10. Việt Nam, (2)
Miền Nam của tôi! Ngồi sau Bình Minh, xe chúng tôi vừa qua cầu Tràng Tiền thì mưa thình linh nặng hột rồi xối xả trút xuống như để hả một cơn ấm ức. Gần khách sạn nơi tôi ở, tôi đề nghị Bình Minh ghé lại, vừa trú, vừa mượn thêm một chiếc áo mưa trước khi đi ăn. Ngồi trong phòng khách, chúng tôi đợi cho mưa ngớt nước, nghe tiếng gió rít qua những tàn cây và tiếng sấm động từ xa vọng lại. Bình Minh bất thình lình hỏi: - Như em hiểu thì anh đi di cư vào Nam, rồi du học, nhưng lại ủng hộ miền Bắc. Rồi nghe anh vừa nói, thì miền Bắc có những điều anh không ưng...Tại sao anh...bỏ miền Nam? Trời hỡi, tôi nào đâu có bỏ miền Nam của tôi! Chín năm sống ở Sài Gòn thuở thanh thiếu niên là quãng thời gian tôi lớn lên để biết yêu biết ghét, biết khinh biết trọng, biết hy vọng và bám vào tương lai bằng tất cả nhiệt huyết tuổi trẻ. Chế độ Đệ Nhất Cộng Hoà ‘‘thịnh ” nhất là cho đến năm 1958, sau khi chính quyền Diệm dẹp xong Đại Việt và Quốc Dân Đảng ở miền Trung, rồi Bình Xuyên, Hòa Hảo và Cao Đài trong Nam. Từ chối hiệp thương Nam-Bắc và để dân chúng tự do đi lại với lý do là miền Nam không ký vào HĐ Genève, chính quyền Diệm biết sẽ có chiến tranh nhưng chủ quan cho rằng có thể giữ được miền Nam bằng phương tiện quân sự với hậu thuẫn của Mỹ. về mặt chính trị, chính sách tố cộng và diệt cộng tung ra với những đoàn thể như Thanh Niên Cộng Hòa, Phụ Nữ Liên Đới làm nòng cốt trong dân chúng, ở nông thôn Diệm tổ chức Dân Vệ để giữ an ninh, có trang bị vũ khí thô sơ, nhưng không hiệu quả gì, nên giải pháp là phải gom dân. Lực lượng ‘‘nằm vùng” của miền Bắc, khoảng đâu đó 60,000 người, bị cô lập với chính sách Khu Trù Mật, rồi Ấp Chiến Lược, và sau có nguy cơ bị tiêu diệt với Luật 9/59 đặt Cộng Sản ra ngoài vòng pháp luật. Trong bối cảnh đó, chính quyền Diệm từng bước phô khuôn mặt độc tài. Cố vấn Ngô Đình Nhu, em Diệm, lý thuyết gia của Đảng cần Lao Nhân Vị (CLNV) mượn hai chữ nhân vị của Bertrand Mounier trong phong trào Công giáo Dân chủ Tây phương cấy ghép vào hai chữ cần lao. Hai chữ này nghe mang máng như lao động của Đảng Lao Động miền Bắc, thoái thân của Đảng Cộng Sản Đông Dương đã giải tán năm 45 để phát huy sách lược Mặt Trận nhắm kết hợp được mọi thế lực dân tộc chống Pháp. Lý thuyết khập khiễng, nhưng Diệm-Nhu lại dùng Đảng CLNV như bàn đạp chống Cộng. Cuối cùng Đảng CLNV chỉ thành cách tiến thân quan trường của những kẻ qui phục Diệm-Nhu, vừa có tính địa phương, vừa nhuốm mầu sắc tôn giáo, tập trung vào miền Trung và Công giáo. Tập hợp “Bắc di cư”, một thành tố quan trọng của Lực Lượng Quốc Gia và là chỗ dựa ban đầu của nền Đệ Nhất Cộng Hòa mất dần thế đứng. Bà cố vấn Trần Lệ Xuân xuất hiện như bóng ma những Thái Hậu thời phong kiến. Cái nhân đức nổi tiếng của “cụ” Diệm, buồn cười nhất là cụ nhận một số tướng lãnh làm “con nuôi” như Nguyễn Chánh Thi chẳng hạn, trở thành cách cụ điều khiển một quốc gia trong tinh thần gia đình gốc đạo, anh có, em có, em dâu có, với các loại con nuôi chia ra nắm quân những vùng chiến thuật, ai nấy vừa hiến mình phụng sự Chúa, và vừa chống Cộng! Kéo máy chém đi khắp nơi với cái luật 9/59, chính quyền Diệm-Nhu phá tan tành cơ sở Cộng Sản trong Nam, tạo ra phong trào hồi kết ở miền Bắc. Số người miền Nam tập kết năm 55, khoảng 80,000, nóng lòng quay về quê quán là một trong những nhân tố thúc đẩy mở rộng cuộc đấu tranh bằng võ lực. Trận thử lửa với sư đoàn 23 và vụ nổ bom trong căn cứ Biên Hòa bắt đầu một thử thách. Và sau, phong trào Đồng Khởi ở Bến Tre. Năm 60, Mặt Trận Giải Phóng miền Nam được thành lập, với Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ Tịch. Thời gian đó, Diệm-Nhu đã đẩy tính cách “gia đình trị” đến mức khó chấp nhận. Năm sau, cuộc đảo chánh Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông chết sẩy như một cái bào thai còn non tháng, thiếu sửa soạn và hậu thuẫn chính trị ngoại giao. Khi ấy, tôi ở với ông bố nuôi, nhà trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm gần đài phát thanh, nghe tiếng súng nổ ròn rã một chặp rồi theo gia đình lên trú nhà ông Vũ Quốc Thông tránh đạn bay bom nổ. Đó là lần đầu tôi nghe nói đến Mặt Trận Quốc Dân Đoàn Kết chống độc tài ở miền Nam với sự tham gia của nhà văn Nhất Linh, người đã tục bản Văn Hóa Ngày Nay cuối thập niên 50. Bố nuôi tôi thời ấy hợp tác với Bộ Trưởng Trần Chánh Thành, là Tổng Giám Đốc Thông Tin Báo Chí, trách nhiệm một guồng máy khiến nhà tôi tấp nập từ những người làm chính trị cho đến đủ loại văn nghệ sĩ. Sau cuộc đảo chính hụt, ông bị hạ xuống, trở thành Chủ Tịch Hội Đồng Kiểm Duyệt, dĩ nhiên vẫn là một vai trò quan trọng trong bộ máy tuyên truyền chống Cộng. Không hiểu thế nào mà bố nuôi tôi, kín tiếng với những đứa con đẻ, nhưng với tôi, đứa con nuôi, lại thỉnh thoảng gọi lên, nói cho nghe đủ điều về đủ mọi nhân vật. Nào Trần Kim Tuyến, Phan Quang Đán. Rồi Nguyễn Đức Quỳnh, Phan Huy Quát... Bên văn nghệ báo chí, Phạm Việt Tuyền, Văn Giang, Lý Thăng, anh Tám Xạc Ne (vốn họ hàng nhà bà Nhu), Phạm Duy, Nguyễn Mạnh Côn...Bố tôi dặn, phải có dũng, nhưng không thể thiếu trí, nhưng trên nền tảng là chữ nhân. Thở dài, ông chán nản, chúng nó chỉ có khôn vặt. Đến nay, chúng nó là những ai tôi cũng chưa kịp hỏi! Người tôi có nhiều gắn bó là nhà thơ Trần Việt Hoài, anh ruột Tuệ Mai, hậu duệ của cụ Á Nam Trần Tuấn Khải. Khi đó, chú Hoài viết Tro Tàn Điện Ngọc, một tập kịch thơ về thời chiến quốc, có Phạm Lãi với Tây Thi. Chú ở một mình trong một căn gác xép gần chợ Phú Nhuận, viết báo kiếm sống, và, có lẽ, tham gia vào cái việc chú gọi lơ lửng là hoạt động xã hội. Khi in cuốn kịch, chú tặng tôi, đề: Còn gì đâu sau dâu biển đổi đời. Sự nghiệp người rã tan như bọt sóng. Họa chăng khi sống cuộc đời hoạt động. Mòn tim gan, moi óc, ráo máu hồng. Ta được nhắp ly rượu mạnh say nồng. Của Đấng Toàn Năng vô hình tặng thưởng.... Mà những kẻ yếu hèn không bao giờ dám hưởng. Ở cái tuổi 15, tôi mơ mộng ‘‘hoạt động”. Và trong bối cảnh ngày nào cũng nghe rằng Diệm-Nhu độc tài, gia đình trị, không đủ tài đức nên thế nào rồi cũng lại thua Cộng Sản. Và lần này mà thua thì đúng là theo Lạc Long quân ra biển Đông chứ đất liền làm gì còn chỗ sống. Rồi cái tuổi trẻ ăm ắp những giấc mơ phiêu lưu bất chấp thực tại, tôi ‘'thoát ly’’(trốn khỏi gia đình đi hoang), đi “hoạt động”, chèo kéo đám hơn tôi dăm ba tuổi thi rớt Trung Học Đệ Nhất Cấp nên phải vào “Dân Vệ”, mua (khi ăn cắp được tiền) hoặc trộm súng ống, đạn dược...(rất cải lương) đợi ngày khởi nghĩa! Chống độc tài đảng trị và gia đình trị nhà Ngô năm sau có thêm một yếu tố thôi thúc là cuộc đàn áp Phật giáo miền Trung của cậu Cẩn, em Diệm, ở Huế. Họ đạo Hố Nai tay dao tay mác lên Sài Gòn. Chùa Từ Đàm bị Cảnh Sát Dã Chiến vây. Rồi chùa Xá Lợi trong Sài Gòn. Tôi bỏ học. Làm cách mạng vừa bận vừa vui, nhưng nhất là vô cùng hồi hộp kiểu truyện trinh thám Đoan Hùng-Lệ Hằng... với hậu quả là tôi trượt khi đi thi Tú Tài toàn phần kỳ 1. “Nhà” cách mạng bị mẹ nuôi đến vây bắt, mang về nhà, nhốt lên gác khóa cửa lại, và bắt bỏ công đèn sách học thi kỳ 2, đỗ và sau đó thi vào dự bị y khoa. Cuộc đàn áp Phật Giáo của chính quyền Diệm-Nhu chớm trổ nét thánh chiến quá khích là bước cáo chung của nền Đệ Nhất Cộng Hòa. Dinh Độc Lập bị không kích. Sinh viên học sinh xuống đuờng. Trí thức lên tiếng phản đối. Người Mỹ bắt đầu buông tay Diệm-Nhu, và mặc dầu tung lực lượng cảnh sát dã chiến, công an mật vụ ra khủng bố, những cuộc chống đối chính quyền ngày một công khai trực diện. Đỉnh cao là ngày hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu trên một ngã ba góc đường Lê Văn Duyệt. Bấy giờ, tôi đã tham gia vào tổ chức những cuộc chặn xe gây tắc giao thông trên hai cây cầu nổi Sài Gòn vào Gia Định, rải truyền đơn, đi vận động học sinh trung học ở các trường như Cao Thắng, Võ Trường Toàn... chống nhà Ngô. Mật vụ lùng, tôi “rút vào bí mật”, trốn về vùng phụ cận, khi Gia Định, khi Thủ Đức... đinh ninh mình “làm cách mạng” cho đến khi bố nuôi tôi tìm được, mắng “Con ạ! mày là đứa manh động, tao đã xin họ nhắm mắt bỏ qua vì con còn vị thành niên. Thôi về mà đi học...”. Diệm đưa nhà văn Nhất Linh ra tòa, định xử tội để dọa dẫm, nhưng Nhất Linh tự sát, trăn trối chỉ để cho lịch sử phán quyết ông. Sinh viên chúng tôi tổ chức đưa đám Nhất Linh, và trên những con đường Sài Gòn, tuổi trẻ đã ngửng cao đầu mặc dầu nước mắt có ứa ra khóc một bậc trí giả đã sống và hành xử đủ trách nhiệm với đất nước và con người. Nhận được một học bổng trong chương tình Colombo đi Canada, tôi bỏ y khoa, ai nấy trong gia đình thở phào bớt đi cái gánh lo một đứa con cứng cổ mà mẹ tôi cứ rên là to đầu mà dại. Phần tôi, đi là cái giấc mơ hải hồ, đồ chừng dăm năm sau sẽ về, có chi mà gọi là sông Dịch để tưởng ra tiếng sáo họ Cao với chén rượu tiễn Kinh Kha. Hai tháng sau khi tôi đặt chân đến Montreal, Diệm và Nhu bị đảo chánh và bắn chết mặc dầu đã xin đầu hàng một Hội đồng quân nhân cách mạng với những Big Minh, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh... Họ là những kẻ đã được Đại Sứ Mỹ Cabot Lodge bật đèn xanh và điệp viên CIA là Conein cho...tiền thưởng. Sự can thiệp của Mỹ vào nội tình Việt Nam rõ như ban ngày, và thời những tướng lãnh nhảy lên bàn độc được khai trương với tiếng giầy đinh chưa nện nhưng đã vang vang khắp phố phường. Thế rồi Hiến Chương Vũng Tàu với tướng Nguyễn Khánh như cọng rơm cháy, và sau, nền Đệ Nhị Cộng Hòa với đủ bầu bán Thượng, Hạ Viện rất Made in USA. Chiến tranh leo thang, với sự hiện diện của quân đội Mỹ và Đồng Minh, rồi tiếp theo đó là sự kiện vịnh Bắc Bộ, đưa đến phong tỏa Hải Phòng, đánh bom miền Bắc tháng 8- 65. Năm sau, vào tháng 3, hai Lữ Đoàn Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng. Thế giới lên tiếng: Đế Quốc Mỹ xâm lược một nước nhỏ ở bên kia Thái Bình Dương! Miền Nam của tôi ơi! Những ngày lạnh lẽo xứ người, tôi mỗi ngày chúi mũi vào những trang báo, đọc toàn những tin tức vấy máu và sực mùi thuốc súng, với những hình ảnh tàn phá man dã, kiểu Trung úy Calley châm lửa đốt mái tranh một căn nhà ở Mỹ Lai. A, oái oăm thay, Mỹ Lai nôm na là (người) Mỹ đến, với súng M.16, tăng M. 113, F 101, C-30... Năm 66, Mỹ phát động chiến dịch ‘‘Tìm và Diệt” với 2 triệu cuộc hành quân, dùng pháo đài bay B 52 đánh bom. Năm 67, đã có 1 triệu tấn bom trút xuống miền Nam, 2 triệu xuống miền Bắc. Rồi chiến dịch Johnson City, trực thảng vận, và pháo 360,000 quả đạn, nhưng cứ 100 quả mới giết được 1 VC! Cũng năm đó, Mỹ dùng tăng đánh vào ‘‘Tam Giác Sắt” với 3 sư đoàn, xe san bằng thị xã Bến Xúc, đẩy 6000 dân vào cảnh màn trời chiếu đất. Thảm họa chùm lên mạng sống những người nông dân chất phác cùng một giòng máu với tôi, một kẻ may mắn ở bên ngoài, ngượng ngùng mỗi lần người bản địa chép miệng, giọng thương xót, xứ anh quả là tội nghiệp với một cuộc chiến chống tên khổng lồ không tim nhưng thừa bom đạn. Với vài người bạn, chúng tôi khai sinh giai phẩm Cảm Thông năm 64-65, ra được ba số, kêu gọi hòa bình, và thế là không chống Cộng, sau bị cái cộng đồng nhỏ bé tẩy chay, ở thành phố Quebec, tờ báo Đất Lạnh chuyển mình với một số du học sinh qua năm 65 nên có dịp chứng kiến sự vong bản của nền Đệ Nhị Cộng Hòa với những tướng lãnh đi giầy đinh, vai đeo sao, lưng giắt súng lục, chửi ĐM và hung hãn hô hào Bắc Tiến! Trong khi đó, Sài Gòn phồn vinh mặc cho số trẻ em bụi đời và các cô gái ăn sương tràn ngập vỉa hè, và OK Salem thành ngôn ngữ Việt, với sự tủi nhục khó mà tránh được ở tuổi chúng tôi, lứa tuổi mới hai mươi, không thể sống mà không tự hào ngước mặt nhìn trời. Thế cho nên chúng tôi đọc 10 điểm của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, đồng thuận vì chỉ mong hết chiến tranh, và hiểu như thế là đồng nghĩa với sự chấm dứt can thiệp của người Mỹ vào Việt Nam. Phần tôi, tôi hoạt động tiếp tay lực lượng thứ ba trong nước, nhắm mục đích lập lại hòa bình, xây dựng một miền Nam trung lập rồi từng bước thống nhất đất nước qua giải pháp chính trị. Nghe tôi kể đến đây, Bình Minh ngạc nhiêcn hởi: - Mặt Trận là do Đảng lập ra mà, các anh không biết thế sao? - Biết là có Đảng, nhưng cũng biết có những người trong Mặt Trận không là cộng sản... Chọn Lựa nào? Đi từ miền Nam, lại thuộc thành phần quốc gia có nòi, di cư và chống cộng, nên bức thư tôi báo cho cha đẻ cũng như bố nuôi tôi biết rằng tôi ủng hộ Lực lượng thứ ba và Mặt Trận Giải Phóng miền Nam có lẽ là vết cắt bật máu đầu tiên giữa tôi và những người ruột thịt. Với cha đẻ, vết cắt đó không bao giờ lành, về nước năm 77, cứ mỗi lần tôi có mặt là cả gia đình tôi bỗng nhiên kiệm lời, có nói với nhau thì nói thầm, và tuy không nói ra nhưng tôi hiểu bấy giờ tôi là những kẻ phía bên kia -mang đủ tính tam vô: vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo - và gia đình tôi nếu không thù thì cũng oán tôi, một thằng Việt Cộng, đúng là nuôi ong tay áo. Ba năm sau, khi thấy mấy cô em uống thuốc ngừa thai trước một chuyến vượt biên không thành, tôi làm một chuyện mà nếu như không làm tôi sẽ chẳng có thể nhìn mình trong gương mà không xấu hổ: tôi bảo lãnh cho tất cả những người trong gia đình đi chính thức để rồi ra mới biết là cái vết cắt kia sẽ ứa máu suốt đời. Với bố nuôi, tôi may mắn hơn. Trước ngày ông qua đời ở Cali, tôi có hỏi, vào địa vị ông năm 46, tôi chắc chắn đã theo kháng chiến, và lý do gì đã khiến ông chống lại miền Bắc. Bố tôi kể, ông được bộ phận công an của chính phủ cụ Hồ chỉ định ở lại Hà Nội để vận động và tổ chức thành phần nhân sĩ quốc gia tiếp tục chống thực dân Pháp trong khi mẹ nuôi tôi và 3 đứa con được đưa lên chiến khu Việt Bắc. Nhưng ông ngạc nhiên khi thấy những người ông liên lạc lôi kéo được cứ lần lượt hoặc bị Tây bắt hoặc bị thủ tiêu mờ ám. Đến khi ông anh con cô con cậu của ông là Nhượng Tống bị sát hại thì ông hiểu ra, rằng có thể ông là một miếng mồi, và chính ông cũng có thể bị thí chốt bất cứ lúc nào. Tìm cách đưa được vợ con về Hà Nội, ông đầu hàng Pháp hòng cứu mạng mình. Từ đó, ông thành đối thủ của những người xưa ông tin là đồng chí. Sau 75, ông không di tản dù có thể đi dễ dàng, ở lại đòi đối chất với Hoàng Đạo, người chịu trách nhiệm liên lạc với ông nhưng đã tìm cách hại ông, khi đó đã là một Thiếu Tướng công an tăm tiếng. Chính ông Trường Chinh nhắn qua bà Vũ Đình Hoè bảo ông đi đi, đối chất mà làm gì, và Trần Bạch Đằng ở Sài Gòn làm thủ tục cho ông lên đường qua Pháp một cách chính thức năm 80. Ông bảo tôi, con ạ, bố nào có được lựa chọn! Nhưng bố hiểu cái động cơ đã đưa con đến những lựa chọn của con. Rồi ông chép miệng, thủng thỉnh đọc, đã mang lấy nghiệp vào thân, thì đừng trách oán Trời gần Trời xa... Tôi vẫn nghĩ, cái thế của những người như tôi thật mà nói không có chọn lựa nào khác là mong muốn hòa bình, chống mạnh hiếp yếu, và hy vọng góp phần xây một xã hội công bằng nhân ái. Tuổi chớm thanh xuân, ai lại chẳng mơ mộng một xã hội hướng đến công chính lý tưởng. Thuở đó, tình thật, cái kiến thức của tôi là kiến thức thuần sách vở, và lại là sách vở về chủ nghĩa Mác và sự dự tưởng một XHCN do phương Tây truyền đạt: tôi đọc Althusser, rồi Fromn, Marcuse, Sartre...tức là thể loại kinh điển của thế hệ tháng 5-68. Đó là thế hệ sinh viên của phong trào phản kháng (contestation) cậy đá lát đường khu Quartier Latin ở Paris ném vào xã hội tư bản Tây Âu, là thế hệ râu tóc để dài, miệng hô ‘‘Peace and Love’’, tay cầm hoa hồng, tay kia châm lửa đốt cờ hoa Hiệp Chủng Quốc chống chiến tranh Việt Nam ở Berkeley. Tuổi trẻ với Mác, và Che Guevara... là ngọn triều cách mạng lãng mạn ào lên như một con sóng hồn nhiên. Nhưng bèo bọt. Sự bèo bọt nằm ngay trong cái hồn nhiên bây giờ nghĩ lại thấy sao mà ngây ngô kỳ lạ. Trong không khí bồng bột đó, phong trào ở Canada là sự tự phát của những sinh viên, từ lòng yêu quê hương và viễn cảnh một cuộc chiến tang thương, về sau ít nhiều được hỗ trợ về mặt thông tin của phong trào bên Pháp đã có kinh nghiệm thời giành độc lập năm 45-46. Riêng tôi, tôi quen anh Phương, đến từ Paris, làm việc trong phòng thí nghiệm Sinh Hóa ở Đại Học Montreal. Sau này, anh bị chính phủ Canada trục xuất. Khi bị dẫn độ về Sài Gòn thì anh trốn được, qua Chili làm việc trong ban cố vấn của Thủ Tướng Allende, và bị bắn chết khi Pinochet đảo chính. Anh cho tôi mượn cuốn Thời dựng Đảng của Thép Mới. Đọc xong, thấy tôi thòm thèm, anh đưa tập Luận Cương của Lê-nin. Tôi không nhớ đã nói gì, nhưng anh bảo tôi thiếu kiến thức cơ bản, phải học từ đầu. Anh giúi vào tay cuốn Tư Bản Luận. Tôi đọc, không hiểu, phải tìm bản tiếng Pháp và từng bước lần mò gỡ những gút chỉ rối rắm, nhưng ngay cho đến nay, tôi thú thật với Bình Minh, rằng tôi chẳng thấy kinh điển Mácxít dính gì để những thể loại thực tiễn XHCN. - Thực tiễn? - Ở Liên Xô, những nước Đông Âu, và Trung Quốc, tôi chỉ thấy những tổ chức chính quyền chuyên chính, với tầng lớp nomenklatura độc quyền đặc lợi! Lý tưởng cộng sản đầy tính nhân đạo, nhưng con đường thực hiện thì ngược lại toàn là tù đầy, máu me và nước mắt... - Nhưng tại sao anh vẫn tiếp tục ủng hộ? - Đầu tiên, tôi chỉ chống sự xâm lược của Mỹ trong chiến tranh. Ai có thể ngồi yên khi biết số lượng bom Mỹ rơi trên quê hương mình gấp năm ba lần tổng số bom thả trong suốt Thế Chiến thứ II? Sau 75, tôi hão huyền hy vọng Cách Mạng Việt Nam có thể khác, với những con người tôi thành tâm cảm phục. Bởi đất nước đã trải một cuộc tang thương khủng khiếp, nên tôi tin khó mà chỉ vì đặc quyền đặc lợi tầng lớp lãnh đạo có thể nhắm mắt không đặt ra câu hỏi người dân hy sinh giành độc lập thống nhất để làm gì? Không lẽ để tiếp tục nghèo, dốt, và lại oằn người dưới những cái ách mới? Sau Đại Hội V năm 81, tôi tự nhủ, dẫu gì đi nữa thì tôi cứ giữ sự ủng hộ cơ bản thêm 10 năm. Phải nói, khi nước ta bước vào thời Đổi Mới, tôi đã nuôi nhiều hy vọng. Nhưng ủng hộ đối với tôi không là thái độ ngậm miệng mà là phát biểu “đúng nơi đúng lúc đúng người”. Nhưng thế nào là đúng, mà đúng đến ba lần. Tôi sau lại mắc tội trời chưa sáng đã gáy! - Tội gì lạ vậy anh? - Bình Minh có biết truyện Lục Súc tranh công hậu hiện đại nhưng đậm đà bản sắc tiếu lâm dân tộc không? - ??? Tôi kể: - Thời hậu hiện đại, xã hội loài người là xã hội đại đồng nhưng súc sinh còn đang ở giai đoạn quá độ lên XHCN. Và như loài người thuở trước, mọi sinh vật đều tìm cách vào đội ngũ tiên phong là Đảng Cộng Sản. Sau khi đã sinh hoạt Đoàn, nay có 6 đối tượng kết nạp Đảng, là Bò, Chó, Gà, Ngựa, Lợn và không biết ai giới thiệu mà lại có một chú Rệp. Bò qua kỳ kiểm tra lý lịch và năng lực cuối với các đồng chí “bên trên”, đi ra, vẻ thiểu não. Sao vậy? Bò kể, các đồng chí bảo tôi ngu như bò nên không kết nạp, mặc dầu tôi hiền lành, lại cung ứng thịt cho các đồng chí! Con Lợn ưỡn đít, nói, tôi cũng cung ứng thịt. Nhìn Chó, Lợn thủng thỉnh, khi có riềng có mẻ thì thành giả cầy, rồi ục ịch bước vào phòng làm việc. Lát sau, nó uể oải đi ra. Sao vậy? Các đồng chí bảo, đúng là cũng lành, cũng cống hiến thịt, nhưng lại chê tôi là bẩn như lợn. Cả bọn bật cười. Gà ngẫm nghĩ, gà cũng có thịt gà, không ai chê ngu chê bẩn. Phen này, cờ đã đến tay, gà vươn cổ, gáy rồi bước vào. Lát sau, nó cụp đuôi đi ra. Sao vậy? Các đồng chí bảo, đúng là cỗ bàn gì thì cũng có thịt gà, lại không ngu, không bẩn. Thế thì mắc tội gì - đám súc sinh hỏi, giọng lo lắng. Gà thở ra, tôi bị phê là có cái tật là trời chưa sáng đã gáy! Cả bọn đăm chiêu. Ngựa gật gù: tớ cũng cung cấp thịt, không mang tiếng bẩn và ngu, chẳng gáy báo sáng cho ai, lại thêm cái việc chở các đồng chí trên lưng rong ruổi khi đèo lúc suối...Ngựa bước vào, nhưng lát sau, Ngựa ra vẻ buồn bã. Sao vậy? Các đồng chí phán, được cả, nhưng tớ có cú đá hậu, khó tin. Bay giờ, Chó vểnh tai, khệnh khạng, nói như đinh đóng cột: tớ không biết đá, tuy không chở được các đồng chí trên lưng đi tham quan nhưng lại biết giữ nhà giữ cửa, là món đánh chén đậm đà bản sắc dân tộc, lại có tiếng là bạn thân nhất của loài người, chắc đảng đến tay tớ chứ còn vào ai. Chó vào, nhưng khi ra, tai cụp, đuôi cụp. Sao vậy? Các đồng chí bảo dù tớ có tất cả phẩm chất đảng viên đấy, tớ vẫn còn khuyết điểm. Khuyết điểm gì? Tớ có cái thói hay sủa bậy, và tật ăn cứt. Chó đáp rồi kêu ư ử! Chỉ còn Rệp. Mi thì vô phương, cả bọn la lên. Lạnh lùng, Rệp không nhìn ai, bước vào phòng và chỉ năm phút sau đi ra, đường bệ mặt vênh lên trời. Đám súc sinh ngạc nhiên. Rệp tuyên bố mình đã được kết nạp. Sao vậy? Rệp ngắn gọn: các đồng chí bảo trong tớ có máu công nông! Bình Minh phá lên cười. Bên ngoài, trời thôi mưa. Đêm lừng lững chùm lên Huế một bức màn nhung kéo che sân khấu một vở tuồng đến hồi kết. Bình Minh đứng lên, dí dỏm: - Tối nay đi ăn, nhất định em không ăn thịt gà, dẫu chẳng biết anh gáy sáng ra sao! Xã hội mới? Hai mươi năm trước tôi có ghé quán cơm này, khi quán về đêm thắp bằng đèn măng-xông, bàn kê xiêu vẹo, ghế đẩu chông chênh, ông chủ quán hò vợ rồi ra tiếp khách, mặt lạnh lẽo, chỉ gật, không nói, cứ như một bóng ma hiện về. Và từ quán trên lưng đồi nhìn xuống, chỉ có đêm, đêm mịt mùng. Nhưng nay, có khác, tôi thực sự không nhận ra, và không chắc đó là quán cơm Âm Phủ. Bây giờ quán mắc điện, ghế cao có chỗ tựa, bàn phủ ni-lông sặc sỡ kẻ những ô đỏ xen kẽ những ô trắng, hai cô tiếp đãi xinh như Huế thơ mộng, mắt kẻ đen, miệng chào khách khiến chẳng một đấng trượng phu nào có cái gan dạ bỏ đi. Và nhìn ra tít tắp là cầu Tràng Tiền chiếu đèn mầu, cứ dăm phút mầu đổi từ xanh ra vàng, vàng ra đỏ, đỏ ra trắng. Tôi kể, lòng bỗng ngậm ngùi nhớ những bóng ma xưa, nhưng Bình Minh tươi tắn, đùa với giọng Huế: - Đấy, chừ anh thấy, răng là tiến bộ chứ hỉ! Tôi cười, gọi cơm hến, món nhà nghèo dân dã, mong tìm lại hương vị ngày trước. Vừa ăn vừa suỵt xoạt vì cay, tôi nghe Bình Minh hỏi: - Nẫy anh nói gì về cái xã hội dân sự và xã hội- trại lính vậy? - Cải Cách Ruộng Đất có thể là một trong những lý do giải thích có đến gần một triệu người di cư từ Bắc vào Nam, sau miền Nam lấy đó như một chiêu bài để đề ra “quốc sách” chống Cộng. Mặt khác, vào năm 56, vẫn có người hy vọng sẽ có Tổng Tuyển Cử thống nhất đất nước. Trước tình hình phải nhận sai lầm và sửa sai trong Cải Cách Ruộng Đất, Đảng có nới tay một chút. Nguyễn Mạnh Tường đề nghị nhận định lại Quan điểm Lãnh Đạo trong một báo cáo đọc tại Mặt Trận Tổ Quốc, nêu sự quan trọng của một nền pháp lý có tính chuyên môn và không chỉ là dụng cụ thể hiện lãnh đạo chính trị. Phan Khôi viết ‘‘Phê bình Lãnh Đạo Văn Nghệ” đăng trên Giai Phẩm mùa Xuân số 1, ra và bị tịch hồi. Cũng năm đó, Đại Hội 20 của Đảng Cộng Sản Liên Xô công bố Bản Báo Cáo của Krút-Sốp, trong đó cái xã hội-nhà tù kiểu Xtalin bị vạch trần với những trại Tập Trung Cải Tạo và con số 20 triệu nạn nhân. Bản Báo Cáo đó có tác động nổ một quả bom trong thế giới những nước XHCN. Biến động ở Ba Lan. Rồi Hung Ga Ri. Bên Trung Quốc, Mao nhảy một bước lùi, phát động phong trào Trăm hoa đua nở, Trăm nhà đua tiếng. Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ta theo sau, và những người không chấp nhận mọi điều trên cõi đời này cứ phải có ‘‘đảng lãnh đạo” nhân dịp đó cất lời. Tờ báo tư nhân Nhân Văn xuất hiện, với Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Hoàng cầm, Phan Khôi...Có sự cộng tác của nhiều nhân sĩ và trí thức uy tín như Trần Đức Thảo, Đào Duy Anh, Trương Tửu..., báo gầy nên một phong trào: Giai Phẩm mùa Xuân tái bản, rồi Giai Phẩm mùa Thu, mùa Đông. Phía lớp trẻ, tờ Đất Mới của sinh viên Đại Học Hà Nội ra đời. Nói chung, phong trào chỉ xin với Đảng là cứ theo cho đúng Hiến Pháp năm 46, xây dựng một xã hội pháp chế chứ không rập theo mô hình chuyên chính Xtalin, trả lại cái quyền việc ai nấy làm. chẳng hạn như người làm văn nghệ trách nhiệm và lãnh đạo văn nghệ chứ thôi đừng để ông chính ủy mang ‘‘chính trị” thống soái ra chỉ trỏ sai trái... - Chỉ xin thế thôi sao... - Ừ, chỉ thế mà các vị đó đều bị ghép đủ thứ tội. Sáu tháng sau, Mao lùi một nhưng tiến ba bước, từ hữu sang tả, và Việt Nam ta nhảy theo trong điệu múa ‘‘ môi hở răng lạnh’’. Tháng 12 năm 1956, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh về chế độ báo chí. Ủy ban hành chính Hà Nội sau đó ra thông báo Nhân Văn, Giai Phẩm bị cấm. Cuối tháng 2-1957, Trường Chinh kêu gọi đấu tranh đập nát luận điệu phản động Nhân Văn Giai Phẩm với 500 đại biểu trong Đại hội Văn Nghệ toàn quốc lần 2. Đảng cho thành lập Hội Nhà Văn, cho ra báo Văn, nhưng cái đám trí thức tiểu tư sản đã ‘‘bị nhiễm độc”, Nguyễn Tuân và Nguyên Hồng dám quan điểm khác với Học Tập là tờ báo lý luận của Đảng, rồi cho đăng những ‘‘Lời Mẹ dặn” của Phùng Quán, ‘‘Hãy đi mãi” của Trần Dần hay ‘‘Ông Năm Chuột” của Phan Khôi...Lại đóng cửa báo Văn! Và đấu tranh tư tưởng với 272 văn nghệ sĩ đảng viên, rồi 304 cán bộ văn hóa văn nghệ ở Thái Hà. Một số được tập thể ‘‘chiếu cố giúp cải tạo” trong những buổi học tập mà kỹ thuật đấu địa chủ lại lôi ra áp dụng. Những kẻ hạ sinh Nhân Văn và Giai Phẩm và những người cộng tác tất tật thành phản động, phản cách mạng, Trốt-kít, gián điệp... Nhiều người bị rút Đảng tịch, Hội tịch [16]... Nguyễn Hữu Đang, người trách nhiệm tổ chức cho ông Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn Độc Lập ở Ba Đình, bị 18 năm tù, có xét xử. Phùng Cung 12 năm, không xét xử. Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Cầm... không đi tù, chỉ đi ‘‘lao động cải tạo”, nhưng bị rút hội tịch, treo bút 30 năm, cuối cùng chỉ được ‘‘hồi tịch” thời kỳ hậu Đổi Mới, nghĩa là khi đầu bạc răng long. Trí thức như vậy đeo xiềng khóa miệng ngay sau khi Đảng biết không có Tổng Tuyển Cử: truyền thông là khâu Nhà Nước quản lý, và dĩ nhiên Đảng lãnh đạo! Thế có nghĩa là Đảng quyết cái gì nhân dân cần và phải biết, cái gì không, cái gì cho, và cái gì cấm nói, cấm bàn bạc, cấm có ý kiến riêng tư không có tính ‘‘tập thể”. Oái oăm thay, cái giá trị “tập thể” này lại do một thiểu số dăm ba người trong Tuyên Huấn Tuyên Giáo quyết định. Và nhân danh nó như thứ quyền năng của Thượng Đế mà đại diện là những ông Trời con bắt sống bắt chết này, người ta gây mê cho cả một đất nước... - Những ông Trời con? Bình Minh vung tay, hỏi, họ là những ai? - ...là những ông Trời con con thôi, hệt những tay kiêu binh cung Vua Lê phủ Chúa Trịnh vừa học được dăm chữ Mác-Lênin ở Thăng Long, sau khi đã bươn trải qua bước thành phần -lý lịch, được xác định là giai cấp ‘‘cơ bản” trong tiến trình lịch sử biện chứng ‘‘rất” loài người tiến bộ! - Em vẫn chưa nghe anh nói thêm về cái anh gọi là xã hội-trại lính? Bình Minh ngước lên nhìn. - Năm 58, cuộc cải tạo công thương nghiệp ở những thành phố được tiến hành. Khi ấy, những xí nghiệp công nghiêp của tư sản thật ra đã chuyển hết khỏi miền Bắc, còn lại chỉ có tiểu thương, tiểu công nghệ là chủ yếu. Cải tạo là đưa đến hợp tác, bắt đầu là năm, bẩy gia đình, từng bước đi vào qui mô lớn dần lên, đến cấp phường, quận, thành phố rồi quốc doanh. Tóm lại, cả công, thương và nông nghiệp, phải vào ‘‘hợp tác”, tức là sản xuất trao đổi hàng hóa ở mức tập thể, thủ tiêu kinh tế tư nhân. Chẳng khác gì trong nông nghiệp, cải tạo đưa đến tình trạng cha chung không ai khóc, thiếu động cơ kích thích kinh tế, đưa đến trì trệ trong sản xuất, phẩm lẫn lượng có chiều hướng đi xuống, hàng hóa sản vật khan hiếm dần. Chỉ một, hai năm sau khi Đảng tuyên bố ‘‘hợp tác” cơ bản đã hoàn thành thì dân bắt đầu ăn độn, nghèo đi trông thấy, và tệ nạn lạm quyền cầu lợi của đảng viên sớm hiện hình. Nhưng buồn cười, và cười ra nước mắt, là tháng 4-1960, Hồ Chí Minh viết [17]: "Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và việc chúng ta là thành viên của đại gia đình xã hội chủ nghĩa thế giới là sự thực hiện Luận cương của Lê-nin về khả năng một nước thuộc địa lạc hậu có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa’’.
Trong guồng quyền lực, Lê Duẩn, Xứ ủy Nam bộ trước tập kết, nay là Bí thư thứ nhất của Trung Ương Đảng, hợp với Lê Đức Thọ đã thay thế Lê Văn Lương trong vai trò Trưởng ban Tổ Chức, chưa hoàn toàn nắm quyền lực như ý muốn vì còn phải chia sẻ với những nhân vật dầu phạm sai lầm trong Cải Cách Ruộng Đất nhưng vẫn bám chốt như Chinh, Lương, Việt... Thế là có cái nghị quyết 15 của Trung Ương Đảng Lao Động Việt Nam, cho phép giải phóng miền Nam bằng đấu tranh vũ trang song song với đấu tranh chính trị [18], trong khi đó Ngô Đình Diệm ban hành luật 10/59 kéo máy chém đi khắp nơi diệt Cộng. Nghị quyết 15 này củng cố quyền lực Duẩn-Thọ, và Ban Tổ Chức từng bước trở thành cái nôi của quyền lực, từ đó cho mãi đến tận ngày nay. Có tiếng đồn là cả Hồ Chí Minh lẫn Võ Nguyên Giáp đều không đồng tình, nhưng nếu thế, rõ ràng họ cũng đã không có thực quyền trong thời gian người ta khai đường 559, sau thành đường mòn Hồ Chí Minh huyền thoại. Năm năm sau ĐBP, bóng dáng ma quái của chiến tranh lại lẩn quất, vì hai điểm cơ bản: 1- Mâu thuẫn và tranh đoạt quyền lực nội bộ ở những cấp cao nhất trong Đảng; và 2- Khó khăn, lúng túng, và sai lầm trong việc xây dựng xã hội XHCN. Cộng thêm vào là mặt khác, những người miền Nam tập kết mất kiên nhẫn, nóng lòng muốn quay trở về quê hương gốc gác. Thế là Đồng Khởi ở Bến Tre năm 60. Khẩu hiệu mới gồm 2 khâu: vừa giải phóng miền Nam vừa xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Khâu Giải Phóng lọt, vì khi đó những mâu thuẫn giữa hai nước ‘‘anh em” đã có, Trung Quốc của Mao không ‘‘xét lại” và chịu chung sống hòa bình với Đế quốc Mỹ theo đường lối Liên Xô dưới thời Krút-sốp. Việt Nam ta muốn giải phóng miền Nam với một nền kinh tế non trẻ thiếu cả ăn lẫn mặc thì làm thế nào đây? Vừa xin vũ khí, vừa xin viện trợ lương thực, tất cả là vì nghĩa vụ quốc tế. Nói cho hình tượng là ta bán máu lấy ăn, máu đổ vì mục đích cao cả Giải Phóng và Thống Nhất đất nước, đối đầu với Đế Quốc trong cuộc Cách Mạng Thế Giới. Mao vui lòng cho ít khí giới qui ước và tiếp tế gạo, đường, mắm muối... nhưng còn Krút-Sốp? Khí giới hiện đại chống Mỹ cứu nước thì Liên Xô sản suất, thế mới gay go. Ông Chí Phèo cào mặt chống Bá Kiến ở Washington không thiếu mẹo kiểu Trạng Quỳnh, linh động phát ra năm 63 cái Nghị Quyết 9 lươn lẹo đầy những mảng vừa trắng vừa đen [19] trong cái bước chông chênh ‘‘giữa hai đường lối”, một đỉnh cao trong nghệ thuật nước đôi trên trường quốc tế … - Vừa Chí Phèo, lại vừa Trạng... Bình Minh nhăn mặt. - Thế là sau chiến thắng ĐBP, ta không thống nhất được đất nước, không thực sự độc lập nên bị ép buộc đặt bút ký vào cái HĐ Genève chia cắt Tổ Quốc ở vĩ tuyến 17. ở miền Bắc, Đảng và Nhà Nước bóp chết nền kinh tế tư nhân nhưng lại mù lòa giáo điều trong những bước xây dựng xã hội XHCN, khoá miệng trí thức sau phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm, và ngay năm 61 ban hành Nghị quyết 49/NQ/TVQH do Trường Chinh ký [20], hợp pháp hóa việc có thể bắt nhốt bất cứ ai vào những Trại Tập Trung Cải Tạo mà không cần xét xử. Như thế, Đảng vuốt mắt xã hội dân sự, đắp mặt liệm bằng vải đỏ, và đóng áo quan rồi đào sâu chôn chặt! Bình Minh chép miệng: - Thế thì em hiểu cái bước đầu dẫn đến xã hội-trại lính... - Bây giờ, lại chiến tranh. Bắt đầu là cuộc nội chiến đã khai mào từ 46. Năm 63, trận Ấp Bắc. Chiến tranh đặc biệt kết thúc với trận Bình Gia năm 65. Mỹ leo thang, đưa quân vào, tất cả là 3 triệu lượt người, số cao nhất lên đến hơn nửa triệu trong Chiến tranh cục bộ. Với 24 tiểu đoàn thiết giáp (2750 tăng), 83 tiểu đoàn pháo binh (1412 khẩu pháo), 5 tuần dương hạm, 5 tàu có sân bay, 65 tàu chiến cộng thêm 700.000 lính ‘‘ngụy” và đồng minh Nam Hàn, Thái.., Mỹ phong tỏa Hải Phòng, ném bom trên 3 nước Đông Dương, xử dụng trong toàn cuộc chiến gần 8 triệu tấn bom đạn, tức 3,8 lần số xử dụng trong Thế Chiến 2, và 12 lần số xử dụng trong chiến tranh Triều Tiên. Riêng miền Nam, Mỹ rải 45,269 tấn chất độc hóa học, và 33,800 tấn bom lửa Napan (10 lần hơn chiến tranh Triều Tiên, 25 lần hơn Thế Chiến 2). Nhưng bất ngờ, cuộc Tổng công kích và nổi dậy Mậu Thân năm 68 khiến Mỹ chựng lại, phong trào phản chiến ở Mỹ lan như lửa cháy, và thế giới lên án, khiến Mỹ phải chấp nhận hòa đàm ở Paris [21]. Nhưng chiến tranh tạo ra cái xã hội thời chiến ở miền Bắc. An ninh là quan trọng, nên phải xiết cho chặt mọi kiểm soát với chính sách hộ khẩu. Lương thực được viện trợ phải phân, phải phát với tem, phiếu... Dân xả xú-páp: Gì cũng quản, gì cũng phân, đến phân cũng quản! Con người bị nô lệ đầu tiên bởi cái dạ dầy. Nó cần 13 kilô gạo, chút đường, chút dầu, chút mỡ. Nó được ăn, nhưng phải cung cấp cho thần chiến tranh những đứa con cứ ‘‘Bác bảo đi là đi, đánh là đánh” với ‘‘Khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Nó không được mắc chứng lập trường dao động, miệng nói ra là phải phục vụ cho chiến thắng để Giải Phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Mỹ cút Ngụy nhào. Và nó nói, tất cả, đồng điệu. Nói mãi, nó nghĩ, cũng đúng một khuôn, tức là nghĩ những điều ‘‘trên cho nghĩ” vì trên đã nghĩ hộ, đã nghĩ hết cho rồi. Trong cái xã hội khẩu phần với bộ đồng phục của đói nghèo từ ăn mặc đến suy tư, xã hội thời chiến chỗ nào thì cũng là một trại lính trong đó con người muốn tồn tại thì phải tin vào một cái gì đó có tính thần thánh. Đấy, một cuộc chiến thần thánh với cứu cánh "Giải Phóng Dân tộc” để cho hơn bốn triệu người hy sinh là vậy... Nói đến đây, tôi nghẹn lời. Tôi buồn bã, xin Bình Minh chở tôi về khách sạn. Trên con đường từ quán Âm Phủ quay lên Huế dương gian chập choạng sống dưới ánh điện về đêm, tôi không nói thêm được một lời. Hình ảnh những kẻ chết trận. Rồi nỗi niềm của những người sống sót. Tất cả chụp xuống tôi như chiếc lưới quăng ra mắc tôi vào, mặc cho vùng vẫy, mặc cho van nài, để tra tấn, hành hạ với một câu tra vấn. Chỉ một câu, này, thế trách nhiệm của tôi còn sống hôm nay là gì? Có phải chỉ để kể lể cái quá khứ đầy bất hạnh kia không? Tại sao lại kể với Bình Minh? Không đáp được. Khi chia tay, Bình Minh nói khẽ trước khi rồ ga xe: - Đêm nay chắc em mất ngủ!