10. Việt Nam, (3)
Tâm sự của kẻ bên lề Đứng bên lề đường, tôi nhìn theo Bình Minh cho đến khi xe rẽ ở cuối đường. Mưa lại rơi. Vuốt nước mưa trên mặt, tôi tự hỏi, lên phòng khách sạn hay đi một vòng quanh quanh đây? Tôi biết tôi cũng sẽ mất ngủ, thôi thì đi, dọc Lê Lợi về phía Đập Đá, men cái công viên nay ngổn ngang những bức tượng hiện đại được thành phố cho trưng để Huế ngày nay hết là Huế cổ kính của một thời quá vãng. Xích lô ngừng, xe không anh? Đi vào công viên, bên những gốc cây được bóng tối đồng lõa che đậy, đò không anh? Không, xin cám ơn. Tôi cần được cô đơn. Vì chưa đáp câu hỏi, tôi gợi lại những bóng ma quá khứ để làm gì? Tôi nhớ đến một người quen, sinh và lớn lên ở Huế đây, hiện cũng lưu lạc như tôi, mỗi năm cứ đến mùa tuyết lại kêu, chừ sao mà lạnh. Ông ta nay đâu trên 70, trước khi đến định cư nơi tôi ở thì là sĩ quan cấp tá Sư đoàn 1 bộ binh của quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Ở cùng chung cư, một tòa building có cả trăm hộ, ông khoái chí khi biết tôi là người đồng hương, lân la thăm hỏi, và năm sau ông gọi tôi là tri kỷ. Ông có một thói quen rất lạ. Sáng nào ông cũng dậy sớm, tắm rửa sạch sẽ, rồi ốp vào người bộ quân phục, đeo lon, đội mũ, để cát-sét nghe quốc ca, hãnh diện đưa tay ngang mũ chào quốc kỳ cờ vàng ba sọc đỏ choán hết một bức tường nơi ông dùng để tiếp khách. Chào cờ xong, ông thay đồ xi-vin, rồi đi làm. Việc của ông là đỡ đần bệnh nhân già yếu và khiêng xác trong một nhà thương. Ông từng chiến trận, không sợ máu me và xác người, lại lực lưỡng nên công việc ổn định. Hai năm sau, ông thay lon. Tôi hỏi ông đáp ‘‘Tri kỷ hè, tui lên Trung Tá là đúng, thời gian công vụ zậy mà chưa chết trận, thằng nào cũng rứa, lên lon cả”. Ba năm sau, ông tự cho mình lên lon Đại Tá. Không may, đó là năm ông phải khiêng xác bà qua đời vì bạo bệnh. Hai đứa con ông ở xa, nay ông một mình thui thủi, nhưng cứ sáng nào cũng chào cờ, và năm năm sau ông vào Salvation Array, nơi bán đồ phế thãi của quân đội, mua lon Thiếu Tướng. Ngày hôm đó, ông thết cơm, ngập ngừng “...tri kỷ hà, tui lên tới mức này là hết cỡ tui rồi. Muốn lên cao hơn thì khó lắm, tui ra Thủ Đức, chớ không được huấn luyện chính qui như ở trường võ bị Đà Lạt!”. Đấy, ông sống như vậy. Quá khứ lôi ông về phía sau, lúc đó ông chào cờ, mang lon, yêu và ghét, nhưng ông sống thật. Còn ở nhà thương, ông đã chết, ở thì hiện tại, là một bóng ma trên nhân gian, thản nhiên làm công việc vô hồn như nó chẳng hề dính dáng gì đến ông, con người chỉ hãnh diện vào đúng 7 giờ mỗi buổi sáng, với mũ áo cấp bậc, ảo với đời nhưng lại thật với chính ông. Cái quá khứ kéo cho đời sống ngược về thời gian trước cả quá khứ sao nó chua chát đau đớn đến vậy? Tôi nào muốn đánh thức những bóng ma để cướp đi sự sống ở hôm nay, và nhất là sự sống cho một tương lai. Liệu tôi phải nói ra sao để Bình Minh hiểu như thế? A, chiến tranh! Nói về chiến tranh nhưng là để biết cái trân quí của hòa bình. Hiểu chiến tranh, mới ý thức được hòa bình là gì, can gì, và phải cưu mang như thế nào để đừng bao giờ rơi trở lại vào vực bờ chiến tranh. Tôi ngẫm lại những lời đã nói ra. Chúng có là ngoa ngôn không? Không, tôi chỉ nói những sự kiện của Lịch Sử tôi cố gắng gạn lọc một cách trung thực để hiểu ra những gút thắt dân tộc tôi vào một loạt oan khiên. Sự kiện cần, nhưng chưa đủ. Vì tôi chưa nói đến Lịch Sử như một đỉnh cao và đồng thời là một vực thẳm. Trên đỉnh cao tức cạnh là vực bờ. Càng cao thì nhìn xuống càng thấy đáy sâu, càng chẳng thể nghe tiếng rên của những thương tích không lành, càng chẳng hiểu ra thân phận của những kẻ bị cơn lốc lịch sử dập vùi. Tôi chưa nói đến những người làm lịch sử. Họ là những người cô đơn trong tiếng hát chiến thắng, hát càng hùng dũng thì nỗi tuyệt vọng càng đớn đau. Chỉ người làm ra lịch sử mới là người thấu hiểu cái tang thương của lịch sử. Đổi đời, là tạo điều kiện toan tính cho những hạnh phúc về sau. Nhưng hạnh phúc là một cái gì không thể toan tính như một bài toán máy móc. Vì thế cuộc đổi đời càng lớn thì đằng sau càng ẩn dấu những nỗi tuyệt vọng kinh hoàng. Và tôi chưa có một lời về những kẻ đi giải phóng. Họ là những người có cái đam mê lấp biển vá trời. Họ đèo trong người nghị lực siêu nhân, xếp xã hội vào những ô cửa họ tưởng tượng ra, và sắp đặt thế nào cho hiện thực chui vào nằm yên như một tĩnh vật. Nhưng hiện thực của con người trong cõi vô thường làm sao như thế được. Và kìm kẹp có thế nào chăng nữa thì chẳng qua đều là tác động của niềm tuyệt vọng. Ý thức càng vót nhọn hòng bắn rơi những niềm tuyệt vọng xung quanh thì chính niềm tuyệt vọng càng bị đào xuống ngày một sâu, cuối cùng hun hút không còn thấy đáy. Bởi hỡi ơi, niềm tuyệt vọng đã dấu mình trong đường bay của ý thức, để trái tim con người còn chút sự sống tru lên thảm thiết tiếng tru cuối của con sói nằm trên mộ địa đồng loại. Mọi cánh cửa lịch sử mở ra đều đèo bồng giấc mơ vấy máu những con người. Tôi xin một câu cuối gửi những người đi giải phóng cho những kẻ bị kìm kẹp, rằng vinh quang càng huy hoàng thì trách nhiệm càng ghê gớm. Và ghê gớm hơn cả là câu hỏi chính mình có tạo ra hay không những kìm kẹp mới clro những kẻ vừa được giải phóng. Mưa mỗi lúc một nặng hột. Về khuya, đèn xanh đỏ tráng lệ chiếu cầu Tràng Tiền đã tắt, trả Huế về với ánh đêm tự nhiên yên dịu. Tôi quay bước, đến đường Lê Lợi thì, lạ chưa, mắt tôi thấy rõ ràng một ông lão đạp xích lô chở một chiếc quan tài trên có cắm ba cây nhang cháy đỏ. Đi sau, một bà lão vừa bước vừa vỗ tay cười, hét toang lên, con ơi, mi dại dột sao để miếng đạn pháo kích nó cắt ngang đầu, hả mi! Ông lão lầm lũi co chân tiếp tục đạp, ngoái lại nói, mụ chi mà dị rứa, chừ thời bình rồi mụ, đừng la để cho người ta ngủ chớ! Tất cả thoáng hiện, rồi thoáng biến, nhưng tiếng vỗ tay thì cứ văng vẳng, và tiếng cười, sao mà thê thiết tới vậy. Thời bình rồi mụ! Lời ông lão xoáy vào như nhắc nhở tôi, rằng chiến tranh đã qua. Ngày mai, gặp Bình Minh, tôi sẽ nói chuyện với em về hoà bình, vì em không cần chiến tranh mang sự chết ra để biện minh cho cuộc sống. Bây giờ, xin Huế hãy ngủ ngon. Cả tôi nữa, một kẻ bên lề trong quê hương mình, tôi hãy ngủ qua đêm, ngủ cho ngon. Trời sẽ sáng, tất nhiên là phải vậy. Hoà bình rồi, anh em ta ơi! ...là tiếng thét tướng lên vào 22 giờ 11 phút, giờ Montreal, ngày 30 tháng 4 năm 1975, trong hội quán của Hội Việt Kiều Yêu Nước tại Canada. Mấy hôm trước, tối tối là hai ba chục người, toàn sinh viên du học tuổi trên đôi mươi, tụ tập nhìn lên chiếc bản đồ Việt Nam treo trên tường, chăm chú nghe một anh tay cầm cái thước chỉ ‘‘địch” triệt thoái bỏ Ban Mê Thuột, quân ‘‘ta” đã đi đến đây, qua Nha Trang nhưng không chiếm, tiến thẳng tới Bình Long. Một chị người miền Nam, xưa ruộng nhà, như chị khoe, thẳng cánh cò bay, la ‘‘đả” quá phải không cà? Dương Văn Minh đầu hàng rồi, vặn BBC nghe coi... Rồi, ta đã vào dinh Độc Lập. Sướng quá! Hoà bình rồi anh em ta ơi! Khi “Việt Nam hóa” chiến tranh, Đế quốc Mỹ rắp tâm đổi mầu da trên xác chết chứ chưa hẳn có ý đồ bỏ Việt Nam. Peace with Honor - hoà bình trong danh dự - chỉ là một cách nhập nhằng ngôn từ, và Kissinger nói với Nixon rằng chỉ 3 tháng sau khi được tái cử Tổng Thống, sẽ chẳng còn ai quan tâm đến Việt Nam nữa [22], Mỹ muốn làm gì cứ việc làm, bất chấp HĐ Paris ký năm 73. Nhưng đùng một cái vụ Watergate nổ ra, chuyện hạ bệ Nixon thành thời sự, và những người Mỹ chống chiến tranh nhân thời cơ làm áp lực cắt viện trợ cho chính quyền miền Nam Nguyễn Văn Thiệu. Đòi đâu 7 trăm triệu đôla để “tiếp tục chiến đấu”, Thiệu cũng Chí Phèo chẳng kém ai, và cái lệnh triệt thoái khỏi Ban Mê Thuột ngày 14-03-75 để dẫn đến thất thủ trên toàn miền Nam trong một chớp mắt phải chăng là tác động theo phương thức cào mặt trước một Bá Kiến bên kia Thái Bình Dương đang lúng túng không biết xoay trở ra sao? Hai tuần sau, Quảng Trị, An Lộc rồi Huế thất thủ. Ngày 30-03, Đà Nẵng rụng như một trái sâu, cho phép miền Bắc mở ra chiến dịch Hồ Chí Minh tốc chiến tốc thắng, thời cơ rơi từ trên trời xuống cho tướng Giáp. Trừ một số nhỏ như tướng Trưởng, tướng Phú, tướng Đảo... phần đông lớp tướng tá lãnh đạo miền Nam khi ấy thật ra không có ý thức chính trị và đã mất hết ý chí tranh đấu, chỉ lăm le bỏ cho đầy túi rồi tháo chạy. Vì vậy, mặc dầu với một quân lực có đầy đủ trang bị và đã chứng tỏ khả năng cũng như sự anh dũng mới 2 năm trước với những trận chiến ác liệt ở Quảng Trị, An Lộc, Đông Hà..., chính đám tướng lãnh này đã phản bội, hành xử một cách vô trách nhiệm với dân và quân miền Nam, để một nửa đất nước rơi xuống như trái sung rụng cuối cái mùa đôla hết còn xanh tươi tùm lum che mầu máu đỏ. Về giới chính trị, họ bị chính sách Mỹ vô hiệu hóa ngay sau thời ông Diệm, đảng phái gọi là có nhưng thiếu ảnh hưởng quần chúng, chỉ tụ lại trong giới trí thức salon, để mặc đám dễ sai bảo làm bù nhìn cho Tòa Đại Sứ Mỹ mà không chống lại được. Mặt khác, chính sách Mặt Trận trong miền Nam chứng tỏ cũng hữu hiệu như ở miền Bắc thời 45-46, kết hợp được những người thuộc Lực lượng thứ ba và thành phần tiến bộ trong Công giáo cũng như Phật giáo. Nói cho cùng, miền Nam thất thủ trước tiên là một thất bại chính trị của những người không cộng sản trong tình huống phải chung sống với cái Đế Quốc Mỹ quá tin vào một giải pháp thuần quân sự kiểu lấy thịt đè người. Nhưng xin đừng quay lại chê trách những người lính Việt Nam Cộng Hoà. Họ đã chiến đấu dũng cảm, và như lời nhà thơ Cao Tần, cho cả hai bên, thắng vinh quang mà bại cũng anh hùng, trong một cuộc chiến không tùy thuộc ở họ. Nhân đây, tôi xin phép ghi lại một bài thơ mà kẻ gọi tôi là tri kỷ chép trên con đường triệt thoái của quân lực Cộng Hoà từ Ban Mê Thuột tháng 3 năm 75: Dựa M-16, ta ngồi, bên em mười sáu Bốt-đờ-sô đỏ bùn đất cao nguyên Ngày triệt thoát lẫn vào đêm. Quằn quại. Pháo tầm xa khạc nhổ những lời nguyền Tính thí mạng cùi, hề, còn chục băng đạn cuối Súng trên tay. Sao bỗng nặng? Hỡi người nơi đạn bay, ai thương em mười sáu tuổi trăng, hề, đành hạ súng. Em ơi! Thơ của ai vậy, tôi hỏi. Một người lính vô danh, tri kỷ ạ! Hoà bình rồi. Tướng Trần văn Trà tiếp quản Sài Gòn tuyên bố, người Việt Nam không có ai thắng hay bại, chỉ có quân xâm lược Mỹ bại mà thôi. Mỹ để lại Việt Nam sau 1973 hơn 1 triệu vũ khí nặng lẫn nhẹ, 46,000 xe bọc thép và tăng, hơn 1000 máy bay và trực thăng. Quân đội miền Nam hạ súng không vì lý do nào khác hơn là tuyệt đại đa số mong muốn hòa bình, bởi máu nào không đỏ, da nào không vàng. Quân Mỹ tử trận 57,000 người, bị thương 150,000, mắc bệnh ghiền ma túy 100.000 người, vứt lại 50.000 con lai, nhưng mang theo trí nhớ cuộc bại trận đầu tiên trong lịch sử của họ. Hòa bình rồi, và những vấn đề của hòa bình ló mặt. Chỉ dăm tháng sau ngày 30-04-75, mọi lực lượng được thu về một mối, và điều này đưa đến con đường xóa sạch những cái gì gọi là lực lượng thứ ba. Sự chuyển tiếp vội vã được biện minh bằng cái ước mơ thống nhất không phải người dân miền Nam coi như là một tất yếu, ít là trên mặt tâm lý. Đất nước thống nhất chỉ một năm sau ngày giải phóng, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thành nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, chỉ là thống nhất một thể chế và quyền lực chính trị áp đặt trên toàn lãnh thổ. Thống nhất đất nước, lẽ ra phải là, thống nhất được lòng người đồng thuận với nhau về một tương lai. Và tôi làm thơ, có câu ‘‘đời hôm nay tự nhiên thành đường mật, chỉ chạm khẽ đầu răng đã ngọt lịm môi hồng... ” thì anh phụ trách báo Hội đòi...nói ra cho rõ ý mới đăng được! Bệnh tuyên huấn lây rất nhanh. Khi gặp Thứ Trưởng Ngoại Giao Hoàng Lương năm 76, tôi ngây thơ phát biểu rằng Việt Nam ta nên xin đặt quan hệ ngoại giao với Mỹ, ông Lương đáp, chúng ta chiến thắng, không ‘‘xin” ai, nhưng có ai ‘‘xin” đặt quan hệ với ta thì ta sẽ ‘‘xét”, với điều kiện tiên quyết là phải thanh toán cái khoản 4 tỉ đôla hứa hẹn bồi thường chiến tranh trong HĐ Paris. Bệnh kiêu binh cũng lây, cũng rất nhanh. Kết cuộc, ta mất cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ ngay năm 1977 dưới thời Tổng Thống Mỹ Carter. Chẳng những trên bình diện ngoại giao mà ngay cả trong phương sách tìm một thế đứng độc lập về chính trị và kinh tế, ta không thể bảo rằng ta không mất đi một thời cơ đáng tiếc[23]. Khi được vị tướng tài ba lừng danh ĐBP tiếp tại Hà Nội năm 77, tôi ngỡ ngàng trước câu hỏi, liệu 15, 20 năm ta có bắt kịp Tây Phương không, bụng nghĩ, chết cha, lãnh đạo ta lấy căn cứ gì mà có thể tưởng tượng đến cái vận tốc phát triển siêu âm ấy. Và vài năm sau, khi ông Thứ Trưởng Ngoại Giao của Đảng là Võ Đông Giang vỗ vai, bảo chú biết không, so trữ lượng dầu hỏa Trung Đông với trữ lượng Việt Nam ta có ven biển, thì là lấy cái tem dán lên đít con voi, thì tôi, chuyên gia kinh tế về Tài Nguyên, chỉ còn biết cười, cười ra nước mắt. Bệnh nói như Trạng truyền nhiễm chẳng kém gì thổ tả, dịch hạch. - Hoà bình rồi! về thôi, về để xây dựng! Tôi nhắc lời ước mơ xưa của những kẻ như tôi với Bình Minh đã đến khách sạn đón tôi từ sớm. - Thế sao anh không về? Bình Minh ngạc nhiên, anh ở trong phong trào những người Việt yêu nước mà... - Không dễ... Đại sứ quán phán, tùy trường hợp! Và cũng có người về. Một cặp qui cố hương với hai đứa con, công tác ở Đại Học trong TPHồ Chí Minh, về vì được một người bà con có chức có quyền ‘‘bảo đảm”. Hai năm sau, họ vượt biên. Lý do nói ra nghe rất tức cười: họ đi mua thịt phân phối trong cơ quan theo kiểu xã hội-trại lính, khi nào cũng bị thịt bạc nhạc, mỡ quá ăn không nổi! Và họ dị ứng với câu đất nước ta còn nghèo để biện minh cho tất tật, cứ nói nghèo là xí xóa hết! - ...nhưng nói thế là nói cho có. Chắc họ có nhiều lý do... - Bỏ quê hương, bỏ thân thích để ra biển, đi thì 6,7 phần chết 3,4 phần sống, chắc đâu phải là để đùa. - Tại sao? Ai bắt đi? - Đáp câu hỏi tại sao, chúng có thể nói đến một số biến cố bề mặt gọi gọn là hiện tượng. Chuyện này để nói sau vì dễ thôi, nhưng cái cần đề cập ngay là ‘‘bản chất” xã hội cũa những hiện tượng cá biệt. Quyền lực mới trong xã hội sau 75 đã không biết phân biệt thời chiến - thời bình, cái gì là ta - cái gì là địch, quá khứ - tương lai... Chiến tranh là một cơn cuồng nộ, kẻ thù ta nhận ra, nhìn thấy, và rất dễ xác định ta - địch, thế nào là thua, thế nào là thắng. Những con người trong chiến tranh hành xử theo bàn năng sinh tồn. Có hai loại; sinh tồn của bản thân và sinh tồn của chủng loại. Vì vậy, có những anh hùng hy sinh cho đồng đội, chết vì nhiệm vụ, mang thân ra chắn lỗ châu mai hoặc chặn cho xe kéo pháo thôi trợt dốc cao. Nhưng cũng có những kẻ giật lùi để đồng đội xông lên phía trước, giả lạc đơn vị trốn trong rừng sâu, cò kè từng hóp nước cho đến miếng lương khô, nhưng có dịp là tuyên hô tinh thần tiến công, gương liệt sĩ, và niềm tin sắt đá toàn thắng ắt về ta. Trong chiến tranh, khi dừng quân người lính mơ về một thời bình, những dự định cho tương lai, một mái nhà êm ấm, người vợ trẻ, đứa con thơ, bà mẹ già và đàn em dại... Hoà bình khác, nhưng lại có thể học rất nhiều từ chiến tranh. Địch xưa nay cứ là bọn xâm lăng đế quốc và bè lũ tay sai bây giờ không còn. Chỉ có ta. Và những kẻ đã hạ súng. Ta thì có người tử tế, có kẻ giá áo túi cơm. Và những giấc mơ thời chiến từng bước đụng mặt với hiện thực, mái nhà không cứ lúc nào cũng ấm êm như từng tưởng tượng, vợ trẻ con thơ ăn gì uống gì, mẹ già nay ốm mai đau thuốc thang làm sao, còn đàn em dại nay ngu ngơ công ăn việc làm chẳng có...Chỉ còn ta với ta... sống thế nào với nhau đây! Bình Minh thở dài: - Em không biết, khó cực kỳ...Chúng ta không có kinh nghiệm! - Nhưng chúng ta lại lắm mẹo Trạng để đối phó với tình thế mới! Xin nhắc, khi tiếp quản Sài Gòn, ai cũng nghe tuyên bố, chỉ có đế quốc Mỹ bại trận, tất cả mọi người Việt Nam đều thắng trận. Đầu tháng 5-75, Ủy ban quân quản ra thông cáo kêu gọi trình diện: 1- binh sĩ và hạ sĩ quan cấp thấp đi học tập chính trị 3 ngày; 2- sĩ quan và viên chức cấp trung học tập 10 ngày; 3- sĩ quan và viên chức cao cấp cũng như lãnh đạo những đảng phái chính trị học tập 30 ngày. Tin vào sự khoan hồng và chỉ mong quay về một cuộc sống an bình khi hết chiến tranh, “ngụy” ra tình diện, nhưng học 10 ngày thì hóa ra 2,3 năm. Còn 30 ngày, thành 5,6 cho đến 12,13 năm. Vợ chờ chồng, con chờ cha, và nay ai nấy đều hiểu không chỉ có Mỹ là kẻ chiến bại, nói vậy mà không phải vậy. Cách Mạng ta hô, không có tắm máu. Đúng thế. Cách Mạng ta bảo không có chuyện ngục tù mà chỉ học tập cải tạo. Thì cứ cho là đúng đi, nhưng không học không được! Đó là cái mẹo đầu, nhân danh an ninh khi vãn hồi hoà bình. Và cái lo trước mắt là khôi phục kinh tế. Kẹt là ngoài một 16 tấn vàng tiếp thu được từ chính quyền “ngụy”, ta chẳng biết phải làm gì. Kinh nghiệm xây dựng ở miền Bắc không có bao nhiêu trong thời chiến, và nếu có, cũng không thể gọi là những thành công. Thế thì thắng nhưng trắng tay ư? So với những người đã tự nguyện bỏ súng bỏ đạn, đám ngụy quân ngụy quyền và bọn liên quan ăn bơ thừa sữa cặn đế quốc, chẳng nhẽ cứ để chúng ăn trên ngồi chốc à? Mẹo thứ nhì, không có thì ăn cướp. Thế là ngay ba năm sau Giải Phóng, đổi tiền rồi cải tạo tư sản ở miền Nam [24]. Sau, phát động chính sách đi kinh tế mới, cửa nhà bỏ lại... Dân sợ. Tương lai ra sao đây? Chính sách lý lịch-thành phần lại tung tăng giấy tờ, con cái “Ngụy” thì học hành thế nào? Ngụy cha, ngụy anh đi học tập. Ba tháng. Rồi ba năm, vẫn mút mùa. Ngụy học chăm đến độ không ngờ, học thêm có kẻ 5, 7, 11, 12 năm [25]. Cán bộ quản giáo vui và mừng chia quả thực thăm nuôi. Vợ con ngụy cứ rút lần rút mòn chút của để dành ra ăn, người còn thanh xuân đi bước nữa, kẻ có vàng thì chạy ngược chạy xuôi tìm một chuyến vượt biên. Ban đầu, 12 lạng một đầu người, mua tàu 2,3 lốc, mua bến, mua bãi. Số 12 lạng cào sạch, giá từ từ xuống 10, rồi 8, 6... Người bán bến bán bãi đút vàng vào túi nhưng trên đài trên báo ra rả kết tội kẻ thí mạng ra đi là tham bơ thừa sữa cặn của Mỹ mà vượt biên... - Ai lấy vàng? Bình Minh ngỡ ngàng. - Thì dân gian đã bảo con ơi nhớ lấy câu này, cướp đêm là giặc cướp ngày là quan chứ còn ai vào đấy nữa! Cái thúc đẩy thêm cho chuyện vượt biên là gì Bình Minh có biết không? Đây là mẹo thứ hai... Thấy Bình Minh ngước nhìn chờ đợi, tôi tiếp: - ...là cái việc làm nghĩa vụ quốc tế đi “giải phóng” nước anh em Campuchia đang bị họa diệt chủng gây ra bởi những Pol Pot, những Ieng Sary, đám hình nộm đỏ nặn từ hồng thư của người cầm lái vĩ đại Mao Trạch Đông....Thế là đi nghĩa vụ quân sự, sau ba năm tưởng đã có hòa bình! Đảng bách chiến bách thắng chạy trốn về phía trước bằng cách lao vào chiến tranh. Thêm một lần, không biết làm sao tổ chức một xã hội thời bình nên những người nắm quyền lực nhắm mắt làm theo đúng cái quán tính độc nhất họ biết là chiến tranh. Lần này, Đảng là tác nhân, có viện trợ Liên Xô, ý đồ là làm vướng chân anh Trung Quốc lúc ấy đã ve vãn được con “hổ giấy” sau chuyến đi thăm Bắc Kinh của Nixon năm 1972. Cuộc viễn chinh của một dân tộc có cái tiếng tốt là xưa nay chống xâm lăng khiến thế giới lên tiếng phản đối, và người “anh em” chơi trò răng cắn môi, xua quân qua biên giới, dạy Việt Nam “một bài học”! Thuở đó Võ Đông Giang hỏi, Pol Pot chúng nó diệt chủng, ta đánh qua, thế giới có ủng hộ ta không? Tôi đáp, không. Ta đánh qua, nhưng 3 tuần sau rút, thế giới có ủng hộ ta không? Tôi đáp, không. Thì 3 ngày sau ta rút, khả năng là có với số trực thăng lấy được của Mỹ-Ngụy! Vậy cứ làm, rút ngay, không tuyên bố gì. Tôi lại đáp, cũng không! Bởi rồi, ai cũng biết, Lê Đức Thọ thời đó vẫn mơ màng cái Liên Bang Đông Dương thực dân Pháp đề ra từ tháng 3 năm 45, nhưng lần này với Việt Nam anh hùng có ý đồ làm tiểu bá trong khu vực. Nhưng thôi, những chuyện đã chót làm, nhắc lại làm gì. Chuyện đáng để nhớ là chuyện con người... Chuyện người vượt biên, người học tập. Anh 28 tuổi, đại úy Biệt Động quân, một vợ ba con, xưa đi Thủ Đức vì thi trượt Tú Tài 2, ra trình diện rồi sau đi học tập ở Long Khánh. Học tập bình thường, cho đến một hôm anh nổi máu anh hùng, bênh “họa sĩ”. Vị này tài cao, mới 12 tuổi, bị cải tạo vì lấy bút bi tô râu cho anh xích lô máy vẽ trên bìa tập vở 100 trang của học trò thời ngụy, khéo tay đến độ trông giống bác Hồ. Sau 3 năm cải tạo, “họa sĩ” được xuất trại, nhưng gia đình đã vượt biên, lếch thếch trở lại xin nhập trại vì không biết đi đâu về đâu, nhưng trưởng trại không cho. Anh giận, làm một bài nhân nghĩa, bị kỷ luật, đưa ra Vĩnh Phú vì được xếp vào hạng ngoan cố chống đối. Từ ngày đi Bắc, anh bặt tin chị và các cháu. Năm năm sau, anh được xuất trại nhân ngày 2- 09, mua vé xe Thống Nhất, về đến ga xe lửa ngày 7- 09, lủi thủi cuốc bộ về chợ Cầu Kho, nơi anh cư ngụ ngày trước. Sáng hôm đó, anh đến đầu hẻm nhà, nhìn từ xa anh thấy trong nhà anh có bóng đàn ông. Anh sững lại. Thôi thì thôi, để mặc mây trôi, nhưng anh muốn thấy mấy đứa con đã. Ngồi ở gốc cây lề đường sát hẻm, anh rình. Con anh lớn lên, anh không nhận ra đứa nào. Vợ anh, anh thấy, nhưng không dám gọi, thu mình lại, cúi mặt xuống. Còn người đàn ông lạ mặt, ông ta mặc sắc phục công an, đi xe Honda. Anh cứ ngồi, một lúc sau bỗng có con chó chạy ra, mũi hít hà, rồi rúc vào chân anh kêu hinh hích. A, ra con chó của anh, nó cũng đã già, nhưng chưa mất khứu giác nên nhận ra chủ cũ. Anh vuốt lưng nó, lông rụng ra từng mảng. Anh hỏi, chó ơi, mấy đứa nhỏ đâu. Nó chỉ kêu hinh hích. Đến tối, anh đi tìm một góc chợ ngủ qua đêm. Con chó vẫn theo anh, vẫn chỉ biết kêu hinh hích. Sáng sau, anh quay lại từ sớm, hy vọng con anh đi học, ra khỏi nhà là anh nhận được chúng. Và anh nhất định chỉ nhìn từ xa, thế thôi. Nhưng ông công an dắt Honda ra, đạp ga xe, rồi vợ anh ngồi lên yên sau. Anh lại cúi đầu giấu mặt. Con anh, chúng đâu? Con chó già vẫn cứ kêu hinh hích. Anh nhìn quanh. Hàng xóm nơi anh ở mặt quen không còn ai, và dẫu còn, người ta cũng chẵng thể nhận ra anh, vì anh nay chỉ còn là đống rẻ xã hội vứt ra lề đường đầy bụi gió. Anh ngồi ở gốc cây thêm một ngày. Sáng ba ngày sau, người ta vớt được xác một người, tay ôm một con chó già. Miệng chó há hốc nhưng không còn kêu gì để an ủi người chủ cũ nay đã thành xác một kẻ chết trôi không danh tánh. Chị con gái nhà lành Hà Nội, di cư vào Nam, 38 tuổi, là Dược Sĩ. Lấy chồng sớm, chị có 2 đứa con gái, đứa lớn 18, đứa kia 15. Anh là y sĩ, học tập về, đi vượt biên, hai năm nay không tin tức. Ba mẹ con quyết định đi. Có người đến dụ, thu xếp cho “đi bán chính thức”. Mất nửa số tiền dành dụm, vừa đến bãi thì bị bắt. Thời vận chưa đến, biết làm sao. Chị đi xem bói ở Thủ Đức với một bà đồng nổi tiếng. Bà vừa thấy mặt đợi chị đặt quẻ là phán ngay, tháng tới, qua ngày rằm thì sẽ chót lọt. Hậu vận tốt, bà cười, phất thì sau này nhớ tôi nhé! Thánh dậy, thế thì cố, lần này là lần thứ 5 rồi. Và quả thế, bến xuôi, bãi cũng xuôi. Lên thuyền thì nêm hơn trăm mạng người, khoang trên, khoang dưới, như cá mòi. Tài công hớn hở, bể lặng, cứ gió thế này thuyền trôi cũng đến Mã Lai. Bến bờ nào cứ đến thôi là cũng được. Một ngày qua đi, nắng cháy da, gió mặn chát và sóng xa bập bềnh. Hai ngày, máy thuyền ho khan như tức ngực, hực lên hóc phải xương kêu cùng cục, dầu không biết ở đâu chẩy ra thành một vệt nâu đen lấp loáng trên sóng. Anh tài phụ nhảy xuống, lặn xem cái chân vịt ra sao. Ngày thứ ba, thuyền xuôi theo gió, máy hư không sửa được. Chị nhìn hai đứa con, trấn an, sắp đến rồi, các con ạ! Ngày thứ tư, thuyền nhân dặn nhau, dè sẻn nước uống. Rồi thình lình trên khoang có tiếng la. Có thuyền cứu mình, bà con ơi! Chiếc thuyền lạ cập vào, tiếng chân nhảy qua, và tiếng thét, tiếng chân chạy rồi tiếng súng. Một bọn người lực lưỡng như quỉ nhà trời rơi xuống, quát tháo, moi móc tìm tiền tìm vàng. Tìm xong, chúng nhìn quanh, chọn đàn bà con gái kéo ra sau khoang. Chị nghe đứa chị lạy lục. Đứa em rú lên đau đớn. Chị nhảy tới thì một đứa nắm tóc chị giật lại, tiện chân đá thốc vào bụng dưới, mồm sổ ra một tràng thanh âm nghe như nguyền rủa. Chị gào lên, lại xô vào, nhưng một đứa khác quật báng súng vào đầu chị, miệng toác ra hềnh hệch. Trước khi chị ngất đi, chị còn thấy chiếc răng vàng cửa miệng nó lóng lánh, lóng lánh... Chị tỉnh lại, đầu băng bó nhưng máu thấm đẫm bông băng vẫn ứa ra nhễu xuống. Câu đầu chị hỏi, con tôi đâu? Hải tặc bắt đứa gái lớn đem đi, đứa nhỏ bỏ lại, nằm co quắp rên rỉ, nỗi đau đớn tủi hổ khiến nó như mất hồn, cứ lịm dần đi. Thấy người bây giờ là nó sợ. Nó chui vào lòng chị, gọi mẹ như con nít lên năm lên bẩy, được hai ngày thì nó lìa cái cõi đời khốn khổ trên chiếc thuyền chết máy lênh đênh trong lòng một đại dương không đủ rộng để cưu mang cuộc đời nó nhỏ nhoi. Chị sống, dạt vào bờ, được những kẻ đồng thuyền dìu vào trại định cư. Nhưng chị mất trí, lang thang trên bãi biển trắng xóa, miệng cứ đúng một câu hát, trên đời người trổ nhánh hoang vu, hát xong chị gọi tên con, nhìn quanh rồi lại hát, vẫn cứ đúng một câu... - Thôi, anh... Bình Minh xúc động đưa tay lên bóp trán. Chúng tôi im lặng. Nhìn ra ngoài sân khách sạn nơi tôi ở, tàn cây ngang tầm mắt chớm nắng xanh mướt. Buổi sáng trong vắt, đẩy cho trời lên cao với tiếng chim hót ríu rít bay ngang. Tôi đứng lên, rủ Bình Minh tản bộ. Đi cạnh, thình lình Bình Minh nói: - Vậy mà khi em học cấp một, cô giáo cứ nói những người vượt biên là những kẻ phản quốc đó anh! - Từ khi chiến tranh Campuchia nổ ra, số người vượt biên tăng, phần lớn đi đường biển. Theo một ước lượng, số bỏ mạng trên biển cả có thể lên đến 400.000 người. Những gia đình tan vỡ vì học tập cải tạo thì không tính được là bao nhiêu. Khi Trung Quốc đánh vào Cao Bằng-Lạng Sơn, chính quyền lại “mời” người Việt gốc Hoa hồi hương, dĩ nhiên phải để nhà cửa của cải lại. Có những người ở Việt Nam đến ba đời, vẫn phải lên đường dù một chữ Hoa bẻ đôi cũng không biết. Lại thêm một dịp hôi của, ta bắt ngay thời cơ! Thế là ba bốn năm sau Giải Phóng, lại chiến tranh. Xã hội-trại lính tiếp tục, vẫn tem phiếu, hộ khẩu, sổ gạo, sổ vải...và đầy kẻ thù, trên là bọn Bành Trướng, dưới là Khmer-đỏ Pol Pot diệt chủng. Và nhất là vô số những oan hồn! - Có khác thế được không anh? Bình Minh hỏi, giọng e dè. - Có thể được chứ! Hai lần có thể khác được, nhưng lần nào ta cũng lao vào cái lối đoạn trường như có ma đưa lối quỉ dẫn đường... Lần đầu, nếu không có cái nghị quyết 9 và con đường 559, thì không có chiến tranh. Miền Nam khi đó cũng như Nam Hàn thời 1955, đã có chút công nghiệp, và với những con người không thua kém ai, biết đâu ta cũng có khả năng làm ra xe hơi như Huyndai, TV như Samsung. Còn miền Bắc, có thể chí ít thì cũng có bom nguyên tử như Bắc Hàn tuyên bố, dẫu chuyện đó chẳng phải là điều làm cho dân hạnh phúc. Nói thế, mục đích để nhấn mạnh rằng không giải phóng miền Nam bằng võ trang thì nhân lực hai miền dồn vào việc xây dựng, và chắc chắn là xã hội Việt Nam hôm nay không thể trì trệ ở cái mức là một trong những nước nghèo nhất thế giới. Lần thứ hai, là ngay sau 75. Nếu ta bình thường được quan hệ ngoại giao với Mỹ và những nước Tây Âu năm 77, Mỹ giúp hàn gắn vết thương chiến tranh, và không có chuyện cấm vận. Trong khi đó, nếu ta thực sự thi hành chính sách hòa hợp hòa giải dân tộc thì làm gì có những trại tập trung học tập cải tạo, có vượt biên hàng mấy trăm nghìn người, và thậm chí cái chiến tranh với Campuchia và Trung Quốc cũng có thể tránh được. Thời gian năm 75, miền Nam có thua gì Thái Lan. Trong điều kiện hòa bình, chí ít thì ta cũng phát triển như Thái, mà bây giờ ta cần 15, 20 năm mới đuổi kịp cái mức Thái ngày hôm nay...Nhưng em biết rồi, Đảng lại đưa quân sang Campuchia “giải phóng”, đẩy đất nước vào chiến tranh biên giới, rồi bị cấm vận và cô lập, không biết làm gì khác hơn năm 59 là lại lập lại mô hình xã hội-trại lính... - Thế là phí mất 15, 20 năm. Và bao nhiêu oan trái đau khổ vô ích! Nhục nhã thật... Bình Minh thở ra sóng sượt, buồn so, mặt cứ cúi gầm xuống. Tôi quàng vai Bình Minh, nói với giọng cố làm vui: - Vài ba mươi năm có hề chi, lịch sử là con đường dài trước mặt! Tôi nói như để an ủi Bình Minh, nhưng chính ra cũng là để an ủi mình. Con đường dài đi làm sao khi những oan khiên mới hôm trước vẫn không thôi thúc được những tấm lòng người ngày hôm nay sống cho tử tế hơn ngay cả với những kẻ đã khuất. Bên cạnh những tượng đài Liệt Sĩ, có bao giờ những người có trách nhiệm lịch sử nghĩ đến dựng những tượng đài cho những kẻ chết oan như một cách xin họ tha cho những lỗi lầm phải trả giá bằng hàng triệu sinh mạng qua đổi dời, từ Cải Cách Ruộng Đất đến di cư, từ Giải Phóng đến di tản, từ Chiến tranh Biên giới và Cải tạo Tư Sản đến vuợt biên. Có lẽ đã đến lúc những người có trách nhiệm cao nhất trong guồng quyền lực có thể nghĩ đến một cuộc đại lễ giải oan cho toàn dân tộc. Tất cả chúng ta sẽ thành khẩn cầu cho những kẻ chết oan, chết dại, chết vô ích, chết trên rừng, trong địa đạo, chiến hào, dưới biển thẳm...siêu thoát. Nếu không hòa hợp hoà giải được với những người đã xuôi tay nằm xuống thi ai tin gì vào lời tuyên bố người Việt sống dù ở đâu cũng là da là thịt của Tổ Quốc. Thân thích của những kẻ chết oan ấy lưu lạc năm châu bốn biển. Nay họ không còn bị gọi là những kẻ phản quốc như cô giáo năm xưa não bộ bị guồng máy tuyên truyền nhào nặn nữa. Bây giờ, mới có nghị quyết 36 năm 2004, điệp khúc đầy yêu thương lập lại cho cái khúc ruột ngàn dậm của Tổ Quốc đó, bởi nó ăn nhịn để dành gửi về cho người thân trong nước độ 3 tỉ rưỡi đôla mỗi năm, và về du lịch, ăn tiêu quà cáp, tính vào thì tất cả có thể lên đến 6 tỉ [26]tức là 15% cho đến 20% tổng sản lượng nội địa. Đó là viện trợ không hoàn trả, từ những tấm lòng Việt Nam hải ngoại, rơi từ trời xuống và giúp cho Đảng quyền bính cũng dễ thở hơn, chứ không như tài trợ quốc tế, có lợi nhuận và điều kiện. Xin mở một cái ngoặc dài để nêu ra một nghịch lý oái oăm: Năm vừa qua, BBC đưa tin về Hội Nghị của nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam [27] đã kết thúc ngày 2-12-2004 tại Hà Nội. Các nhà tài trợ quốc tế cam kết sẽ cung cấp 3.4 tỉ đôla viện trợ phát triển cho Việt Nam, tăng so với 2.8 tỉ năm ngoái. Nhật là nước tài trợ quan trọng nhất, với 902 triệu đôla. Sau đến Pháp, với 444 triệu, rồi Anh, với 177 triệu Euro. Trong số tiền tài trợ, 30% là viện trợ không hoàn trả, 70% là tiền cho vay với tỉ số lợi nhuận đặc biệt. Và họ khuyến cáo là phải tăng cạnh tranh, chống tham nhũng trước khi hội nhập vào WTO. Ông Deepak Khanna, đại diện của Tổ chức tài chính quốc tế IFC ở Việt Nam, phát biểu: ‘‘Một loạt các cuộc điều tra đã khẳng định Việt Nam là điểm đến hấp dẫn đối với đầu tư. Chuyển đổi những mong ước này thành hiện thực đòi hỏi có sự cộng tác chật chẽ hơn nữa giữa chính phủ và doanh nghiệp. Còn rất nhiều việc cần làm để tinh giản thủ tục, kiềm chế tham nhũng, cải thiện cơ sở hạ tầng và tạo ra sân chơi bình đẳng đối với các doanh nghiệp nhà nước.’’ Đại sứ Đan Mạch, Lysholt Hansen, nhấn mạnh: ‘‘Cần ưu tiên cải thiện tính minh bạch trong quản lý tài chính công, phân bổ nguồn lực, mua sắm, kiểm toán, và thanh tra, quản lý khu vực công, vấn đề thu phí cho các dịch vụ công, cũng như vai trò thiết yếu của việc tự do báo chí trong đấu tranh chống tham nhũng.’’ Nghịch lý bây giờ rõ mồn một: Việt Kiều tài trợ (không hoàn lại) gấp 3,4 lần các nhà tài trợ quốc tế nói trên, nhưng lại chẳng có lời ăn tiếng nói gì trong khi đất nước vẫn là đất nước mình, còn gia đình thân thích, còn con còn cháu, nhưng trơ mắt bó tay nhìn những đảo điển, không tập hợp nổi số ‘‘vốn” bằng 15-20% sản lượng nội địa mỗi năm gửi về tạo thế đòn bẩy, và chí ít thì cũng nói được dăm lời nói có trọng lượng của lương tâm và trí tuệ. Nhưng không, những chuyên gia tài chánh và trí thức Việt Kiều ngậm tăm, chăm chỉ làm công cho các công ty tư bản Tây-Mỹ, mũ ni che tai, tập trung sức lực tìm thăng tiến cho riêng mình. Những ‘‘chính khách” hải ngoại lập chính phủ lưu vong, phát ngôn ‘‘suông” kêu gào chống này chống nọ trên internet, lời nhẹ còn hơn gió bay vèo đi trên mạng, tăm hơi nằm trong Recycle Bin đợi bấm nút Delete! Khốn khổ thay cho trí tuệ Việt Nam! Đau đớn thay cho con người Việt Nam lưu lạc, cái khúc ruột ngàn dậm, cái khúc ruột thừa, đáng ra phải có được một chức năng xứng đáng hơn trong sinh thể của Tổ Quốc?