← Quay lại trang sách

Chương 16 2012-Chuyến bay cuối cùng

Đạt ma

“Có một truyền thuyết Hindu kể rằng, ngày xửa ngày xưa, tất cả con người đều là thần, nhưng họ đã lạm dụng thần lực của mình. Brahma, đấng tạo hóa, kết luận rằng con người đã đánh mất quyền sử dụng thần lực và quyết định tước nó đi. Vì muốn giấu nó ở một nơi mà con người sẽ không thể tìm thấy, ngài triệu tập một hội đồng các vị thần để cho ngài lời khuyên. Có vị gợi ý chôn nó vào sâu trong lòng đất, có vị lại khuyên thả nó xuống đáy biển, lại có vị đề nghị đặt nó lên đỉnh ngọn núi cao nhất, nhưng Brahma nói rằng nhân loại rất thông minh, họ sẽ đào sâu xuống lòng đất, giăng lưới vét đáy biển và trèo lên từng ngọn núi để cố gắng tìm lại nó.

Các vị thần đang định bỏ cuộc thì Brahma nói: “Ta biết chúng ta sẽ giấu thần lực của con người ở đâu rồi, chúng ta sẽ giấu nó trong người của anh ta. Anh ta sẽ lùng sục cả thế giới nhưng chẳng bao giờ nhìn vào bên trong mình, nên anh ta sẽ chẳng thể tìm thấy thứ gì ở trong đó.”

Viola không thực sự lắng nghe. Sunny thường kết thúc những giờ học yoga của mình bằng thứ mà bà nghĩ là một “bài thuyết pháp nhỏ”. Những lời răn dạy uyên thâm từ người đã ngộ đạo, được đúc rút từ khắp mọi nơi - đạo Hindu, Hồi giáo mật tông, đạo Phật, thậm chí cả đạo Thiên Chúa. Bà đã biết được một điều rằng người Ball theo đạo Hindu. Trước kia Viola cứ tưởng lầm rằng họ theo đạo Phật. “Tất cả chúng ta đều là Phật.” Sunny nói.

“Nghe cứ như mấy lời dạy đời trong sách vở.” Viola viết trong một bức email gửi cho Bertie. “… Nhưng thực sự những bài thuyết pháp ấy phần nào giúp người ta nâng cao tinh thần. Sunny sẽ là một mục sư giỏi.” Bà mẹ nhu mì mới mẻ này là ai vậy? Bertie tự hỏi.

Sunny dạy yoga ở một nơi gọi là Con Đường Sáng ở Ubud[239]. Ban đầu, Viola tránh né các giờ học ở Con Đường Sáng. Bà đang ở một khách sạn “nghỉ dưỡng” cực kì đắt đỏ cách nơi này nửa tiếng lái xe. Ở đó, họ có giáo viên dạy yoga riêng - và các lớp học yoga cá nhân, một thầy một trò ấy diễn ra ở một địa điểm được gọi là “yoga bale”, đó là một loại đình tạ thông thoáng dễ chịu được xây bằng gỗ tếch bóng loáng, nằm giữa những rặng cây, nơi tiếng chim hót và gù nghe thật lạ tai, còn lũ côn trùng kêu nghe như tiếng đồ chơi vặn dây cót.

Ngược lại, ở Con Đường Sáng, các giờ học diễn ra tại một căn phòng lớn ở tầng trên, nóng bức và ngột ngạt, ngay cả khi các cửa sổ đều mở toang để đón gió. Nó khá đơn sơ hoặc là sản phẩm của một “nhà tu khổ hạnh giản dị”, tùy theo cách nhìn nhận của bạn - của Viola hay trang web của Con Đường Sáng.

Tuy phòng ốc nhỏ bé nhưng các giờ học lúc nào cũng rất đông, học viên chủ yếu là phụ nữ - những cô gái trẻ người Úc khỏe khoắn và các bà trung niên người Mỹ. Hầu hết những bà trung niên người Mỹ ấy đều có vẻ đang làm cái việc mà Bertie gọi là “cái chuyện ăn - cầu nguyện - yêu nhảm nhí”.

Sunny được cấp bằng giáo viên yoga ở Ấn Độ từ nhiều năm trước và hiện anh đang dạy yoga ở Ball. Anh rõ ràng là một “giáo viên đáng kính trên phạm vi toàn thế giới”. Anh thường tới Mỹ và Úc để chủ trì những khóa tu tập luôn được đăng ký kín chỗ từ trước. Viola cảm thấy dường như ngày nay người người nhà nhà đều tham gia những khóa tu tập như vậy.

Sunny có mặt ở khắp nơi trên Internet, nếu ta biết phải tìm ở đâu - nếu ta biết phải tìm kiếm ai - bởi vì mặc dù bạn sẽ nghĩ rằng Sun (hoặc thậm chí Sunny) là cái tên phù hợp với một người làm cái công việc mà anh đang làm, nhưng mọi người lại biết đến anh với cái tên “Ed”. “Sun Edward Todd.” Anh nói lý với Viola. “Đó là tên con.” Và đó chỉ là một phần nhỏ trong sự biến đổi của anh. Thân hình của một vũ công, cái đầu cạo trọc, những hình xăm phương Đông, chất giọng Anh - Úc, tất cả những điều đó hoàn toàn khiến bà bất ngờ. Một sự lột xác. Và phụ nữ yêu anh! Họ giống như những cổ động viên nhiệt tình, đặc biệt là mấy bà ăn - cầu nguyện - yêu kia. Viola đã không gặp Sunny gần mười năm, và trong thời gian đó anh đã biến thành một người hoàn thiện. (“Có lẽ hai việc đó không phải là không liên quan đến nhau.” Bertie nói.)

“Cảm ơn vì đã đến học. Namaste[240].” Sunny nói, chắp tay trước ngực và cúi đầu. Rất nhiều tiếng cảm ơn và Namaste lầm rầm đáp lại. (Họ rất nghiêm túc!) Sunny đang ngồi ở tư thế liên hoa tọa[241] bèn nhảy bật dậy với sự thuần thục đáng kinh ngạc. Viola khó nhọc đứng dậy, dù bà không ngồi ở tư thế liên hoa tọa mà chỉ ngồi khoanh chân, nhưng đó là kiểu ngồi gò bó, cứng ngắc, khó chịu, nhắc bà nhớ đến những buổi sinh hoạt toàn trường.

Sunny sống trong một ngôi làng khá gần cái khách sạn vô cùng đắt đỏ của Viola, nhưng có vẻ như anh không có ý định mời Viola tới nhà anh, vì thế bà miễn cưỡng quyết định rằng cách duy nhất để bà được ở bên anh là tham gia các lớp học của anh, chịu đựng sự ngưỡng mộ ngớ ngẩn của những “học viên” khác dành cho con trai bà - anh có vẻ rất thờ ơ với sự ngưỡng mộ ấy - chưa kể những thử thách gớm ghiếc của lớp học đối với cơ thể. Dĩ nhiên bà đã từng tập yoga - có ai chưa từng tập chứ? - nhưng địa điểm tập thường là những hội trường trống hoác của nhà thờ hoặc các trung tâm cộng đồng, và bà chỉ phải tập một số động tác căng duỗi thận trọng rồi nằm xuống và “mường tượng” rằng mình đang ở một nơi “an toàn và bình yên”. Điều này luôn là một thử thách đối với Viola, trong khi những người khác (phụ nữ, luôn luôn là phụ nữ) đang nằm trên một bãi biển nhiệt đới ở đâu đó hoặc trên một cái ghế sưởi nắng ở trong vườn, trí tưởng tượng của Viola lại cuống quýt chạy quanh để tìm kiếm một thứ gì đó - bất cứ thứ gì - có thể được coi là bình yên và an toàn.

Khi Sunny kết thúc bài thuyết pháp của đạo Hindu và tất cả bọn họ đều đã chào Namaste với nhau xong, người phụ nữ Mỹ chiếm tấm thảm tập bên cạnh Viola (“Shirlee với hai chữ “e””) quay sang bà và nói: “Ed là một giáo viên tuyệt vời, đúng không?” Nó vốn là thằng bé không thể học nổi bất cứ thứ gì, Viola nghĩ. “Tôi là mẹ nó.” Bà nói. Đã bao lâu rồi Viola không nói mấy từ đó? Có lẽ là từ hồi Sunny còn đi học.

- Ồ -

Ký ức khủng khiếp về căn phòng cấp cứu của bệnh viện St James ở Leeds đột ngột ùa về trong bà. Bây giờ Sunny vừa mới bắt đầu đi học cao đẳng và khi bệnh viện gọi cho bà, bà đã nghĩ hẳn là anh bị sốc thuốc, nhưng hóa ra người ta đã phát hiện anh đang đi lang thang trên phố, máu từ cổ tay chảy xuống tong tỏng vì anh đã cố cắt cổ tay tự tử nhưng không thành. Bà đã hét lên với bác sĩ điều trị cho anh rằng “Tôi là mẹ nó!”, khi ông ta nói với bà là tốt hơn hết Sunny không nên gặp ai “vào lúc này”.

“Tại sao?” Bà đã hỏi Sunny khi bà cuối cùng cũng được phép vào phòng bệnh của anh. Tại sao con trai bà lại làm thế? Câu trả lời là cái nhún vai khẽ khàng như thường lệ. “Con cũng không biết nữa.” Khi bà thúc ép, anh trả lời: “Bởi vì cuộc đời con như một đống phân chăng?”

Con trai bà có còn vết sẹo đó không? Hay nó đã bị giấu dưới hình xăm con rồng cầu kỳ đang uốn mình trên cánh tay Sunny?

Shirlee với hai chữ “e” cười nói: “Tôi không nghĩ cậu ấy có mẹ.”

“Ai chả có mẹ chứ.”

“Chúa thì không.” Shirlee nói.

“Ngay cả Chúa cũng có mẹ.” Viola nói. Có lẽ việc có một người mẹ như bà chính là khởi nguồn cho mọi bất hạnh của anh.

Đương nhiên, nếu chỉ quan sát thì sẽ chẳng ai biết họ là mẹ con. Sunny gọi bà là “Viola”, còn bà chỉ nói trống không với anh. Anh đối xử với bà hệt như với tất cả những người khác trong lớp, với một sự quan tâm khách sáo. (“Viola, người có bị viêm khớp gối không?” Không, bà không bị, cảm ơn rất nhiều.)

“Bất ngờ không?” Bà đã nói khi cuối cùng cũng tìm được anh.

“Có ạ.” Anh nói. Họ đã ôm nhau một cách thận trọng, như thể một người trong số họ có thể có một con dao.

Chỉ có Bertie và Sunny biết bà ở đâu. Bà không buồn thông báo với những người ở Đồi Dương rằng bà đang ở một châu lục khác, cách xa người cha ốm yếu bệnh tật. Nếu họ cần liên lạc với bà, họ có thể gọi điện cho bà.

Bà đã bước ra khỏi cuộc đời của chính mình. Nếu bà biết việc này dễ dàng thế nào, bà đã làm thế từ lâu rồi. Bà đã gửi email tới người đại diện của mình, đề nghị cô ta nói với mọi người rằng bà đang phải phẫu thuật (đúng vậy, bà đang tẩy não mình), và giúp bà gửi lời xin lỗi đến tất cả mọi người. Bà không muốn người ta nghĩ bà đã bỏ trốn, biến mất, giống như nữ nhà văn Agatha Christie. Bà không muốn người ta tìm kiếm bà. Không, điều đó không đúng - bà không muốn người ta tìm ra bà.

Cái khách sạn cực kì đắt đỏ mà Viola đang ở được cải tạo lại từ một điền trang cũ, nó nằm trên đỉnh của một ngọn đèo, từ nơi này có thể nhìn thấy những khung cảnh tuyệt đẹp dọc theo con sông nằm ở sâu bên dưới. Ở đây có nhân viên bảo vệ cùng quản gia riêng và hoàn toàn chẳng có vấn đề gì phiền phức. Bà đã thuê riêng một tòa biệt thự - tòa lớn nhất, đắt nhất. Nó quá rộng, có thể chứa được vài gia đình, nhưng bà thích sự biệt lập. Khi thức dậy vào buổi sáng, bà có thể pha cà phê bằng máy pha cà phê espresso sành điệu trong “phòng khách” (chỗ nào ở đây chả dành cho khách chứ?), rồi nhấm nháp nó trong lúc bà ngắm nhìn sương mù dâng lên từ thung lũng bên dưới, và lắng nghe lũ chim gọi nhau bên kia cánh rừng. Sau đó sẽ có người mang đến cho bà bữa sáng ngon lành, rồi bà sẽ tới spa để mát xa hoặc đi xuống những bậc đá cổ xưa dẫn tới “dòng sông thiêng”. Bà không rõ tại sao nó lại thiêng. Sunny nói tất cả các dòng sông đều thiêng cả. Dường như mọi thứ đều như vậy.

“Kể cả phân chó ư?”

“Vâng, kể cả phân chó.”

Bà đang cóp nhặt một danh sách những thứ không thể được coi là thiêng liêng. Hiroshima, những cuộc thảm sát trong các cuộc thánh chiến của Hồi giáo, những con mèo con trong lò vi sóng. Sunny nói đó là hành động, không phải sự vật. Nhưng chẳng phải hành động là do con người tạo ra, mà con người thì thiêng liêng sao? Hay chỉ có những cái cây và những dòng sông là thiêng thôi?

Vào buổi chiều, bà đi ngủ (lâu đến đáng lo ngại) rồi tỉnh dậy và đi theo xe của khách sạn đến Ubud, tham gia lớp học của Sunny. Anh thậm chí còn chẳng dành chỗ cho bà trên sàn nhà trải kín những tấm thảm tập, do đó, nếu tới muộn, bà sẽ chẳng có chỗ và phải ngồi trong cái văn phòng bé xíu, đọc những cuốn sách mà họ có trong một “thư viện” nhỏ (nghĩa là cái giá sách). Khỏi cần phải nói, tất cả các cuốn sách đó đều có nội dung liên quan đến tâm linh. Trên giá sách có một tấm bảng viết tay với dòng chữ: “Bạn thân mến, làm ơn để những cuốn sách này lại trong tình trạng mà bạn tìm thấy chúng.” Điều này thật kỳ cục vì chẳng thể có cuốn sách nào được để lại trong tình trạng mà ta tìm thấy nó cả, bởi vì mỗi lần có ai đó đọc nó là tình trạng của nó đã thay đổi rồi.

Nếu bà kiếm được một chỗ để tập, bà sẽ tập trong hai tiếng theo thời lượng của lớp học (bà coi điều này như một sự trừng phạt), rồi sau đó tài xế sẽ chở bà về khách sạn và bà sẽ ngắm nhìn gia đình khỉ tối nào cũng ra khỏi rừng để chơi đùa trên các bức tường - của điền trang cũ - bao quanh tòa biệt thự của bà. Bà cũng sẽ ăn tối, đương nhiên rồi. Việc “ăn” thì dễ dàng thôi. Việc cầu nguyện và yêu mới khó.

Bà đã tới lớp dạy thiền vào buổi sáng sớm của Sunny một, hai lần, lớp này đỡ đông hơn lớp yoga nhưng lại khó hơn nhiều.

“Đừng nghĩ gì cả, Viola.” Sunny nói.

Làm sao người ta có thể không nghĩ được chứ?

“Cũng đừng không nghĩ gì.”

“Tôi tư duy, nên tôi tồn tại[242].” Viola nói, khăng khăng tuân thủ tư tưởng đã lỗi thời của Descartes. Nếu bà ngừng suy nghĩ, bà có thể ngừng tồn tại.

“Cứ buông trôi.” Sunny nói.

Buông trôi ư? Buông trôi cái gì? Bà có bám vào thứ gì đâu chứ.

Và rồi! Dòng sông chảy, lũ chim gọi bầy, lũ côn trùng giống như đồ chơi vặn dây cót, lũ khỉ kêu khọt khẹt, tất cả cuối cùng đã có tác dụng và tâm trí bà ngừng hoạt động, đó là sự khuây khỏa khó tin nhất.

Trong xe, trên đường tới lớp yoga của Sunny, điện thoại của bà reo vang khiến bà kinh ngạc. Là số của nhà dưỡng lão.

Sắp kết thúc rồi. Bà đã đợi cha bà chết để cuộc đời bà có thể bắt đầu, nhưng bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể nói với bà rằng điều đó sẽ không xảy ra. Dù sao đi nữa, bà cũng biết điều đó. Thực vậy.

“Đức Phật hỏi một vị sa môn[243]: “Cuộc đời con người kéo dài bao lâu?” Ông ta đáp: “Một vài ngày.” Đức Phật nói: “Ngươi chưa hiểu đạo rồi.” Ngài hỏi một vị sa môn khác: “Cuộc đời con người kéo dài bao lâu?” Câu trả lời là: “Một bữa ăn.” Đức Phật nói: “Ngươi chưa hiểu đạo rồi.” Ngài hỏi một vị sa môn khác: “Cuộc đời con người kéo dài bao lâu?” Ông ta đáp: “Một hơi thở.” Đức Phật nói: “Tốt lắm. Ngươi đã hiểu đạo.”

Những lời lẽ ấy bao trùm lên Viola. Bà không biết chúng có ý nghĩa gì. Bà vẫn tham gia lớp học của Sunny như thường lệ. Bà thấy chẳng có lý do gì để không làm vậy. Sáng mai bà mới có thể lên một chiếc máy bay để trở về Anh. Bà đợi cho đến khi Sunny chào Namaste với tất cả mọi người, bầu đoàn ăn - cầu nguyện - yêu tỏ vẻ thành kính như thể anh đang ban phúc cho họ trước khi họ miễn cưỡng lũ lượt kéo nhau ra ngoài, bước vào bầu không khí nóng ẩm của buổi tối. Viola vẫn ở lại.

“Viola?” Sunny nói và mỉm cười với bà vẻ quan hoài như thể bà là một người tàn tật.

“Nhà dưỡng lão gọi điện.” Bà nói. “Ông ngoại con sắp mất.”

“Ngoại Ted?” Sunny cau mày, cắn môi, và trong một thoáng, bà nhìn thấy bóng dáng của Sunny lúc nhỏ. “Mẹ sắp về à?”

“Ừ. Nhưng mẹ mong Bertie sẽ tới đó trước mẹ. Con có về không?”

“Không.” Sunny nói.

Vào lúc này, Viola muốn nói rất nhiều điều. Bà đã nghĩ đến những điều đó trong lúc ngắm nhìn cánh rừng, dòng sông thiêng, lũ chim, trong số đó, “Mẹ xin lỗi” là điều bà muốn nói trước nhất, nhưng thay vì thế, bà lại kể với anh về giấc mơ của bà.

“Và rồi con quay sang mẹ, mỉm cười và nói: “Chúng ta đã làm được rồi, mẹ ơi! Tất cả mọi người đã lên tàu.”

“Con không nghĩ điểm đặc biệt ở giấc mơ này là con tàu ấy.”

“Ừ.” Viola đồng ý. “Điểm đặc biệt chính là cảm giác của mẹ đối với con khi con nói chuyện với mẹ.”

“Cảm giác gì vậy?”

“Ngập tràn tình yêu thương. Dành cho con.”

Ồ, Viola. Cuối cùng thì…

Bertie đã mang theo một cuốn Biên niên sử cuối cùng của Barset và ngồi bên giường của Teddy, đọc cho ông nghe. Cô biết đây là một trong những cuốn sách ông yêu thích, và cô cho rằng dù ông có hiểu từng câu từng chữ hay không cũng không quan trọng, bởi vì ông có thể được an ủi khi nghe những nhịp điệu quen thuộc trong lối hành văn của Trollope.

Ông phát ra một âm thanh nhỏ, không phải lời nói, mà là thứ gì đó, như thể ông đang mơ hồ. Cô đặt cuốn sách xuống giường và nắm lấy bàn tay yếu ớt, co quắp của ông. “Cháu là Bertie Moon đây, ngoại ơi.” Cô nói. Thịt trên tay ông nhão như mỡ chảy và các mạch máu nổi rõ giống như những sợi dây thừng màu xanh. Bàn tay kia của ông giơ thẳng lên và ông nhẹ nhàng vẫy nó như thể đang đề nghị được thứ lỗi. Cô cho rằng đúng là ông đang đề nghị được thứ lỗi thật.

Ông đã từng là một đứa trẻ sơ sinh, cô nghĩ. Non nớt và hoàn hảo, được ôm ấp, nâng niu trong vòng tay của mẹ ông. Sylvie bí ẩn. Giờ ông giống như một chiếc vỏ khô nhẹ bẫng, chực chờ bị cuốn đi. Đôi mắt ông mở he hé, mờ đục, giống như một chú chó già, miệng ông trở nên rúm ró vì đã đạt đến giới hạn của tuổi tác, cứ mở ra rồi lại khép vào như một con cá bị bắt lên khỏi mặt nước. Bertie có thể cảm thấy một sự rung động liên tục chạy khắp người ông, một dòng điện, một luồng sinh khí yếu ớt. Hoặc có lẽ là cái chết. Năng lượng đang tụ lại quanh ông, không khí đầy tĩnh điện.

Teddy đang vật lộn với chiếc F-Fox, cố gắng giữ nó thăng bằng và bay theo một đường thẳng. Nó muốn bỏ cuộc. Cậu lính cắt bom - Clifford - xuất hiện bên cạnh anh và nói lửa đã ngăn cậu ta tới chỗ xạ thủ ở tháp pháo đuôi. Teddy chẳng biết gì về cậu ta ngoại trừ việc cậu ta có vẻ hoảng loạn, và Teddy nghĩ cậu ta thật dũng cảm khi tới giúp cậu xạ thủ ở tháp pháo đuôi - Charlie người mà anh cũng chẳng hay biết gì. Điều duy nhất Teddy có thể nghĩ đến vào khoảnh khắc đó là anh phải cứu những chàng trai này. Anh bảo Clifford hãy nhảy xuống, nhưng cậu ta đã bị mất dù và Teddy nói: “Lấy dù của tôi đi. Lấy đi, nhanh lên, nhảy đi!” Clifford chần chừ trong một thoáng nhưng vẫn tuân lệnh đội trưởng, cầm lấy cái dù và biến mất qua cửa thoát hiểm.

Anh là Thánh George[244] và nước Anh là nàng Cleolinda[245], nhưng con rồng đang chế ngự anh, thiêu đốt anh bằng ngọn lửa phun ra từ hơi thở của nó. Đằng sau anh là một tấm màn lửa, anh có thể cảm thấy chúng đang bắt đầu làm cháy sém chỗ ngồi của anh. Hệ thống liên lạc nội bộ không còn hoạt động nữa, và anh không biết liệu cậu xạ thủ ở tháp pháo đuôi đã ra ngoài hay chưa, vì vậy anh tiếp tục vật lộn với chiếc F-Fox.

Căn phòng chỉ được thắp sáng bằng một ngọn đèn lờ mờ duy nhất. Đã gần đến nửa đêm và nhà dưỡng lão chìm trong giấc ngủ, chỉ thi thoảng vang lên một tiếng thét sợ hãi nghe như tiếng một con thú nhỏ bị tấn công.

Ông ngoại cô đang chết vì tuổi già, Bertie nghĩ. Bị kiệt sức. Không phải ung thư hay đau tim, hay tai nạn, hay thiên tai. Tuổi già có vẻ là một cách ra đi khó khăn. Có những khoảng trống dài giữa từng hơi thở khò khè của ông. Thi thoảng ông có vẻ hoảng loạn, nói gì đó và Bertie siết chặt tay ông, vuốt má ông, thì thầm với ông về rừng hoa chuông xanh mà cô chưa bao giờ nhìn thấy cùng những người cô chưa bao giờ gặp sẽ đang đợi ông. Hugh và Sylvie, Nancy và Ursula, về lũ chó, về những ngày dài ngập nắng. Đó có phải là nơi mà ông gắn bó không? Ông gắn bó với những ngày dài chan hòa ánh nắng ở Góc Cáo? Hay bóng tối vĩnh cửu? Hay hư vô? Bởi vì ngay cả bóng tối cũng còn có tính chất riêng, nhưng hư vô thực sự chẳng có gì cả, chỉ là hư vô mà thôi. Các đội quân thiên thần rực rỡ của Spenser có đang đợi để đón chào ông? Liệu tất cả các bí ẩn có sắp được hé lộ? Chúng là những câu hỏi chưa từng có ai trả lời và sẽ không có ai trả lời.

Cô trao cho ông những mẩu vụn vặt từ cái túi đựng những câu thơ thú vị của cô, bởi vì bây giờ tất cả những gì còn lại chỉ có ngôn từ mà thôi. Có lẽ ông có thể dùng chúng để trả cho người chèo đò. Dẫu tôi đã du ngoạn qua nhiều lãnh địa vàng. Thế giới được tiếp thêm năng lượng bằng sự oai nghiêm của Chúa. Cha người nằm dưới đáy biển sâu. Hỡi cừu con, ai tạo ra ngươi vậy? Dẫu cả đống lá úa nằm rải rác dưới chân. Điều tốt đẹp nhất trong cuộc đời một người đàn ông tốt là những hành động yêu thương, tử tế nhỏ nhặt, vô danh, không được ai nhớ đến. Xa hơn và xa hơn nữa, tất cả lũ chim ở Oxfordshire và Gloucestershire.

Không gian lung linh xao động. Thời gian thu hẹp thành đầu đinh ghim. Chuyện đó sắp xảy ra. Bởi Chúa thánh thần bay lượn trên thế gian/ Che chở với bộ ngực ấm và đôi cánh sáng!

Chỉ còn vài khoảnh khắc, Teddy nghĩ. Vài nhịp tim. Cuộc sống chính là như vậy. Nhịp tim này nối tiếp nhịp tim khác. Hơi thở này nối tiếp hơi thở khác. Khoảnh khắc này nối tiếp khoảnh khắc khác cho đến khoảnh khắc cuối cùng. Cuộc sống mong manh như nhịp tim của một chú chim, sớm nở tối tàn như những bông hoa chuông xanh trong rừng. Ông nhận ra rằng điều đó không phải là vấn đề gì cả, ông không bận tâm, ông sẽ đi tới nơi hàng triệu người đã tới trước đó và hàng triệu người sẽ tới sau này. Ông có chung số phận với rất nhiều người.

Và bây giờ. Khoảnh khắc này. Khoảnh khắc này là vô tận. Ông là một phần của sự vô tận ấy. Cây, đá và nước. Mặc trời mọc và hươu chạy. Ngay lúc này.

Tiếng chiếc kèm trumpet cất lên kết thúc cuộc vui. Cái kết cấu không nền móng bắt đầu tan rã. Chất liệu tạo ra giấc mơ bắt đầu nứt nẻ và rách toạc, các bức tường của một ngọn tháp đội mây rung chuyển. Những cơn mưa bụi bắt đầu trút xuống. Lũ chim vọt lên tầng không, vỗ cánh bay đi.

Trong bóng tối trước khi bình minh ló dạng, Sunny đang ngồi thiền trên hàng hiên của căn phòng anh thuê. Anh sắp chuyển đi. Cô bạn gái người Úc của anh, cũng là một giáo viên yoga, đang mang thai sáu tháng và đã trở về Sydney. Sunny sẽ tới đó với cô trong vài tuần nữa. Sáng nay anh sẽ đi cùng Viola tới sân bay để tiễn bà lên máy bay. Trước khi nói lời tạm biệt, anh sẽ tặng bà món quà là thông tin này để bà mang về nhà. Món quà khác dành cho bà sẽ là con thỏ rừng bằng bạc nhỏ bé mà anh đã giữ bao nhiêu năm qua. Bất chấp mọi khó khăn. “Để lấy may. Để che chở.” Cô bạn gái người Úc của anh chính là Phật. Cô đang mang Phật trong mình.

Anh đột ngột hít vào một hơi như thể anh đang ngủ và đột nhiên bừng tỉnh.

Một vết nứt đáng lo ngại xuất hiện trong tòa cung điện lộng lẫy. Bức tường đầu tiên rung chuyển và vỡ vụn. Bức tường thứ hai oằn xuống và sụp đổ, những hòn đá rơi rào rào xuống mặt đất.

Viola đang uống cà phê, chờ bình minh đến, đợi màn sương đang bao trùm dòng sông vén lên và lũ chim bắt đầu gọi bầy. Bà đang nghĩ về mẹ mình. Bà đang nghĩ về các con mình. Bà đang nghĩ về cha mình. Nỗi đau của tình yêu tràn ngập lòng bà. Lũ chim bắt đầu bản hòa ca lúc sớm mai. Chuyện gì đó đang xảy ra. Thứ gì đó đang thay đổi. Trong một thoáng, nỗi hoảng loạn siết chặt lấy bà. Đừng sợ, bà nghĩ. Và bà không thấy sợ.

Bức tường thứ ba đổ sầm xuống, bụi đất bốc lên mù mịt.

Bertie đang nắm tay ông ngoại, giúp ông cảm nhận tình yêu của cô, bởi vì chẳng phải đó là thứ mà tất cả mọi người sẽ muốn cảm nhận trong giây phút cuối cùng sao? Cô ghé lại và hôn lên gò má hom hem của ông. Một chuyện gì đó khủng khiếp đang xảy ra, một chuyện thảm khốc. Cô sẽ là chứng nhân của nó. Thời gian bắt đầu chao nghiêng. Ngay lúc này, cô nghĩ.

Bức tường thứ tư của ngôi đền uy nghi đổ xuống một cách lặng lẽ.

Anh không còn vật lộn với chiếc F-Fox nữa. Chiếc máy bay đã trúng phải “vết thương chí mạng”, như một chú chim bị bắn rơi khỏi bầu trời. A! Đôi cánh sáng. Anh nghe thấy những lời đó khá rõ ràng như thể ai đó trong buồng lái vừa nói với anh. Anh đã đưa chiếc máy bay tới bờ biển. Bên dưới anh, ánh trăng lấp lánh trên mặt biển Bắc như cả nghìn viên kim cương. Anh cam chịu chấp nhận khoảnh khắc này, thời điểm hiện tại này. Tiếng ồn trong máy bay đã ngừng, hơi nóng từ những ngọn lửa đã biến mất. Chỉ có một sự im lặng đẹp đẽ, huyền ảo. Anh nghĩ về cánh rừng và những bông hoa chuông xanh, con cú và con cáo, một đoàn tàu đồ chơi của hãng Hornby lăn bánh quanh sàn phòng ngủ của anh, mùi bánh đang nướng trong lò. Con chim chiền chiện vừa bay vút lên cao vừa cất tiếng hót.

Với Teddy vẫn đang ở bên trong, chiếc F-Fox rơi xuống, như một chùm sáng trong bóng tối, một ngôi sao rực rỡ, một niềm hân hoan, cho đến khi những cơn sóng dập tắt những ngọn lửa. Teddy chìm xuống lòng biển tĩnh mịch, nhập bọn với tất cả chỗ kho báu mờ xỉn đang âm thầm nằm đó, ở độ sâu bốn mươi sải dưới đáy đại dương. Anh biến mất mãi mãi, chỉ có con thỏ rừng bằng bạc nhỏ bé bầu bạn với anh trong bóng tối.

Bức tường thứ năm sụp xuống với một tiếng “rầm” đinh tai và tòa nhà của trí tưởng tượng đổ sập, mang theo cả Viola, Sunny và Bertie. Họ tan vào trong không khí và biến mất. Bụp!

Những cuốn sách mà Viola viết bốc hơi khỏi các giá sách như thể bị phù phép. Dominic Villiers kết hôn với một cô gái đeo ngọc trai, mặc bộ đôi áo len chui cổ và áo len cài cúc, sau đó chết vì rượu. Nancy kết hôn với một luật sư biện hộ vào năm 1950 và có hai con trai. Trong một lần đi khám định kỳ, cô phát hiện mình bị ung thư não và cắt bỏ khối u thành công. Đầu óc cô kém linh hoạt hơn, trí thông minh của cô kém sáng láng hơn, nhưng cô vẫn là Nancy.

Một người đàn ông, một bác sĩ, đứng trên cây cầu Westminster, quay gót rời đi sau khi con thuyền Gloriana của buổi Đại lễ Kim cương chui qua bên dưới gầm cầu. Trong một thoáng, anh nghĩ rằng có ai đó đang đứng bên cạnh anh, nhưng chẳng có ai cả, chỉ có một luồng gió thổi qua. Anh cảm thấy mình vừa đánh mất thứ gì đó nhưng không thể hình dung ra thứ đó có thể là gì. Một giáo viên dạy yoga người Úc ở Ball lo lắng rằng cô sẽ không bao giờ tìm được ai để yêu, không bao giờ có một đứa con. Một bà lão tên là Agnes chết ở nhà dưỡng lão Đồi Dương sau bao năm mơ tưởng đến việc bỏ trốn. Sylvie uống thuốc ngủ quá liều vào ngày Chiến thắng, bà không thể chấp nhận nổi một tương lai không có Teddy. Đứa con trai tuyệt vời nhất của bà.

Trên thế giới, hàng triệu cuộc đời thay đổi vì sự vắng mặt của người chết, nhưng ba thành viên trong tổ bay cuối cùng của Teddy - Clifford - lính cắt bom, Fraser - viên phi công bị thương và Charlie - xạ thủ ở tháp pháo đuôi, đều nhảy dù thành công khỏi chiếc F-Fox và ở trong một trại tù binh chiến tranh trong suốt quãng thời gian còn lại của cuộc chiến. Khi họ trở về, họ đều kết hôn và có con, những khuôn mẫu của tương lai.

Năm mươi lăm nghìn năm trăm bảy mươi ba người chết từ Binh chủng Máy bay Ném bom. Bảy triệu người Đức bị chết, trong đó có năm trăm nghìn người bị giết bởi chiến dịch ném bom của quân Đồng minh. Tổng cộng có sáu mươi triệu người chết trong cuộc Chiến tranh Thế giới thứ Hai, bao gồm cả mười một triệu người bị giết trong cuộc diệt chủng Holocaust. Mười sáu triệu người chết trong Chiến tranh Thế giới thứ Nhất, hơn bốn triệu người chết trong chiến tranh Việt Nam, bốn mươi triệu người chết trong các cuộc chinh phạt của Mông Cổ, ba triệu rưỡi người chết trong Cuộc chiến tranh Trăm năm, bảy triệu người chết trong sự sụp đổ của La Mã, bốn triệu người chết trong các cuộc chiến tranh của Napoleon, hai mươi triệu người chết trong cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc. Vân vân và vân vân, ngược trở về tận thời của vườn Địa Đàng, khi Cain giết Abel.

Tất cả những chú chim chưa bao giờ được sinh ra, tất cả những tiếng hót chưa bao giờ được cất lên và những thứ đại loại như vậy chỉ có thể tồn tại trong trí tưởng tượng.

Và đây là trí tưởng tượng của Teddy.

Chu thich

[249] Hình ảnh người phụ nữ đại diện cho dân tộc Anh.

[250] Nguyên văn là Spaniard, Augustus nghe nhầm thành spaniel, tên của một loại chó.

[251] Trong nguyên tác, Augustus thường nói sai từ.

[252] Augustus nhầm từ conqueror (kẻ chinh phạt) thành conker (quả dẻ ngựa).

[253] Nguyên văn: Domesday, có nghĩa là Địa bạ Anh, được lập theo sắc chỉ của vua William - Nhà chinh phạt vào năm 1805.

[254] Augustus nghe nhầm từ Domesday (Địa bạ) thành Doom’s Day (Ngày phán quyết).

[255] Một loại bánh gồm phần vỏ là những thanh bánh champagne xếp lại thành hình tròn, bên trong là nhân ba tầng gồm bông lan, kem và trái cây tươi xen lẫn.