← Quay lại trang sách

Chương 15 2012-Suốt chặng đường tới ánh sáng

Khoanh vùng địa lý… Chúng ta nên làm điều đó bởi vì… Tiêu chuẩn mới… Mối quan hệ giữa đại lý - khách hàng hoặc mặt khác… Cũng như công nghệ giao tiếp tầm ngắn…”

Người đàn ông đang phát biểu ắt hẳn là người có bằng cấp về biệt ngữ và bằng tiến sĩ về bộ môn lảm nhảm học. Những lời nói của anh ta đang trôi nổi trong không trung, chỉ toàn là các từ ngữ không có ý nghĩa gì, chúng hút hết ôxy khiến Bertie cảm thấy hơi ngạt thở. Người đàn ông đang phát biểu được Bertie thầm gán cho biệt danh Người đàn ông Vớ Vẩn, anh ta tên là Angus và “có dòng dõi Scotland” - vì thế mới có cái tên thuần Scotland ấy - mặc dù giọng anh ta đặc sệt kiểu giọng ở các trường tư thục nội trú của Anh. “Cụ thể là trường Harrow”, và Bertie biết những điều này bởi vì cô đã hẹn hò với anh ta. Cuộc hẹn hò ấy được sắp xếp bởi “bà mối” nổi tiếng, trang web Match.com[230]. Đó là lý do cô đang ngồi lom khom ở cuối phòng, cố gắng làm như mình không ở đó.

Cô đã có ác cảm với anh ta gần như ngay lập tức sau một bữa tối ở nhà hàng Nopi, bởi vì khi hóa đơn thanh toán được đem ra, anh ta đã sốt sắng cưa đôi số tiền phải trả, do đó anh ta không đủ điều kiện đáp ứng một trong những tiêu chí đầu tiên của cô về người theo đuổi mình, đó là phải cư xử như một quý ông. Cô muốn anh ta phải mở cửa cho cô, trả tiền cho các bữa ăn, mua hoa. Viết thư tình[231] (Từ này dễ thương quá, nó khiến cô nghĩ đến những con chim bồ câu - chạm mỏ vào nhau và cất tiếng gù). Cô muốn được tán tỉnh. Muốn người đàn ông của mình phải thật ga lăng. Lại là một từ dễ thương. Nhưng tất cả những điều đó chỉ là mộng tưởng hão huyền. Cô phì cười, khiến người đàn ông ngồi cạnh cô trong “hội thảo chuyên đề” này liếc cô với vẻ lo lắng.

“Bertie ư?” Người đàn ông Vớ Vẩn đã nói trong bữa tối ấy. “Cái tên đó có ý nghĩa gì vậy?”

“Một ý nghĩa rất hay.” Và sau một hồi lâu im lặng khá tẻ nhạt, cô nói tiếp: “Nó là tên gọi tắt của Roberta, theo tên của cụ tôi.” Roberta là tên đệm của Bertie, cô sẽ không nói cho Angus biết tên thật của cô là Moon.

Trong một phút giây dại dột, cô đã về nhà anh ta ở Battersea (một sai lầm kinh điển), đó là một căn hộ với mọi bức tường đều bằng kính sáng choang như thể nó được thiết kế trong tương lai, rồi làm tình với anh ta trong cơn say xỉn, một cuộc làm tình chẳng có gì thú vị, đương nhiên, điều này đã khiến cô căm ghét chính mình. Để rồi sáng sớm hôm sau, cô đã len lén chuồn về, đi dọc theo bờ sông Thames trong nỗi xấu hổ để tẩy xóa nỗi đau khổ của cô[232]. Cô đã ngạc nhiên khi thấy có quá nhiều người ra ngoài vào lúc sáng sớm thế này, cô thơ thẩn đi dạo dọc theo bờ sông Themmes[233] lóng lánh chảy như dát bạc[234], mặc dù những nàng tiên nữ con gái của sông Thames trong bài thơ của Spenser không còn xuất hiện ở nơi này, trừ phi họ chính là nhóm nữ sinh đại học đang hò dô chèo thuyền, khua mạnh mái chèo trên làn nước nâu như thể một con quái vật đang đuổi theo họ. Con gái con đứa gì mà dậy từ sáu giờ sáng để đi chèo thuyền vậy? Bertie tự hỏi. Cô cho rằng họ là kiểu con gái tốt đẹp hơn cô.

Wordsworth đã thay thế cho Spenser trong tâm trí cô khi cô đến cầu Westminster và thấy rằng trong không khí quang đãng, trong lành vào sáng sớm của một ngày cuối tháng Năm, London thực sự rực rỡ và lấp lánh, dù chỉ trong một thời gian ngắn.

Cô ngạc nhiên - thực ra từ ngạc nhiên cũng không đủ để diễn tả cảm xúc của cô - khi nhìn qua thành cầu và thấy một chiếc thuyền thiên nga dát vàng đang chèo về phía cô. Khi dõi theo con thuyền nhẹ nhàng lướt đi dưới vòm cầu, Bertie tự hỏi phải chăng cô đã du hành ngược thời gian trở về thời Tudor.

“Gloriana!” Một giọng nói cất lên. Cô đã không để ý đến người đàn ông đã tới đứng cạnh cô. “Đó là con thuyền của Nữ hoàng.” Anh ta nói. “Thuộc đoàn thuyền trong đám rước. Tôi nghĩ họ đang tập dượt.” Đương nhiên rồi, cô nghĩ. Đám rước trên sông. London đang hân hoan chuẩn bị cho Đại lễ Kim cương. Quá nhiều từ dễ thương, Bertie nghĩ - “dát vàng”, “đại lễ”, “đoàn thuyền”, “kim cương”, “đám rước”, “Gloriana”. Nhiều đến mức gần như không thể chịu đựng nổi.

“Trong một thoáng tôi cứ nghĩ mình đã du hành ngược thời gian cơ đấy.” Cô nói.

“Cô có muốn vậy không?” Anh ta hỏi, như thể đang mời cô bước vào một cỗ máy thời gian mà anh ta để ở đâu đó ngay gần đây.

“Chà…” Cô nói.

“… Những mối quan hệ giữa các cơ sở cung ứng trong kinh doanh và quá trình chuyển sản phẩm thành hàng hóa tiêu dùng…”

Bertie làm việc trong một công ty quảng cáo, vì những lý do mà bây giờ cô đã quên bẵng đi, cô hiện đang có mặt ở Belgravia, nơi Angus đang dẫn dắt một hội thảo chuyên đề (Vâng, thực sự đấy!)

Cha của Angus là một luật sư cấp cao, còn mẹ anh ta là một bác sĩ tham vấn ở bệnh viện và mấy anh chị em nhà anh ta - một anh trai và hai em gái - đã lớn lên ở Primrose Hill, nơi Angus có một “tuổi thơ khá bình thường”. Bertie lập tức hồ nghi. Làm gì có ai có tuổi thơ bình thường chứ!

Anh ta làm việc trong ngành tiếp thị, “một người khai phá sản phẩm”. Bertie cảm thấy đó chẳng phải là một công việc đúng nghĩa. Cô nói “Tôi làm việc ở thư viện”, bởi vì câu nói này luôn có tác dụng chấm dứt một cuộc trò chuyện.

“Hồ sơ của cô trên trang web…” Anh ta bối rối. “… Nói rằng cô làm trong ngành “giáo dục cộng đồng”.”

“Thì cũng như nhau mà.” Cô nói. “Không ít thì nhiều.” Cô chẳng bao giờ nhớ mình đã khai gì trong hồ sơ, cô sẽ là một điệp viên tồi. “Thư viện cộng đồng.” Cô chữa lại, và đôi mắt anh ta ngây ra trước thông tin này, rồi anh ta chuyển sự chú ý sang món thịt gà non nấu hai lần trên đĩa của mình. Chỉ cần một lần cũng là đủ đối với sinh vật tội nghiệp đó rồi chứ nhỉ?

“… Gửi tin nhắn qua Bluetooth… Quảng cáo trên nhiều kênh một lúc…”

Angus hiện đang mặc cái áo phông đen in hình Nipper, con chó HMV[235]. Bên dưới Nipper - và cô thực sự ước rằng cô không biết điều này - là bộ ngực được cạo nhẵn thín của Angus. Còn Nipper thực sự hiện đang ở bên dưới tòa nhà bảo hiểm Lloyd’s ở Kingston-upon-Thames. Bertie hy vọng cô sẽ không bị chôn bên dưới một tòa nhà. Hoặc tệ hơn, bị khai quật và đem ra trưng bày, như những xác ướp Ai Cập tội nghiệp hoặc những người dân ở Pompeii[236], những người vẫn giữ nguyên tư thế đau đớn quằn quại đầy bất lực lúc chết. Ngoại Ted muốn được chôn cất trong rừng. (“Dưới một gốc sồi, nếu có thể.”) “Chúng ta sẽ chôn ông theo ý chúng ta.” Viola nói. “Làm sao mà ông biết được, đúng không?” (Nhưng nếu ông biết thì sao?) Cuộc tranh cãi về chuyện mai táng thi hài của ông đã bắt đầu diễn ra ngay cả khi ông còn chưa qua đời. Bertie yêu ông ngoại. Ông ngoại yêu Bertie. Đó là sự sắp đặt đơn giản nhất.

“… Sức lan tỏa mạnh mẽ và tạo nên sự ồn ào trong cộng đồng…”

Cô đang làm cái quái gì với cuộc đời mình thế này? Cô có thể đứng dậy và bỏ đi không?

“… Liên kết nóng…”

Viola sẽ là người cuối cùng được nghe cô kể về những người đàn ông mà cô hẹn hò. Bertie hiện ba mươi bảy tuổi - “và chẳng mấy chốc sẽ già”, như Viola luôn nhắc nhở cô với cái vẻ giống như một cô nữ sinh nhẹ dạ mà thi thoảng bà lại thể hiện ra. “Nhanh chân lên! Con không muốn bỏ lỡ thiên chức làm mẹ đấy chứ!” Thực ra tất cả bạn bè của cô đều đã lập gia đình; trong năm năm qua, gần như cuối tuần nào cô cũng đi dự đám cưới hoặc lễ rửa tội. Những người bạn đã có chồng con của Bertie đều có vẻ là nô lệ cho những đứa con của họ, đứa trẻ nào cũng giống như Chúa Jesus tái lâm vậy. Bertie chẳng thấy đứa trẻ nào trong số đó đáng yêu, và cô lo rằng nếu cô có con, cô sẽ không thích nó. Cô nghĩ đến Viola. Bà đã không yêu anh em cô, hoặc đúng hơn là cô đã không có cảm giác là bà yêu họ, và bà chắc chắn không thích họ (mặc dù bà có vẻ chẳng thích ai cả). “Chuyện đó thực sự chẳng liên quan gì đến việc thích hay không thích.” Ngoại Ted đã nói với cô khi ông vẫn còn có thể đưa ra lời khuyên. “Cháu sẽ yêu đứa con của cháu đến mụ mị.” Bertie không chắc cô muốn yêu đến mụ mị bất cứ ai, đặc biệt là một đứa bé non nớt chưa thể tự mình làm gì.

“Bà ngoại cháu đã yêu Viola đến mụ mị.” Ông ngoại cô nói. Điều đó đã đủ để chứng minh rằng bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra.

Rất lâu trước đây, trước khi Sunny bỏ xứ ra đi, anh đã làm cho một cô gái mang thai. Viola đã kinh hãi, và rồi khi cô gái phá thai, bà cũng kinh hãi chẳng kém. “Có vài người chẳng vừa lòng với bất cứ chuyện gì.” Sunny nói.

Viola đã bắt đầu gửi cho Bertie đường dẫn của các trang web hiến tặng - các siêu thị tinh trùng, nơi ta có thể chọn một gói gene từ trên giá bày hàng - người Scandinavi, nặng bảy mốt cân, cao một mét tám sáu, tóc vàng hoe, mắt xanh dương/ xanh lá, là giáo viên - và thảy nó vào “giỏ hàng”. “Rõ ràng, người Đan Mạch là tốt nhất.” Viola khuyên.

Đương nhiên, Viola sợ rằng nếu bà không có cháu, gene của bà sẽ mất đi và bà chẳng còn gì sót lại trên đời này nữa. Bà sẽ ngừng tồn tại. Bụp! Viola giờ đã sáu mươi tuổi, bà luôn đợi người ta nói “Không đời nào!”, nhưng chẳng ai nói thế cả. “Có thể bây giờ con không nghĩ như vậy.” Viola nói với cô. “Nhưng khi con năm mươi tuổi và thấy rằng đã quá muộn để làm mẹ, con sẽ suy sụp đấy.” Tại sao mẹ cô lúc nào cũng phải bi kịch hóa một cách không cần thiết như thế? Bởi vì nếu bà không làm vậy thì sẽ chẳng ai lắng nghe bà sao?

Đương nhiên, chẳng ai kinh ngạc hơn Bertie khi hai năm sau, cô có hai đứa con sinh đôi (và, đúng vậy, cô đã yêu chúng đến mụ mị) sau khi kết hôn với một người đàn ông vô cùng đàng hoàng, một bác sĩ (vâng, chính là người đàn ông trên cầu Westminster), và trở nên, chà… hạnh phúc. Nhưng bây giờ chuyện đó chưa xảy ra. Bây giờ, Angus đang truyền sự hăng hái của mình vào bầu không khí như thể anh ta đang ở một buổi lễ cầu nguyện, hô hào mọi người cân nhắc việc trở thành những “người tiêu dùng biết bán hàng”. Bertie cố gắng tiêu khiển bằng cách nghĩ đến những từ vần với từ Người đàn ông Vớ Vẩn (Ngớ ngẩn, Dớ dẩn, Lẩn thẩn, Keo bẩn), nhưng cuối cùng cô phải nhặt ra những câu thơ đáng yêu cất trong một cái túi tưởng tượng, thứ mà dạo gần đây cô buộc phải mang theo để bảo vệ bản thân khỏi thế giới vật chất xấu xa. (Quảng cáo có phải là nghề thích hợp với cô không?)

Tôi hút mật nơi lũ ong hút mật

Cô có thể cứ thế đứng dậy mà đi. Cô có một cuộc họp vào lúc hai giờ, mà đi lại ở London sẽ rất tốn thời gian. Các nhà sáng tạo đang trình bày với khách hàng ý tưởng về một loại kem đánh răng mới. Chẳng phải trên đời này đã có quá đủ kem đánh răng rồi sao? Người ta có thực sự cần quá nhiều lựa chọn đến nỗi không bao giờ có thể quyết định được sẽ lựa chọn thứ gì không? Như thể cái gì trên đời này cũng cần có nhiều loại vậy. Vâng, đó chính là sự thật - cô đang làm sai nghề. Nếu Bertie là một vị thần (một mộng tưởng mà cô yêu thích), cô sẽ tạo ra những thứ đang thiếu - ong, hổ, chuột sóc - chứ không phải dép xỏ ngón, vỏ điện thoại và kem đánh răng. Không, đừng có đi trên con đường đó, cô nghĩ, mộng tưởng sáng tạo quá mênh mông rộng lớn nên cô có thể bị chìm đắm trong đó mãi mãi.

“… Kiếm tiền… Chủ nghĩa vật chất…”

Sương giá tiến hành trọng trách bí mật của mình, chẳng cần nhờ đến sự trợ giúp của cơn gió nào

“… Nhà tiêu thụ luôn kết nối…”

Cánh rừng thuộc về ai, tôi nghĩ là tôi biết

“… Dựa vào việc tổ chức các sự kiện so le…”

Cái cây đáng yêu nhất, là cây anh đào giờ đang treo đầy hoa trên cành

“… Sự bùng nổ của các phương tiện truyền thông đại chúng có tác động đặc biệt...”

Khi chim bói cá bốc cháy, chuồn chuồn vẽ lên ngọn lửa

“Làm nội dung liên quan đến thương hiệu… Củng cố nhận thức của khách hàng về…”

Khu rừng ở Wenlock Edge đang bị quấy nhiễu

“… Bằng cách đó, bạn có thể đạt được những thành tựu rực rỡ…”

Có một tia sáng chiếu xiên xiên

“… Phương pháp “Phát hiện Tương tác Tự động Chi bình phương”…”

Cái gì?

Chúa ơi! Từ lúc nào mà ngôn từ và ý nghĩa lại chia tay nhau, quyết định đi trên hai con đường riêng vậy nhỉ? Còn chưa đến giờ ăn trưa mà cái túi đựng những câu thơ thú vị của cô đã gần như xẹp lép rồi.

Ôi, thế giới mỏi mệt này sao mà toàn là gai

“Ồ, tôi xin lỗi.” Cô nói khi người đàn ông ngồi cạnh chau mày. “Tôi đã nói câu đó ra miệng à?”

“Vâng.”

Cô đột ngột đứng phắt dậy và thì thầm “Xin lỗi” với người đàn ông đang cau có ấy. “Tôi phải đi bây giờ. Tôi chợt nhớ ra tôi đã để con người thực sự của mình ở trên tàu điện ngầm. Chắc cô ấy đang thắc mắc chuyện gì đã xảy ra. Nếu không có tôi, cô ấy sẽ lạc mất.”

Angus nhìn thấy cô và cau mày như thể đang cố nhớ ra cô là ai. Cô khẽ vẫy tay với anh ta - các ngón tay lúc lắc theo cái cách mà cô hy vọng là trông thật mỉa mai - nhưng cử chỉ đó có vẻ càng làm anh ta hoang mang hơn.

Trên tàu điện ngầm - tuyến Piccadilly, mặc dù có lẽ thông tin này là không cần thiết - không thấy bóng dáng con người thực sự của cô, nhưng có một tờ Daily Mail mà ai đó đã bỏ lại. Nó được mở ra ở một trang có tiêu đề đao to búa lớn: “Vũ trụ có thể sụp đổ vào HÔM NAY không? Các nhà vật lý tuyên bố rằng nguy cơ ấy “cao hơn bao giờ hết và có thể đã bắt đầu rồi”.” (Làm thế nào mà các ông biết được chứ?) Cái kiểu viết hoa của họ thật kỳ lạ. Nếu là Bertie, cô sẽ nhấn vào chữ “sụp đổ”. Viola thường nói kiểu đó (“Con sẽ SUY SỤP đấy”).

Bertie lục lọi ở đáy “cái túi” đựng những câu thơ thú vị, nhưng không thể tìm thấy dù chỉ là một mẩu thơ con con.

“Mẹ đang xem đám rước trên sông Thames với ngoại Ted ạ?” Bertie hỏi.

“Ừ, mẹ đang ở trong phòng của ông.”

“Đúng là vớ vẩn mẹ nhỉ? Tội nghiệp Nữ hoàng, bà ấy gần già bằng ngoại Ted, vậy mà phải chịu đựng chuyện này.”

“Bà ấy sẽ đuổi kịp cái chết của mình khi dầm mưa lâu như vậy.” Viola nói.

Là như thế sao? Bertie tự hỏi. Ta phải đuổi theo cái chết của mình, như thể nó là một con ngựa đang chạy lồng lên, và có vài người, giống như ngoại Ted, phải mất một thời gian rất dài mới bắt được nó, nhưng những người khác lại có thể chộp được dây cương của nó ngay lập tức? Giống như người bà mà cô chưa từng gặp mặt - Nancy nhanh nhẹn. Bà đã nhảy lên lưng cái chết như một kỵ sĩ táo bạo, nhanh đến nỗi khiến cho tất cả mọi người đều bất ngờ. Có lẽ ngay cả bản thân cái chết cũng phải sửng sốt.

“Thôi.” Bertie nói. “Mẹ chuyển điện thoại cho ngoại Ted được không?”

“Ông sẽ không hiểu con nói gì đâu.”

“Mẹ cứ chuyển cho ông đi. Chào ngoại Ted. Cháu là Bertie đây ạ.”

Đương nhiên, hôm nay, Nữ hoàng đã bỏ con thuyền dát vàng để lựa chọn chiếc du thuyền trên sông Thames tầm thường hơn, họ cho rằng chiếc Gloriana quá nhỏ, không thể chở hết số người cần thiết phải đi theo Nữ hoàng khi bà du ngoạn trên sông - bao gồm các cảnh vệ và những người hầu cận. Bertie đã định hòa vào đám người đang ở hai bên bờ sông Thames - để được là một phần của thứ gì đó lớn hơn bản thân cô, một thứ gì đó mà sau này cô sẽ nhớ tới, giống như ta biết ta đã ở đâu vào thời khắc chuyển giao giữa hai thiên niên kỷ. (Say xỉn, ở câu lạc bộ Soho House, một việc mà bây giờ cô thấy nuối tiếc. Hiển nhiên rồi.) Tuy nhiên, hôm ấy trời đã mưa dai dẳng suốt cả ngày, và Bertie đã theo dõi sự kiên nhẫn đáng ngưỡng mộ của hoàng tộc trên ti vi, cái phương tiện cũng từng giúp cô chứng kiến đám tang của Diana, sự sụp đổ của tòa tháp đôi[237] và đám cưới hoàng gia mới đây nhất. Cô nghĩ, một ngày kia, cô sẽ thực sự có mặt ở nơi mà một sự kiện nào đó xảy ra, và sẽ không phải xem lại sự kiện đó qua một màn hình. Ngay cả khi nó là một sự kiện đáng sợ - một vụ nổ bom, sóng thần, chiến tranh - chí ít cô sẽ hiểu được tầm vóc của nỗi kinh hoàng.

Em trai của ngoại Ted là Jimmy đã chết trước khi Bertie được gặp ông ấy. Ông ấy từng là một trong những người đầu tiên tiến vào trại tập trung Belsen. Sau chiến tranh, ông ấy đã rời khỏi quê nhà để tới sống ở đại lộ Madison[238], gia nhập một trong những công ty quảng cáo đầu tiên với vai trò nhân viên viết nội dung quảng cáo. Cô thấy ghen tỵ khi ông ấy được sống một cuộc đời có nhiều sự đối lập như thế. Ngày nay, ta chỉ có thể kiếm một tấm bằng của ngành Truyền thông.

Và cả ngoại Ted nữa, đương nhiên, bây giờ mỗi ngày cả trí óc và cơ thể ông đều tiêu mòn từng chút, giống như một phế tích tráng lệ bị bỏ quên, nhưng ông đã từng là một phi công lái máy bay ném bom, hằng đêm bay vào cái miệng của tử thần. ““Cái miệng của tử thần” - nghe khuôn sáo quá ngoại nhỉ?” Cô hỏi ông trong chuyến đi giã biệt của họ hơn mười năm trước, một chuyến viếng thăm đầy xúc động những nơi chốn cũ mà ông từng thân thuộc. (“Sao ông ấy không cứ thế mà chết thôi?” Viola đã rên rỉ. “Giã với biệt đến bao giờ?”) Chuyến đi ấy đã giúp Bertie nhìn thấu cuộc đời ông ngoại cô và nhìn thấu cả lịch sử, điều đó khiến cô vừa phấn khởi vừa có chút hoang mang về sự tồn tại. Ông đã nói với Bertie rằng “Hãy hứa với ông là cháu sẽ tận hưởng trọn vẹn cuộc đời của mình.” Cô có thể làm thế không? Chắc là không.

Cô tắt tiếng của bình luận viên ngớ ngẩn của kênh BBC và nói: “Ngoại có khỏe không, ngoại Ted?” Cô hình dung ông đang nằm trên giường trong cái nhà dưỡng lão khủng khiếp đó, sống phần đời còn lại không mong muốn này. Bertie ước gì cô có thể cứu ông, xông vào đó và mang ông đi, nhưng bây giờ ông đã như ngọn đèn sắp tắt. Ông ngoại cô đã sống ở Fanning Court gần hai mươi năm, thế rồi ông bị ngã và gãy một chân, sau đó còn bị bệnh viêm phổi, căn bệnh đáng lẽ đã dẫn ông đến với một cái chết dễ dàng (“Người bạn của người già.” Viola bâng khuâng nói), nhưng ông đã lay lắt vượt qua nó. (“Ông ấy đúng là người bất tử.” Viola nói.) Ông yếu hơn hẳn so với trước kia, gần như không thể tự lực, và bị đẩy vào vòng tay không đáng tin cậy của nhà dưỡng lão này, Bertie cho rằng rồi ông sẽ chết ở đây. “Mỗi lần mẹ gặp ông, mẹ đều nghĩ đó có thể là lần gặp cuối cùng.” Viola phụ họa.

Ông xứng đáng được ở một nơi tốt hơn Đồi Dương để chuẩn bị từ giã cõi đời. Viola luôn càm ràm “Cái cây dương và ngọn đồi bí ẩn ấy ở đâu thế?”, như thể những vấn đề của nơi này là cái chuyện có liên quan đến ngữ nghĩa học ấy vậy.

Viola tức giận vì chi phí cao chót vót của nhà dưỡng lão. Căn hộ của ông ở Fanning Court đã được bán đi, nhưng toàn bộ số tiền ấy đang bị các chi phí của viện dưỡng lão này “nuốt chửng”.

“Nhưng mẹ có nhiều tiền mà.” Bertie nói.

“Đó không phải là vấn đề. Ông ấy nên quan tâm đến mẹ bằng cách để lại cho mẹ thứ gì đó.” (Đó không phải là VẤN ĐỀ. Ông ấy nên QUAN TÂM đến mẹ bằng cách để lại cho mẹ THỨ GÌ ĐÓ.”) “Một món thừa kế. Đến lúc ông ấy chết chắc chẳng còn lại gì.”

“Chà, đến bản thân ông cũng chẳng còn nữa là.” Bertie nói. “Và trong lòng mẹ thực sự không có ý nghĩ khủng khiếp đến vậy.” Cô nói thêm.

“Có đấy.” Viola nói.

“Ngoại đang xem đám rước bằng thuyền trên ti vi đấy à, ngoại Ted? Đại lễ ấy?” (Ôi Chúa ơi, giọng điệu cô nghe như giọng điệu của một bà mẹ vậy.) “Sunny gửi đến ông tình yêu của anh ấy đấy.” Cô thông báo và ông ngoại cô dường như cười khúc khích (hoặc có lẽ ông đang bị nghẹn), bởi vì ông đã luôn hiểu rõ Sunny hơn bất cứ ai trong số họ. Có thể ngoại Ted đang chầm chậm tiến dần đến chân dốc cuộc đời, nhưng rõ ràng ông vẫn là chính ông, đây là một điều mà mẹ cô dường như không thể hiểu nổi. Thực ra Sunny không gửi tình yêu của anh đến ông, nhưng anh sẽ làm vậy nếu biết cô đang nói chuyện với ông ngoại của họ. Sunny yêu ông. Ông yêu Sunny. Đó là sự sắp đặt phức tạp nhất.

“Ngày mai mẹ sẽ đi Singapore.” Giọng điệu the thé của mẹ cô đột nhiên thế chỗ cho sự im lặng của ông ngoại, Bertie liền rụt mình lại khỏi cái điện thoại.

“Singapore ạ?”

“Một liên hoan văn chương.”

Trước kia giọng điệu của Viola thường tự mãn đến mức đáng xấu hổ khi bà nói đến những hoạt động hào nhoáng của công việc xuất bản. “Một cuộc gặp ở London với một nhà sản xuất phim”, “ăn trưa ở tiệm The Ivy với các nhà xuất bản của mẹ”, “xuất hiện trên sân khấu chính ở Cheltenham”. Nhưng bây giờ giọng bà nghe thảm hại kỳ lạ.

“Tối nay mẹ sẽ ở London.” Bà nói. “Mẹ có thể đưa con đi ăn tối. Ở tiệm Ăn Tối.”

“Con xin lỗi, con bận rồi.” Đó là sự thật nhưng dù không bận Bertie cũng sẽ nói thế. Nghe giọng mẹ cô có vẻ thất vọng, Bertie cảm thấy thật thú vị vì chuyện này hoàn toàn trái ngược với những gì xảy ra trong hơn ba mươi năm qua.

“Mẹ sẽ đến gặp anh Sunny chứ?” Cô hỏi mẹ.

“Sunny ư?”

“Con trai duy nhất của mẹ.”

“Singapore không phải là Ball, nó ở một đất nước hoàn toàn khác.” Viola nói, mặc dù giọng bà nghe có vẻ không chắc chắn. Địa lý chưa bao giờ là điểm mạnh của bà.

“Nhưng chúng chỉ cách nhau một chặng bay ngắn thôi. Khi mẹ đến Singapore là mẹ đã đi được quá nửa quãng đường rồi. Mẹ cũng đâu có bận gì lắm. Mẹ nên đến gặp anh ấy…” Bertie nói thêm. “… Và phải thật khẩn trương lên, bởi vì có thể mẹ không biết điều này nhưng vũ trụ đã bắt đầu sụp đổ rồi. Các dấu hiệu đang có ở khắp nơi. Con phải gác máy đây.”

“Không, con không được gác máy.”

“Dù sao con cũng gác máy đây. Tạm biệt ngoại Ted hộ con nhé!”

Nữ hoàng đã tới Cầu Tháp. Bertie tắt ti vi, cảnh giác trước những dấu hiệu cho thấy vũ trụ đang sụp đổ.

Trong bếp có một chiếc bếp Aga cũ tỏa ra hơi nóng. Cô nghĩ nó khá giống một con thú lớn thân thiện. Bên cạnh chiếc bếp Aga là một cái ghế bành nhỏ phủ một tấm chăn đan bằng kim móc, trên tấm chăn có một con mèo khoang lớn đang say sưa ngủ. Sàn nhà lát đá phiến được “ủ ấm” bởi những tấm thảm nhỏ móc bằng tay. Một chiếc tủ bát đĩa bày những món đồ bằng sành màu xanh và trắng, và trên cái bàn gỗ thông lớn bóng loáng có một bình sứ nhỏ cắm hoa đậu thơm và cúc vạn thọ hái ở ngoài vườn. Bertie đang đứng ở cái bồn rửa Belfast cổ xưa, kiên nhẫn lau khô nồi niêu xoong chảo và xếp chúng lên tấm giá phơi bằng gỗ.

Qua cửa sổ phòng bếp, cô có thể nhìn thấy mảnh vườn. Mảnh vườn này giống như một góc nhỏ của vườn Địa Đàng, với những bông hoa màu đỏ tươi của đậu đũa, những luống dâu tây ngay hàng thẳng lối và những hàng đậu Hà Lan lộn xộn. Một cây táo đứng bên cạnh…

Tiếng còi hụ vang lên làm gián đoạn cơn mơ màng dễ chịu này. Bertie đang trên đường về nhà sau bữa trưa ở tiệm Wolseley với một hãng sản xuất phim. Ở Piccadilly, cô phát hiện dường như có một sự kiện đặc biệt sắp diễn ra. Hoặc một mối nguy nào đó, thật khó để phân biệt được. Cảnh sát và quân đội có mặt ở khắp nơi và các đám đông bu đầy trên vỉa hè. Một đoàn hộ tống bằng mô tô cho thấy đây là một sự kiện quan trọng. Một chiếc ô tô lớn chở người của hoàng gia lướt qua. “Đài Tưởng niệm Binh chủng Máy bay ném bom.” Ai đó giải thích khi cô hỏi. Đương nhiên, hôm nay Nữ hoàng sẽ làm lễ khánh thành Đài Tưởng niệm Binh chủng Máy bay ném bom mới, buổi lễ diễn ra vào thời điểm giữa Đại lễ Kim cương và ngày khai mạc Olympics, một mùa hè yêu nước với những sắc màu đỏ, trắng và xanh đối với London.

Sau đó, qua ti vi (bởi vì đây lại là một sự kiện mà cô xem qua màn hình ti vi), cô theo dõi lễ khánh thành trên bản tin thời sự. Khi nhìn những ông lão già yếu cố gắng kìm nước mắt, cô không thể ngăn được những giọt lệ của mình, vì người nào người nấy trong số họ đều khiến cô nhớ đến ông ngoại cô và cái quá khứ bí ẩn của ông.

Bertie kiên nhẫn chờ đợi cùng những đám đông trên vỉa hè. Binh chủng Máy bay ném bom đã đợi bảy mươi năm, cô cho rằng cô có thể đợi vài phút. Một đội máy bay chiến đấu Tornado gầm rú phía trên đầu, ồn ào phấn khích, theo sau là một chiếc Lancaster đơn độc thả xuống khắp London những thứ chứa trong khoang chứa bom của nó. Đó là những bông mỹ nhân thảo đang nở rộ, điểm sắc đỏ trên bầu trời mùa hè trong xanh.

Bertie đang trên đường đi làm về thì Viola gọi điện. “Họ vời mẹ con mình đến.” Bà nói với giọng trang trọng thái quá.

“Vời ạ?”

“Gọi đến. Nhà dưỡng lão.” Viola nói. Giọng bà có vẻ kích động. Bà yêu sự kịch tính, miễn là nó không có nguy cơ ảnh hưởng xấu đến bà.

“Ngoại Ted ạ?” Bertie nói, đột nhiên hoảng hốt. “Chuyện gì xảy ra thế mẹ?”

“Chà...” Viola nói, như thể sắp bắt đầu kể một câu chuyện ly kỳ, trong khi thực tế những gì xảy ra chỉ là: Tối qua Teddy đã đi ngủ và sáng nay người ta gọi mãi mà ông không tỉnh dậy. “Họ nói chúng ta phải đến đó càng sớm càng tốt, nhưng sáng mai mẹ mới bắt được một chuyến bay. Đến tối khuya ngày mai mẹ mới về tới York được.”

“Con sẽ lái xe tới đó ngay.” Bertie nói.

Bertie nghĩ, người được vời đi không phải là họ, mà là ông ngoại cô. Cuối cùng thì các thiên thần đã gọi tên ông.

“Họ lâu la thật đấy.” Viola nói.

Chu thich

[239] Một thị trấn trên đảo Ball ở Indonesia.

[240] Lời chào bằng tiếng Phạn của người Ấn Độ.

[241] Tư thế ngồi bắt tréo chân có nguồn gốc từ thực hành thiền định của Ấn Độ cổ đại, trong đó mỗi bàn chân được đặt trên đùi của chân bên kia.

[242] Một phát biểu triết học của René Descartes, sau này trở thành yếu tố nền tảng cho triết học phương Tây.

[243] Tu sĩ Phật giáo.

[244] Một trong những vị thánh được sùng kính nhất của người Anh. Ông được bất tử hóa qua câu chuyện Thánh George và con rồng, và là một trong mười bốn vị thánh trợ giúp chống lại các loại bệnh tật.

[245] Cô gái bị làm vật hiến tế cho con rồng trong câu chuyện Thánh George và con rồng.

[246] Câu này và câu trên của Ursula là những câu hát trong vở kịch Dông tố của William Shakespeare.

[247] Tên gọi khác của Nữ hoàng Elizabeth I.

[248] Vương hậu của bộ lạc Iceni ở nước Anh cổ đại. Bà đã lãnh đạo một cuộc nổi dậy để chống lại sự chiếm đóng của Đế quốc La Mã vào năm 60 hoặc 61.