu chúng bắn trúng cánh máy bay, nơi chứa các bình nhiên liệu, những chiếc máy bay ném bom sẽ chẳng còn cơ hội thoát nạn.

Anh bất lực nhìn chiếc chiến đấu cơ khai hỏa rồi nhanh chóng tách xa khỏi nạn nhân của nó. Đôi cánh của chiếc Lancaster nổ tung thành những đốm lửa lớn màu trắng và chiếc F-Fox chao đảo dữ dội.

Trước khi họ kịp trấn tĩnh lại, những quả đạn lửa đã lách cách quét dọc theo thân máy bay bằng nhôm mỏng khiến nó nứt toạc. Họ đột ngột lao chúi xuống theo phương thẳng đứng. Teddy nghĩ chắc Fraser đang cố tránh né chiếc chiến đấu cơ, nhưng khi anh liếc nhìn cậu ta, anh kinh hãi khi thấy cậu ta đang gục xuống cần điều khiển. Không thấy vết thương nào, cứ như thể cậu ta đang ngủ vậy. Anh liền kêu cứu qua hệ thống liên lạc nội bộ - anh gần như không thể chạm vào cần điều khiển khi Fraser đang ở trong tư thế này, và anh vừa phải cố gắng nâng giữ cơ thể bất động của cậu ta vừa phải kéo lại cần điều khiển, trong khi trọng lực giống như cả tấn bê tông nặng nề trên đầu anh.

Cả điện đài viên và cơ khí viên đều nhào tới, bắt đầu vật lộn với Fraser bất động. Ghế phi công khá cao và khi mặc trên người tất cả các trang bị cần thiết rồi nhét mình vào trong đó, ta sẽ vừa khít với nó. Gỡ một người ra khỏi vị trí như thế gần giống một nhiệm vụ bất khả thi, đặc biệt là khi Teddy đang ngồi ở mép ghế, và có lúc anh đã nghĩ anh có thể phải ngồi khom người trên đùi của Fraser tội nghiệp. Cuối cùng họ cũng xoay xở lôi được cậu ta ra, và Teddy ngồi vào vị trí của cậu ta. Anh thầm biết ơn vì không thấy vết máu nào.

Họ đang lao xuống đất với vận tốc ba trăm dặm một giờ, chiếc F-Fox gần như chúc thẳng đứng. Teddy gọi cơ khí viên và cả hai người họ cùng tóm lấy cần lái, cố sống cố chết níu chặt nó. Teddy lo rằng cánh máy bay sẽ rụng ra, nhưng cuối cùng, sau vài giây ngỡ như dài bất tận, sức lực kết hợp giữa hai người họ vừa đủ để tác động đến bánh lái độ cao, nâng mũi máy bay lên trên trở lại, và họ bay là là một lúc trước khi bắt đầu chậm chạp chúc lên trên.

Những lời cảm thán vang lên trên hệ thống liên lạc nội bộ. Teddy điểm danh toàn tổ bay một lượt để kiểm tra, rồi nói với họ một cách ngắn gọn: “Tôi e là phi công đã trúng đạn. Tôi đang lái thay. Hoa tiêu, làm ơn lập một lộ trình mới để đến chỗ mục tiêu.” Chỉ có các vị thánh thần mới biết họ đang ở đâu, thậm chí có lẽ ngay cả các vị ấy cũng không biết.

Điện đài viên và cơ khí viên đã kéo Fraser tới chỗ nghỉ ngơi của tổ bay. “Vẫn còn thở, thưa phi cơ trưởng.” Điện đài viên báo cáo. Teddy nhận ra họ không còn gọi anh là “ngài” nữa. Giờ anh là phi cơ trưởng. Là đội trưởng của họ.

Những tiếng thốt đầy hoang mang của cậu lính cắt bom báo cho Teddy biết về một thứ mà trước kia anh chưa từng nhìn thấy. Những vệt hơi nước. Thường thì chúng không bao giờ xuất hiện dưới độ cao bảy nghìn sáu trăm mét, vậy mà bây giờ chúng có mặt khắp nơi, phụt ra từ đuôi của những chiếc máy bay ném bom. Những vệt hơi nước ấy chẳng khác nào những tấm băng rôn sáng rực, đánh dấu vị trí của họ thậm chí còn rõ ràng hơn cả ánh trăng.

Đội ngũ máy bay ném bom bắt đầu tan rã từ lâu. Những viên phi công dày dạn kinh nghiệm hơn đã nhận ra rằng, việc bay theo đội hình thay vì an toàn nhất đã trở thành nguy hiểm nhất. Teddy bắt đầu lượn ra phía mép ngoài, đồng thời bay cao lên. Giữ được đội hình chặt chẽ. Từ đầu đến cuối. Đó là mệnh lệnh cuối cùng của anh với phi đoàn của mình. Anh hy vọng các phi công không mù quáng tuân theo những chỉ thị ấy. Teddy đang cố gắng bay cao nhất có thể. Chiếc F-Fox không thể đạt đến độ cao của những chiếc máy bay Lancaster, nhưng trong bầu không khí loãng với các động cơ tốt, anh có thể đến rất gần độ cao ấy. Tuy nhiên, họ đã bị quân địch phát hiện.

“Một chiếc chiến đấu cơ đang tới, phi cơ trưởng.”

“OK, hoa tiêu.”

“Hai trăm bảy mươi lăm mét. Hai trăm bốn mươi lăm mét.” Hoa tiêu đếm ngược khoảng cách giữa họ với đốm sáng đang lại gần trên màn hình ra đa của anh ta. “Hai trăm mười ba mét, một trăm tám mươi ba mét.”

“Đã nhìn thấy gì chưa, các xạ thủ?”

“Chưa thấy, phi cơ trưởng.” Cả hai cùng trả lời.

“Một trăm năm mươi hai mét, một trăm hai mươi hai mét.”

“Thấy rồi, phi cơ trưởng.” Xạ thủ ở tháp pháo giữa nói. “Phía trên mạn bên trái. Nghiêng sang trái, lộn vòng kiểu xoắn ốc. Mau, mau, mau.”

“Tăng tốc, cơ khí viên.”

“Đã tăng thêm một trăm, phi cơ trưởng.”

“Tất cả bám chắc vào.” Teddy nói khi anh đẩy cần điều khiển về đằng trước, chiếc máy bay bắt đầu lộn vòng, cánh nghiêng sang bên trái. Trọng lực ghim chặt anh vào ghế. Họ lộn vòng xuống phía dưới, dụng cụ đo độ cao không hoạt động cho đến khi anh lại cho chiếc máy bay lộn vòng sang bên phải, thu các cánh nhỏ lại và họ lại ì ạch hướng lên trên. Anh đang cố tìm một đám mây để ẩn nấp thì xạ thủ tháp pháo giữa hét lên: “Phía trên mạn bên phải, lộn vòng theo đường xoắn ốc sang bên phải, mau, mau, mau!”

Đôi khi chỉ riêng sự nhiễu loạn được tạo ra đã đủ để cắt đuôi một chiếc chiến đấu cơ, nhưng lần này thì không. Ngay khi họ hướng lên trên, xạ thủ ở tháp pháo đuôi hét lên: “Địch ở đằng sau bên trái, b