← Quay lại trang sách

6. MÙA HÈ CỦA “CHÚ CÁO” Mark Fryers

Vào năm 1984, khi tôi vẫn còn là một cậu bé 6 tuổi, gia đình tôi chuyểnđến một thị trấn nhỏ ở phía nam nước Anh và ở đó trong suốt 20 năm. Khi tôi đi học và gặp gỡ những đứa trẻ hàng xóm, tôi nhận ra mình đã chuyển đến một nơi hứng chịu sự nghiệt ngã của một bí ẩn trêu ngươi (ít nhất là đối với một đứa trẻ chưa trải đời). Người ta nhìn lướt qua tôi, kể vài giai thoại có thật và tỉ tê những lời đồn hoang đường về sân trường. Tất cả hung đúc trong tâm trí tôi sự bí ẩn về một nhân vật khó nắm bắt, gọi đơn giản là “chú Cáo”. Chú Cáo tránh sự truy bắt và đánh lừa cảnh sát, gần giống như một anh hùng trong truyện tranh. Hắn như một người bí ẩn. Khi tôi lớn lên và dần lắp những mảnh ghép sự thật lại với nhau, bức tranh mơ mộng hoàn toàn tan vỡ và nỗi kinh hoàng thật sự về sức ảnh hưởng của chú Cáo dần ập vào tâm trí tôi, khiến tôi bị cuốn vào vòng xoáy mông lung và huyền bí đến phức tạp. Từ đó, chú Cáo ám ảnh tôi. Nhưng đối với những ai có mặt vào mùa hè năm đó, những sự kiện khiến người ta hoang mang và sợ sệt trong thị trấn nhỏ này và các vùng ngoại ô xung quanh là những vết nhơ không thể nào gột sạch.

Thị trấn Leighton Buzzard, cách phía bắc thủ đô London khoảng 64km, nằm ở vùng thôn quê Bedfordshire sinh động, không xa khu đồi Chiltern và nơi xảy ra “Vụ cướp xe lửa vĩ đại” vào những năm 1960. Giới báo chí quốc gia đã tốn không ít giấy mực cho sự kiện đó trong nhiều năm. Cho đến khi mùa hè định mệnh năm 1984 trở thành mối giao nhau của “tam giác nỗi sợ”. “Chú Cáo” được đề cập ở trên là một tên tội phạm, một kẻ cắp và một tên lạm dụng tình dục ti tiện. Cái tên đã nói lên tất cả, bản chất xảo quyệt giúp hắn lẩn trốn trong sức ảnh hưởng của nỗi kinh hoàng từ tháng Ba năm 1984, trong một khu tam giác tội phạm, tiếp giáp biên giới của ba hạt xung quanh London ở đông nam nước Anh - Hertfordshire, Bedfordshire và Buckinghamshire,cho đến khi hắn bị bắt vào tháng Chín.

Mùa hè dai dẳng và nóng nực năm 1984 lúc đầu không khác biệt mấy so với mùa hè của những năm trước. Thị trấn Leighton Buzzard hầu như không nằm trong sự kiện phản đối hạt nhân ở căn cứ Greenham Common, cũng như tin tức cuộc đình công của thợ mỏ do hạt phóng xạ tiếp tục “làm mưa làm gió” trên các tiêu đề báo chí quốc gia trong năm đó. Thật vậy, nó đe dọa đến hầu hết những người bị dị ứng phấn hóa, như cánh đồng cải dầu vàng tươi dịu dàng ngả nghiêng phủ khắp vùng nông thôn và sắp đến ngày thu hoạch. Ngay cả khi chú Cáo bắt đầu chuỗi ngày phạm tội, không mấy ai biết nỗi kinh hoàng đó sẽ đến mức nào, chỉ biết rằng sau đó, nó đã hủy hoại thị trấn Leighton Buzzard, cũng như những ngôi làng và thôn xóm im lìm xung quanh. Mặc dù hình thức tội phạm tương tự đã từng xuất hiện, nhưng ngay từ đầu, không mấy ai biết gì về một kẻ tấn công hàng loạt đang tự do làm bậy.

Cảnh sát đoán chừng chú Cáo bắt đầu chuỗi ngày tội ác với những vụ trộm liên tiếp vào tháng Ba năm 1984. Tội ác nghiêm trọng đầu tiên xảy ra vào ngày 11 tháng Tư ở khu Linslade (thị trấn Leighton Buzzard). Một góa phụ 74 tuổi bị một người đeo mặt nạ đánh thức và hành hung một cách khiếm nhã. Tuy nhiên, bà đã chống trả, khiến hắn “bỏ của chạy lấy người”. Đây là dấu hiệu đầu tiên cho thấy tên tội phạm, sau này được biết với tên chú Cáo, cũng sợ sệt và lém lỉnh như “đồng loại” của hắn.

Chú Cáo “lặng” đi một thời gian, thực hiện một loạt vụ trộm khác trong khu vực, ngoài ra thì không làm gì nữa. Cho đến một tháng sau, có lẽ hắn tự tin rằng cuộc chạm trán trước đó chỉ là một “phép thử”. Vào ngày 10 tháng Năm, chú Cáo đột nhập vào nhà của ngôi làng Cheddington trong khu vực. Những gì lúc trước diễn ra như “cơm bữa” thì bây giờ đã có một bước ngoặt đáng kể. Sau khi trộm 300 bảng Anh, chú Cáo vô tình thấy một khẩu súng ngắn và băng đạn. Tên tội phạm xảo quyệt trở nên táo bạo khi bây giờ hắn đã sở hữu một món vũ khí đáng sợ hỗ trợ cho những “chuyến săn đêm”. Cũng giống những tên tội phạm khác, với sự hỗ trợ của súng, mặt nạ và bóng đêm “làm bạn”, chú Cáo như tìm được can đảm mà trước nay hắn đã bỏ quên đâu đó.

Không rõ chú Cáo ở trong nhà bao lâu để vuốt ve “món đồ chơi mới”, nhưng cảnh tượng hắn chờ đợi chủ nhà khi anh ta trở về muộn trong tối hôm đó thật lạnh xương sống. Người chủ nhà 35 tuổi đối mặt với việc cả vũ khí và băng đạn của anh ta đã “rơi vào tay” chú Cáo đeo mặt nạ. Đây không phải là chiếc mặt nạ bình thường, mà là một loại mặt nạ tự chế được làm tự một chiếc quần cũ, với những cái lỗ cho mắt, mũi và miệng. Hiếm ai có thể tưởng tượng bộ mặt xấu xa đó sẽ trông như thế nào dưới ánh trăng mùa hè mờ ảo.

Chú Cáo trói chủ nhà lại, sau đó hắn thản nhiên xem phim khiêu dâm để “giết thời gian”. Có lẽ lối “hành sự” kiểu này sẽ đặt dấu chấm hết cho cuộc đời của chú Cáo và những kẻ giống như hắn. Nhưng chỉ khi thấy khẩu súng ngắn đó, lòng tự trọng đáng thương của hắn mới trỗi dậy (theo lời bào chữa của mình, hắn mô tả bản thân có “một nhân cách rất khiếm khuyết”) và văn hóa phẩm khiêu dâm đẩy hắn chìm vào những xu hướng tình dục lệch lạc. Hắn cố hắng một cách vụng về, tấn công tình dục anh chủ nhà kiệt sức đang bị trói. Sau đó, luật sư lý giải rằng thân chủ của ông đang thử bắt chước những gì thấy trong cuốn băng video, như thể đây là chuyển biến hợp tình hợp lý. Tuy nhiên sau đó, năm báo cáo độc lập chỉ ra rằng hắn thực sự có vấn đề về xu hướng tình dục.

Đoán chừng đã đến lúc, chú Cáo rời khỏi nhà và chôn vũ khí đã sử dụng sau này. Rõ ràng và thật may mắn khi hắn không bao giờ tìm được chúng nữa. Nhưng những thử nghiệm âm thầm của hắn với súng và sự lệch lạc tình dục đến đây vẫn chưa kết thúc.

Giống như một con thú săn mồi đang tiêu hóa một bữa no nê và tạm thời thỏa mãn, chú Cáo “án binh bất động” trong gần một tháng, nhưng hắn lại tiếp tục “hành sự” như thường lệ - đi loanh quanh thị trấn nhỏ để ăn trộm, Mặc dù các nhà chức trách không biết rõ mối liên hệ giữa những sự cố ngày càng nghiêm trọng, nhưng chính sự mơ hồ đó đủ khiến người dân phải lo sợ.

Bây giờ, mùa hè đang len lỏi vào thị trấn. Vào ngày mùng 6 tháng Sáu, chú Cáo “tái xuất”,địa điểm lần này là một nơi cách con đường ở phía trên thị trấn Tring (hạt Hertfordshire) 18km. Đột nhập vào một ngôi nhà vắng chủ, hắn lại vô tình tìm được một khẩu súng ngắn và vài băng đạn. Hắn dùng một chiếc cưa kim loại lấy từ ngôi nhà đó để cưa bỏ phần cuối của khẩu súng, biến nó trở thành thứ vũ khí mà hắn muốn. Các nạn nhân phải đối diện với thứ vũ khí này, cũng như chiếc mặt nạ tự chế dữ tợn của kẻ cưỡng hiếp.

Trong nhiều năm, tôi cũng như những người khác cho rằng người ta gọi hắn là chú Cáo bởi bản tính khó nắm bắt và xảo quyệt. Tuy nhiên, hắn lại dính lấy cái tên chú Cáo bởi một đặc tính đáng ghê tởm khác. Lần đầu tiên, xu hướng này thể hiện rõ ràng khi một “chuyến săn” khác bắt đầu. Một buổi chiều muộn ngày mùng 8 tháng Sáu, chú Cáo đột nhập vào ngôi nhà vắng chủ của một cặp vợ chồng ở làng Heath và Reach, kế bên thị trấn Leighton Buzzard. Nhưng thay vì tìm kiếm những thứ có giá trị (mặc dù hắn đã lấy 130 bảng Anh), hắn cắt dây điện thoại, tháo bóng đèn và phủ chăn lên nội thất thành một “hang ổ” trong nhà để xem băng video mà không bị phát hiện. Hắn tự lấy đồ ăn và thức uống trong nhà bếp, thậm chí còn pha một tách trà. Biệt danh phạm tội của hắn có từ việc hắn dựng hang ổ như trẻ con trong nhà nạn nhân. Bên cạnh khẩu súng chôm được và chiếc mặt nạ, chiếc áo ngoài có mũ trùm đầu trở thành một phần không thể thiếu trong trang phục “đi săn” của hắn. May mắn thay, hai vợ chồng về nhà và làm chú Cáo sợ hãi, nhưng “số” của cặp đôi tiếp theo thì không “đỏ” như vậy.

Cũng buổi tối hôm đó, chú Cáo đi ngang qua một khu đất canh tác, tới thị trấn Leighton Buzzard và đột nhập vào nhà của một cặp vợ chồng đang say giấc. Anh chồng tỉnh dậy và bắt gặp bóng dáng ma quái của chú Cáo với ánh đèn ngủ mờ ảo hắt lên trong phòng. Chú Cáo lại bị giật mình khi thấy anh ta ngồi dậy trên giường, đến nỗi súng trên tay hắn bị cướp cò (sau đó hắn bị bắt phải thề là không cố ý). Mảnh đạn ghim vào bàn tay anh chồng khi anh đưa tay lên tự vệ. Hắn thực sự hèn nhát khi không chỉ để một người đàn ông bị thương rượt theo phía sau, mà còn “bỏ của chạy lấy người”. Hắn bỏ lại những “chiến lợi phẩm” trộm được từ hiện trường của những “chuyến săn” trước đó - chiếc áo ngoài có mũ trùm đầu và một gói đậu phộng.

Một lần nữa, hắn lại tự hù mình và rơi vào tình trạng nửa tỉnh nửa mê trong vài tuần. Trong cơn mê man, hắn hầu như thấy mình “tham gia những phi vụ” trộm cắp khá trần tục vào ban ngày. Ngược lại, bây cảnh sát trở nên cảnh giác cao độ khi họ biết rằng mình đang phải đối mặt với một tên tội phạm có trang bị vũ khí và có ham muốn tình dục bạo lực. Ban đầu, họ nghĩ rằng tội ác đáng sợ xuất hiện vào nửa đầu tháng có chút nghiêm trọng. Rồi một sự kỳ quặc đến ớn lạnh hiện ra rõ ràng - chú Cáo lấy những tấm ảnh của nạn nhân nữ trong cuốn album ảnh và nhìn chúng chăm chú.

Vào thời điểm hắn tiếp tục gây án, đó là ngày mùng 6 tháng Bảy, mùa hè đang bắt đầu nóng lên. Đây là thời điểm lũ trẻ được nghỉ học và điều đó khiến cha mẹ chúng trở nên lo lắng hơn. Mặc cho đợt nắng nóng đang từ từ lan tỏa, cảnh sát khuyến cáo người dân khỏa cửa sổ tầng dưới vào mỗi tối. Lời khuyên này cũng chẳng an ủi được nhiều người dân địa phương sống trong ngôi làng bungalow12 và căn hộ tầng dưới là bao. Cảnh sát cũng cảnh báo về “sự nhanh nhẹn đặc biệt” của chú Cáo. Họ quan tâm đến thủ pháp gây án của hắn - thu thập những sợi dây thừng nhỏ, dây giày và những vật dụng khác thường tìm được quanh nhà rồi dùng chúng để trói những nạn nhân xấu số tiếp theo. Họ cũng phán đoán chính xác rằng tên tội phạm này am tường từng ngóc ngách của địa phương. Hóa ra, trước khi chọn địa điểm gây án tiếp theo, hắn khảo sát khu vực từ sường đồi Ivinghoe Beacon (sau này xuất hiện trong những bộ phim Harry Potter và Chiến tranh giữa các vì sao).

12.Theo hướng nghiệp Á-Âu, ngôi nhà bungalow là kiểu nhà diện tích nhỏ, một tầng, có xuất xứ từ Ấn Độ vào thế kỷ XVII. Cái tên “bungalow” ban đầu được gọi là “bangla” - từ gốc Ấn Độ để chỉ “một túp lều nhỏ” cho những người dân chăn nuôi. Ở Anh, hầu hết các ngôi nhà một tầng đều được gọi là bungalow.

Nỗi sợ khủng khiếp nhất của cảnh sát đã được chứng thực. Tiếp theo, chú Cáo đột nhập vào một ngôi nhà ở Linslade vào buổi sáng sớm tinh mơ, trói một cặp đôi trẻ tuổi và tấn công tình dục người phụ nữ trước khi hắn bị tiếng hét của cô ta dọa cho sợ hãi bỏ chạy. Tuy nhiên, điều này không làm hắn nhụt chí quá lâu. Hai ngày sau, hắn đột nhập vào một ngôi nhà khác trong cùng khu vực. Lần này là nhà của một cặp đôi đã có con cái. Họ “nín khe chịu trận” trước họng súng. Người vợ bị hắn dùng súng đánh cho bất tỉnh. Ngôi nhà của gia đình xấu số này ở rìa của một khu vực đẹp như tranh vẽ có tên Bluebell Woods. Tôi nhớ là vào năm sau, chuyến đi chơi của một trường trung học cơ sở được tổ chức ở đó. Đêm ấy, chú Cáo thành công tẩu thoát khỏi sự truy bắt của 120 viên cảnh sát, đến chó cảnh vụ cũng không đánh hơi được hắn. Có lẽ chuyện này đã làm dấy lên tin đồn mà tôi nhớ từng được nghe khi còn nhỏ: cảnh sát đã bẫy chú Cáo ở cả hai đầu của đường hầm đường sắt Leighton-Linslade, nhưng hắn vẫn trốn thoát được.

Một tuần sau, vào rạng sáng ngày 13 tháng Bảy, hắn lại gây án. Hiện trường gây án lần này là một ngôi nhà ở Edlesborough, cách thị trấn Leighton Buzzard 11km. Đây là vụ án lớn nhất, kéo dài nhất và khét tiếng nhất. Những nạn nhân trong nhà gồm một cô gái 18 tuổi, anh bạn trai 21 tuổi của cô và đứa em trai 18 tuổi của cô. Chú Cáo trang bị đầy đủ mặt nạ và khẩu súng. Hắn nằm chờ đợi, cho đến khi đứa em trai đứng dậy đi vệ sinh và hai người chạm mặt. Tiếp theo, cô chị gái nghe thấy tiếng động. Cuối cùng, cả ba bị bao vây và bị đe dọa trước họng súng. Hai người thanh niên bị trói trên sàn nhà, còn cô gái nằm trên giường với chiếc áo gối phủ lên đầu. Hắn bỏ mặc cả ba người đang kinh hãi, trong khi hắn, một lần nữa, tự pha cho mình một tách trà - một sự tàn ác trái ngược với truyền thống cổ xưa của Anh. Hắn quay trở lại và cưỡng hiếp cô gái một cách dã man.

Cảm thấy không thỏa mãn, nên hắn đã cố ép hai thanh niên làm điều tương tự như hắn đã làm với cô gái, nhưng họ không làm được. Dường như họ bị tê cứng vì sợ hãi và kinh tởm. Hắn cảm thấy thỏa mãn khi để những người đàn ông làm vậy và có lẽ cuối cùng, hắn cũng hài lòng. Hắn đã đánh cắp một số đồ dùng cá nhân và bỏ trốn khỏi hiện trường. Ít nhất, nói tới đây, hắn đã thể hiện dấu hiệu ăn năn. Như những gì hắn khai nhận sau đó, hắn phá hủy khẩu súng và thề sẽ chấm dứt những ham muốn tình dục bạo lực.

Mặc dù rất hoảng sợ, nhưng cô gái đã dũng cảm kể lại câu chuyện với giới báo chí. Cô nói rằng hôm sau, cô và gia đình đã đến một quán rượu địa phương vì thông tin của cô đã được bảo mật. Cô nói, “Cố giam cầm bản thân cũng vô ích.” Chuyện này cũng dễ hiểu, nếu cô ấy phải trải qua một chuyện kinh khủng như vậy. Cô ấy mô tả đơn giản là mình chỉ chờ chết, và hành động tàn bạo của chú Cáo đối lập với giọng nói nhẹ nhàng bình tĩnh ra lệnh ẩn sau lớp mặt nạ. Cô cho rằng không nạn nhân tiếp theo nào có thể cố chống trả lại tên tội phạm này, với lý do, “Vượt qua thời khắc bị cưỡng hiếp dễ hơn so với đưa ai đó trở về từ cõi chết.” Đối với nhiều phụ nữ trong khu vực khi đọc được những dòng này, họ liên tưởng chúng có lẽ giống như Lựa chọn của Sophie13 - cô gái rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan.

13. Trong tác phẩm, Sophie bị ép phải lựa chọn để con gái hoặc con trai của mình tiếp tục sống. Với tình thế cân não đó, Sophie đành cắn răng đau khổ hi sinh con gái.

Cũng trong thời điểm này, thị trấn nhỏ Leighton Buzzard không chỉ là tâm điểm của làn sóng tội phạm kinh hoàng, mà mọi người ngày càng trở nên rối loạn khi không ai cảm thấy an toàn trước hành vi nhiễu nhương và nhục nhã của tên tội phạm ấy. Trước đó, một kỳ án mặc dù diễn ra trong một khoảng thời gian căng thẳng hơn nhiều, nhưng sức ảnh hưởng khủng khiếp ở thập kỷ trước của tên hiếp dâm và giết người khét tiếng Peter Sutcliffe - còn được gọi là “Đồ tể vùng Yorkshire” (Yorkshire Ripper) - vẫn còn âm vang rợn người. Trong nhiều năm gây án, gã không bị bắt, một phần là do cách thức giải quyết vụ án sai lầm của cảnh sát. Trớ trêu thay, các chuyên gia từ vụ án đó đã được điều đến để hỗ trợ cảnh sát khắp ba hạt, bao gồm cả việc sử dụng một hệ thống điện toán hóa để ghi lại và tham khảo chéo những báo cáo. Từ giữa tháng Bảy trở đi, cảnh sát cũng thường xuyên trưng dụng một máy bay trực thăng quân đội Lynx để khảo sát khu vực. Âm thanh của nó phát ra hàng đêm như báo một điềm gở cho cư dân trong khu vực, không khác gì tiếng còi báo động tránh bom trong cuộc oanh kích Blitz.

Nỗi sợ sệt nhường chỗ cho sự hoang tưởng và hoang mang. Những hành động của người dân thị trấn Leighton Buzzard và khu vực xung quanh cũng dễ hiểu, vì họ đang bảo vệ gia đình mình. Tôi nhớ một người bạn học đã tự hào nói rằng cha cậu - người trông coi một trong những trường trung học cơ sở (trường cũ của tôi) ở địa phương - đã xây dựng tạm những chiếc bẫy treo trên cửa sổ trong ngôi nhà bungalow ở khuôn viên trường học. Những chiếc bẫy treo này chủ yếu bao gồm ô tô và hình vẽ đồ chơi của cậu và anh trai cậu. Mục đích là báo động cho những người trong nhà biết có kẻ xâm nhập gia cư bất hợp pháp và có lẽ khiến hắn giật mình khi thấy tràn ngập những hình ảnh của phim Chiến tranh giữa các vì sao và Chúa tể vũ trụ. Một người dân của Edlesborough chia sẻ cách anh buộc dây xung quanh tay nắm cửa ngôi nhà và nằm chờ trong phòng ngủ với lon, chai và những đồ vật khác để “tập kích” bất kỳ kẻ xâm nhập gia cư bất hợp pháp nào.

Những người cao tuổi sống một mình trong ngôi làng nói, “Tôi quá sợ hãi, đến nỗi không tài nào chớp mắt được. Mỗi tiếng động trong đêm đều rất đáng sợ. Hắn dường như nắm rõ mọi ngóc ngách trong làng. Điều này khiến người dân chúng tôi rất lo lắng.” Hàng xóm của bà đồng tình, người này mô tả cả thử thách như khiến người ta “chết điếng”. Một kỷ nguyên mở ra cùng tai ương giáng xuống con người; ngoài sức mạnh hạt nhân hủy diệt có thể đe dọa tới sự sống, chú Cáo khiến nỗi sợ hãi càng thêm rõ ràng và đưa nó đến “gõ cửa” từng nhà.

Có vẻ chính chú Cáo đã gây ra những tội ác này. Mặc dù báo cáo nói rằng tỷ lệ tội phạm nói chung đã giảm, vì những tên trộm “bình thường” không muốn bị tình nghi thực hiện những vụ án kinh hoàng đã xảy ra và khiến người dân thêm sợ hãi. Một số đống rơm rạ đã bị đốt cháy trong hàng loạt những cuộc tấn công đốt phá nhử mồi này hoặc là do chú Cáo thực hiện hoặc là một hình thức để tiêu diệt những sĩ quan tay trong đang ẩn mình, nhưng những suy nghĩ này đã sớm bị loại trừ. Đám cháy đã gây ra thiệt hại trị giá một phần tư triệu bảng Anh và chắc chắn “sau cơn mưa trời lại sáng”, ánh sáng khải huyền sẽ đến sau những điều khủng khiếp đã xâm chiếm nơi đây. Những đám khói cuồn cuộn bao trùm vùng nông thôn không chỉ mang ý nghõa là những góc khuất đằng sau nhân vật chú Cáo, mà còn là tâm lý hoang mang chung của người dân địa phương.

Người dân đã “tẩu tán” hết sạch khóa và thiết bị bảo mật trong những cửa hàng phần cứng. Bên cạnh đó, những cửa hàng buôn súng ở địa phương cũng “mua nay bán đắt”. Nhiều người dân cảm thấy họ có quyền bảo vệ bản thân và những người thân yêu khỏi những tổn thương có thể xảy ra. Sau cùng, nếu chuyện này vẫn tiếp diễn, các vụ án mạng có thể xảy ra dài dài trong tương lai. Những lời phát biểu của Tổng giám đốc Điều tra Brian Prickett khó lòng trấn an sự sợ hãi của người dân. Trong một buổi họp báo, ông tuyên bố, “Chúng tôi đang chờ đợi hắn gây án lần nữa, tuy nhiên chúng tôi đang làm tất cả mọi thứ để ngăn chuyện đó xảy ra. Hắn bắt đầu phạm tội trộm cắp, sau đó là bạo lực và tiếp đến là tấn công tình dục. Mỗi hành vi phạm tội cho thấy hắn có xu hướng ngày càng bạo lực.”

Mặc dù lời nói đó làm tăng thêm nỗi sợ hãi trong lòng người dân, nhưng ông cũng cảnh báo người dân không được dùng “luật rừng”, đặc biệt là hành vi công lý tự xưng. Với số lượng súng ngắn đã được bán ra, lời cảnh báo đó cũng không có gì quá đáng. Tương tự, lời nói từ người cha của một trong những nạn nhân trẻ tuổi đã nhận được sự hưởng ứng từ một cộng đồng đang chìm trong lo sợ nhưng cũng tràn đầy lòng căm phẫn, “Tôi hi vọng và cầu nguyện rằng cảnh sát sẽ không thể bắt sống tên này. Hắn đáng bị bắn. Nếu không ai khác làm được thì tôi sẽ không ngần ngại mà bóp cò thay đâu.”

Việc thiếu thông tin và sự minh bạch chỉ đổ thêm dầu vào lửa và khiến hiểu lầm ngày càng chồng chất. Trên thực tế, phóng viên báo chí đã tự “thêm mắm dặm muối”. Lúc bấy giờ, cảnh sát mô tả điều đó “dễ kích động, gây hiểu lầm và thiếu chính xác”. Cũng chính báo chí đặt cho hắn biệt danh “chú Cáo”. Điều này đã thu hút sự quan tâm của những bác sĩ tâm lý tham vấn cho vụ án. Họ tin rằng biệt danh này có thể lôi cuốn cái tôi của tên tội phạm và khiến hắn phạm tội nhiều hơn.

Do đó vào giữa tháng Bảy, cảnh sát kêu gọi người dân gọi điện thoại đến số 999 (số điện thoại khẩn cấp của Vương quốc Anh) ngay khi họ nghe thấy bất cứ tiếng động gì đáng ngờ. Tuy nhiên, cảnh sát cũng sợ gặp phải tình trạng báo động giả. Sau đó cảnh sát đã nhận được báo cáo sau những sự cố muộn màng, nên họ không kịp xử lý chúng.

Có lẽ cảnh sát đã phải hối tiếc khi xử lý mọi chuyện quá muộn, vì nó kéo theo một loạt báo động giả. Đến ngày 20 tháng Bảy, cảnh sát nhận 20-30 cuộc gọi mỗi buổi tối mà không thu được kết quả gì. Những báo cáo khác ước tính có gần 100-200 cuộc gọi/giờ tại trụ sở Dunstable (mặc dù đến ngày 20 tháng Tám, con số này đã giảm xuống còn 30 cuộc một ngày). Cảnh sát sớm đánh giá thấp những báo cáo về một tên tội phạm cưỡng hiếp khó hiểu, bị kết án và trốn khỏi một bệnh viện tâm thần vào tháng Sáu. Một báo động giả xảy ra khi người dân nghe thấy tiếng động, nhưng hóa ra là tiếng của những con nhím đang giao phối trong khu vườn phía sau. Trong một sự cố khác, cảnh sát được gọi về việc một người đàn ông nổ súng về phía cửa sổ, sau khi anh ta nghe thấy một tiếng động nào đó.

Mặc cho những chuyện đã xảy ra, cảnh sát đã làm việc chăm chỉ để bắt chú Cáo (cuộc điều tra có biệt hiệu là “Chiến dịch Đậu phộng”), với lời đề nghị gặp hung thủ trên sóng truyền hình. Vào lúc tội ác của chú Cáo lên đến đỉnh điểm, một giám đốc điều tra cho biết ông sẽ chuẩn bị gặp chú Cáo “ở giữa vùng hoang dã hoặc trong một quán rượu đông đúc”. Ông cũng nói thêm rằng nếu cần, ông sẽ chỉ mặc mỗi quần lót để chứng minh ông không đem theo vũ khí. Ông nói thẳng với chú Cáo, “Tất cả những gì mà chúng tôi muốn làm là ngăn anh phạm tội giết người và những tội ác nghiêm trọng khác. Tôi không tin anh là một người nhẫn tâm, nhưng tôi sợ anh sẽ giết ai đó nếu anh đang hoảng sợ và tất nhiên, chúng tôi muốn ngăn chặn điều này.”

Bên cạnh đó, cảnh sát đã lập hồ sơ của nghi phạm giết người. Mặc dù rất nhiều nạn nhân mô tả hắn nói giọng miền bắc (chính xác là như vậy), cảnh sát lý luận rằng có lẽ hắn cố tình dùng giọng miền bắc để gạt mọi người. Một sĩ quan cảnh sát cao cấp đặt ra giả thuyết hắn có lẽ là một người “cư xử bình thường vào ban ngày, thậm chí đến tối hắn sẽ về nhà với vợ và gia đình”. Một phỏng đoán không đúng khác là nghi phạm này là “một kẻ cô đơn và thất ngiệp”. Có thể hắn sống lặng lẽ trong một cộng đồng cùng với người mẹ già và còn đang độc thân.

Vào thời điểm đó, đặc điểm “một kẻ cô đơn và thất nghiệp” có khả năng gây kích động và ảnh hưởng đến chính trị xã hội. Trong giai đoạn này, người dân ở Anh thất nghiệp hàng loạt và những người thợ mỏ ưu tú khắp đất nước tham gian vào trận chiến ý chí về chính trị với chính phủ cầm quyền (thực sự, nhiều cảnh sát đã được triệu tập để đảm bảo trật tự cho nhóm thợ đình công và tham gia vào “chuyến săn” của chú Cáo). Một tên tội phạm với hồ sơ như vậy có nguy cơ đe dọa tính mạng của “một biển người” nam giới trưởng thành. Vào tháng Mười hai năm 1984, một bài báo tổng hợp để minh họa những sự kiện thật hoàn chỉnh đã được đăng trên tờ Guardian. Hai tháng sau khu chú Cáo “bị tóm”, báo cáo của một nghiên cứu đại học được công bố trên tạp chí y khoa Lancet cho biết “những người đàn ông thất nghiệp thường chết sớm hơn”.

Một lưu ý không mấy liên quan nhưng thú vị là hồ sơ kẻ tình nghi không khớp với vụ án của chú Cáo, nhưng nó hoàn toàn phù hợp với hồ sơ của tay xả súng hoàng loạt Michael Ryan. Hai năm sau khi chú Cáo bị kết án vì tội ác rùng rợn ở thị trấn nhỏ và làng mạc giáp ranh với hạt Hertfordshire, một thị trấn nông thôn im ắng khác ở hạt Hertfordshire chứng nhân cho một thế lực sặc mùi kinh dị hơn nhiều. Vào sáng ngày 19 tháng Tám năm 1987, Ryan - một kẻ cô đơn và thất nghiệp, sống với mẹ - thức dậy, bắt đầu xả súng bừa bãi và giết chết những người dân địa phương, bao gồm cả mẹ ruột của mình ở khu thị trấn nhỏ bé giàu truyền thống lịch sử. Gã trang bị một khẩu súng ngắn và hai khẩu súng trường bán tự động, sau đó tự nạp đạn hai khẩu súng đó và bóp cò. Ryan bị ám ảnh bởi súng cầm tay và các vật dụng quân sự khác. Vụ án của gã trực tiếp dẫn đến Tu chính án về súng cầm tay vào năm 1988. Tu chính này cấm sở hữu súng trường bán tự động và súng trường nạp đạn bằng kiểu bơm, cũng như thực hiện các biện pháp kiểm soát khác.

Trong khi những tội ác của chú Cáo là một bí ẩn mà tôi dần dần khám phá ra sau nhiều năm, tôi nhớ rõ ràng tin tức về hạt Hungerford phủ sóng khắp nơi và xuất hiện trùng với sinh nhật lần thứ 9 của mình. Hòa cùng mọi người dân trên khắp đất nước, cả gia đình tôi dán mắt vào màn hình tivi. Mọi người không tin lắm, nhưng vẫn có niềm đam mê “Kỳ quặc” với những chi tiết pháp lý về tội ác thực sự và những tội phạm gây án. Liệu chúng ta chỉ đơn giản là cho hung thủ danh tiếng và sự chú ý mà họ khao khát sau khi chết, hay nếu chúng ta hiểu biết nhiều hơn thì sẽ hiểu rõ hơn động cơ và ý định gây án cũng như có những biện pháp phòng ngừa tốt hơn? Những câu hỏi như vậy ở thời điểm hiện tại thậm chí còn phổ biến hơn so với 30 năm trước.

Mặc cho người dân hoang mang và kích động vào thời điểm đó, cảnh sát cuối cùng cũng “giăng lưới” sắp bắt được chú Cáo. Một lần nữa, “bổn cũ soạn lại” - hắn tấn công, bỏ chạy và án binh bất động trong một khoảng thời gian, thỏa mãn với những vụ trộm sau này và tiếp đến là thị trấn Milton Keynes (cách con đường ở phía trên thị trấn Leighton Buzzard khoảng 19 km). Sau đó, hắn tới con đường, rồi đi đến phía bắc nước Anh. Cảnh sát (hoặc bất kỳ ai khác vào thời điểm đó) không hề hay biết hang ổ thực sự của chú Cáo là Sunderland ở miền đông bắc nước Anh.

Quyết định gây án ở một địa điểm mới sẽ là hành vi tội lỗi cuối cùng của hắn. Mặc dù hắn quyết tâm dừng lại, nhưng vào ngày 17 tháng Tám hắn lại gây án. Khi đi qua South Yorkshire, hắn tấp xe vào lề đường cao tốc, đậu nó trong một khu vực nhiều cây cối. Sau đó, hắn đi bộ đến làng Brampton-en-le-Morthen, đột nhập vào một ngôi nhà, trói một cặp vợ chồng và tấn công tình dục người vợ. Một lần nữa, điều này không đủ thỏa mãn hắn, vì vậy hắn lái xe xa hơn về phía bắc, đến Peterlee và hành hung một người phụ nữ khác ngay trong nhà của cô. Chú Cáo đã có biểu hiện cân nhắc của chứng rối loạn nhân cách chống đối xã hội trong lần tấn công gần nhất này. Hắn lấy đi một mảnh drap trải giường dính tinh dịch từ lần tấn công tình dục đầu tiên để tránh bị phát hiện DNA thông qua hồ sơ mẫu máu (không được sử dụng rộng rãi vào thời điểm này). Mức độ tính toán ấy cùng những thủ đoạn rõ ràng, xảo quyệt và được dự trù từ trước sẽ biến hắn thành thằng hề, nếu hắn tự bào chữa cho mình là một kẻ ngờ nghệch, ngu ngơ.

Cảnh sát đã phát hiện găng tay, mặt nạ và khẩu súng (mà hắn đã chôn) được sử dụng trong những vụ tấn công ở miền bắc có dấu vân tay hắn, nhưng chính chiếc xe sẽ tố cáo tội ác của hắn. Khi chú Cáo một lần nữa đi về miền nam để tiếp tục những “chuyến săn đêm”, cảnh sát đã tìm thấy một miếng sơn bong ra trong chiếc xe bị vứt bỏ tạm thời của hắn. Họ xác định nó thuộc về một mẫu xe Leyland của Anh có màu vàng óng. Chứng cứ này chưa đủ thuyết phục và là nhiệm vụ rất khó trong giai đoạn này, nhưng họ có thể bắt đầu khoanh vùng nghi phạm. Chuyến đi của chú Cáo đến miền bắc đã giúp họ có chứng cứ ấy. Cảnh sát bắt đầu tin rằng nghi phạm có thể không phải người địa phương, nhưng có khả năng hắn là một công dân bình thường, đến và đi trong khu vực phạm tội và điều này đã được chứng minh là đúng.

Trước khi bị bắt, chú Cáo cố “thêm thắt” trong thủ pháp gây án những vụ trộm và tấn công đã được cảnh sát thiết lập trước đó. Hắn đột nhập vào nhà của một người phụ nữ đang ngủ ở thị trấn Milton Keynes và dùng dao đe dọa cô ấy (sau khi đã chôn súng ở miền bắc), nhưng hắn buộc phải chạy trốn khỏi hiện trường khi cô ấy “nổi trận lôi đinh” chống trả lại. Khẩu súng bảo vệ, hay nói cách khác là nguồn sức mạnh tiếp thêm cho hắn (chúng ta phải nói bao nhiêu lần về điều này ở những kẻ “săn mồi” và kẻ giết người nhỉ?) chỉ là thứ khiến hắn tự huyễn hoặc mình.

Đến lúc này, cảnh sát đã bắt đầu “vén bức màn bí ẩn” về chú Cáo ma mãnh bằng các biện pháp nghiệp vụ - từ từ loại trừ những chủ sở hữu xe không thuộc diện tình nghi - cùng với một phương án “đi tắt”. Một tài xế xe tải là nhân chứng có lợi cho việc điều tra những vụ án xảy ra ở miền bắc. Trong quá trình thôi miên, ông nhớ có một chiếc xe hơi tấp vào đường cao tốc ở thời điểm xảy ra vụ án, xác định được kiểu dáng và mẫu mã. Điều quan trọng là ông nhớ lại một phần của biển số đăng ký tại hạt Durham.

Điều này giúp xác định chính xác chiếc xe, nhưng không nhất thiết nghi phạm phải là chủ sở hữu chiếc xe…Một chiếc xe bị trộm từ Luton ở hạt Bedfordshire được tìm thấy cách Brampton 32km, hóa ra là một nhầm lẫn khác. Trong quá trình loại trừ, cảnh sát thông qua hệ thống máy tính, tham gia vào một cuộc kiểm tra chéo chi tiết và kéo dài, sau cùng họ kiên nhẫn loại trừ hơn 300 nghi phạm bằng cách đọc lời khai bốn lần, sau đó kiểm tra thông tin giữa máy tính và hệ thống lưu trữ hồ sơ. Một bài báo đăng vào ngày 20 tháng Tám đề cập cảnh sát phải đối mặt với những khó khăn trùng trùng. Bài báo viết, “Họ đã có nhóm máu của hắn… Bảng điều tra cho thấy hắn không uống rượu bia, không hút thuốc lá và bàn tay hắn nhẵn nhụi. Họ cũng có hàng trăm dấu vân tay. Vấn đề là phân loại vân tay nào là của ai.”

Họ làm việc chăm chỉ và cẩn thận như muốn phần nào bù đắp cho những thất bại trong quá khứ, nhưng không một ai có thể chê trách sự tận tụy của họ trong công cuộc truy lùng chú Cáo.

Cuối cùng, có công mài sắt có ngày nên kim. Nếu vụ án này có những điểm tương đồng đáng lưu ý với vụ bắt giữ “Con trai của Sam” David Berkowitz - tên giết người khét tiếng ở thành phố New York, thì theo thường lệ trong việc loại trừ nghi phạm, cảnh sát ở thị trấn Kentish, London đã đến gặp nam chủ nhân của một chiếc xe hơi màu vàng. Trong lúc điều tra chiếc xe Austin Allegro, họ tìm thấy mặt nạ và đồ dùng cá nhân khác trong cốp xe. Còn trong căn hộ của nghi phạm này, họ tìm được chiếc quần yếm có chất liệu trùng với những chiếc quần yếm tìm thấy trước đó. Chiếc xe trên cũng có những vết cào xước ứng với dấu vết bị cào xước do cây cối trong khu vực bên ngoài đường cao tốc. Nhận thấy có nhiều sự liên quan, họ yêu cầu người này tự đeo đồng hồ lên tay. Hắn đeo vào cổ tay phải, chứng tỏ hắn thuận tay trái. Chú Cáo cũng sử dụng tay trái để xé rách đầm ngủ của một trong những nạn nhân. Một nạn nhân khác đã để ý thấy chiếc đồng hồ đeo tay đặc biệt trên cổ tay phải của hung thủ. Chú Cáo, chính là Malcolm Fairley, cuối cùng đã bị “tóm sống” giữa ban ngày ban mặt trong một cuộc điều tra thường lệ và cách xa vùng nông thôn nước Anh - nơi hắn gieo rắc sức ảnh hưởng kinh hoàng của mình về đêm. Trong vòng năm tháng, số vụ án hắn gây ra lên tới con số cực lớn - 80 vụ án.

Sau một loạt những màn tra hỏi tại trụ sở điều tra ở Dunstable, kết quả cho thấy rõ ràng người đàn ông ăn nói nhỏ nhẹ đến từ phía bắc nước Anh là chú Cáo. Không phải là một kẻ cô đơn và thất nghiệp sống với mẹ, Malcolm Fairley đã kết hôn và có con cái. Hắn làm rất nhiều công việc lao động ở phía nam. Hắn từng vào tù ra khám vì tội trộm cắp, nhưng chưa từng phạm tội về tình dục. Vợ hắn rõ ràng không biết tí gì về tội ác của hắn. Hắn khai nhận rằng hắn mừng khi bị bắt vì cuối cùng cũng “có người ngăn hắn lại hoàn toàn”.

Phiên xét xử bắt đầu vào tháng Hai năm 1985 tại Tòa án St.Albans Crown ở hạt Hertfordshire và tuyên án diễn ra vào ngày 26 tháng Hai. Việc Fairley khai nhận bản thân ít học - không biết chữ và không biết tính - là một lời bào chữa bất thành và cho thấy hắn có một “nhân cách rất khiếm khuyết”. Luật sư được chỉ định bào chữa cho hắn xác nhận, “Hậu quả là hắn không phân biệt được đúng sai rõ ràng.”

Quan trọng là khi đề cập đến những băng video khiêu dâm mà hắn đã xem, lời bào chữa của Fairley dựa trên niềm tin rằng hắn “đang cố gắng bắt chước những gì hắn thấy trên màn hình băng video”. Mối quan tâm này kéo dài vào thời điểm đó và chỉ xuất hiện vài năm, sau cuộc tranh luận về “chiếc video tục tĩu” tại Quốc hội Anh, dẫn đến Đạo luật thu băng video vào năm 1984. Đây là phản ứng cho một thực tế rằng khi băng video trở nên phổ biến ở Anh, nó không được thông qua khâu kiểm duyệt ban đầu. Họ lo ngại trẻ em và những thành phần “nhạy cảm” của công chúng sẽ bị ảnh hưởng khi xem những văn hóa phẩm này, cũng như nó có thể trực tiếp dẫn đến tội ác bạo lực. Mặc dù tất cả những người có đầu óc lành mạnh đồng tình với một thực tế rằng hệ thống xếp hạng sẽ lập tức ngăn trẻ em xem loại văn hóa phẩm này, chẳng hạn như Bộ tộc ăn thịt người (Cannibal Holocaust), hoặc một danh sách gồm năm mươi tựa phim sau đó đã bị cấm hoàn toàn, luôn cả những bộ phim được chiếu rộng rãi và tương đối vô hại như Ma cây (The Evil Dead) của đạo diễn Sam Raimi.

Câu chuyện trở nên phiền phức hơn khi các phương tiện truyền thông và Quốc hội (một Bộ trưởng đảng Bảo thủ công khai tuyên bố rằng con chó của mình sẽ bị tổn hại khi xem những băng video như vậy) xuất hiện phản ứng kích động. Trên thực tế, mọi người thường xuyên cho rằng có những mối liên hệ nhân - quả trực tiếp giữa việc xem loại băng video này và phạm tội bạo lực mà không đưa bằng chứng (các nghiên cứu sau đây đã củng cố một thực tế rằng lập luận này không chính xác và gây hiểu nhầm).

Tuy nhiên, văn hóa phẩm mà Fairley xem rõ ràng đã vượt xa việc xem phim kinh dị, bước vào phạm vi văn hóa phẩm khiêu dâm nguy hiểm và bạo lực, nói cách khác nó hoàn toàn phục vụ cho mục đích đó. Thẩm phán đồng tình và nói rằng những người sản xuất văn hóa phẩm này “sẽ muốn quên anh [Fairley] là một trong những người chịu tổn hại nghiêm trọng nhất của họ”. Giống như bồi thẩm đoàn, thẩm phán không có thời gian tìm ra những điểm thuyết phục hơn trong lời bào chữa của Fairley. Ông kết án chú Cáo từng hống hách một thời với mức hình phạt tối đa theo luật cho mỗi tội danh trong số 13 tội danh mà hắn đã phạm, tổng cộng là 6 bản án chung thân.

Thẩm phán đã không ngần ngại đưa ra những điều khoản đanh thép nhất có thể đối với chú Cáo “đã sa chân vào bẫy” và kết án rằng “cái hang” sẽ giam giữ hắn cả đời (quyết định được giữ nguyên tại Tòa phúc thẩm vào cuối năm). Thẩm phán đã chỉ ra chính xác rằng mặc dù Fairley không thực sự tước đi sinh mạng của người khác, nhưng hắn đã tùy tiện coi thường điều đó bằng cách “xúc phạm và làm ô nhục đàn ông và phụ nữ”. Hắn đã “lấy đi” rất nhiều thứ của những nạn nhân. Điều đó thể hiện qua nỗi đau đớn và kinh hoàng của các nạn nhân bằng “những ký ức đáng sợ chồng chất suốt đời” do hắn đã gây ra. Rõ ràng, xét trên mức độ và sự liên quan, điều này đúng đối với cộng đồng nói chung, cũng như đối với những nạn nhân nói riêng.

Bí ẩn về chú Cáo đã khắc sâu vào tuổi tho của tôi. Tôi và những cư dân khác của “tam giác nỗi sợ” sẽ không thể nhanh chóng quên đi tội ác của tên tội phạm xảo quyệt này. Tuy nhiên, bằng nhiều cách, ảnh hưởng khủng khiếp của hắn đã bị lãng quên phần nào, có lẽ nó bị lu mờ bởi tội ác của những “kẻ săn mồi” tương tự - những kẻ đã thêm hành vi giết người vào danh sách tội ác của chúng. Dù thế nào đi chăng nữa, Malcolm Fairley và những tội ác đáng sợ của hắn trong suốt mùa hè năm 1984 tiếp tục đưa ra lời cảnh báo, “hợp chất độc hại” gồm lòng tự tôn thấp, sự lo lắng về tội ác vụn vặt, súng ống và văn hóa phẩm khiêu dâm bạo lực có thể tạo ra những “con quái vật” trong xã hội. Như thẩm phán đã nêu ý kiến trong phần kết luận, Fairley chính là “một biểu tượng quảng cáo suy đồi cho văn hóa phẩm khiêu dâm bạo lực”. Tuy nhiên, chính khẩu súng lại là bước ngoặc đối với một tên tội phạm như Fairley. Nó mang đến cho hắn sự tự tin và cảm giác quyền lực, sự bạo gan của hắn dao động khi quyết định có được hoặc từ bỏ nó.Fairley khai nhận, “Súng là vua, nên có súng là có tất cả.”

CÂU CHUYỆN CÓ THẬT VÀ BÍ ẨN XUNG QUANH VỤ ÁN GIẾT NGƯỜI ĐÃ BỊ QUÊN LÃNG: HUNG THỦ SÁT HẠI GABRIELE SCHMIDT LÀ AI? Alexandra Burt

Chúng ta đều có một câu chuyện muốn kể về mùa hè năm 1983: vào kỳ nghỉ lễ, tôi đến thăm bà; tôi đi tàu hỏa tới thủ đô Paris. Tôi đã kể câu chuyện của chính mình rất nhiều lần trong suốt 37 năm qua, một câu chuyện đã trở thành lý do khiến tôi viết về thể loại tội ác.

Giai đoạn 1980 là thời kỳ đặc biệt và bị chi phối bởi những mối đe dọa mơ hồ; xét cho cùng, chúng ta đang ở giữa cuộc Chiến tranh lạnh. Những tháng sau mùa hè năm 1983, quân Liên Xô bắn hạ một chiếc máy bay dân dụng của Hàn Quốc đi vào không phân của Liên Xô; những trái bom nguyên tử đang chực chờ hiệu lệnh cuối cùng để kích hoạt và ném vào Tây Đức. Nhưng cũng có một mối đe dọa khác dần lộ diện.

Tháng Bảy năm 1983. Tại thị trấn Fulda, Đức. Cô bé Gabriele Schmidt (5 tuổi) bị sát hại. Ngày hôm đó, tôi tình cờ có mặt gần hiện trường vụ án, cách 400m theo đường chim bay. Mãi đến nhiều thập kỷ sau, khi tôi tìm thấy một vài bài báo trực tuyến, tôi nhận ra lúc đó mình mới 17 tuổi, gần như trưởng thành, nhưng tôi cảm thấy mình bị tổn thương sâu sắc và tôi thề rằng tôi trẻ hơn nhiều so với độ tuổi đó.

Cô bé biến mất khi đang chơi ở sân nhỏ trong nhà và ngôi nhà đó có rất nhiều người thuê nhà. Vụ bắt cóc xảy ra giữa ban ngày ban mặt với dòng người qua lại tấp nập. Nhìn từ cửa sổ của những ngôi nhà xung quanh, cái sân đó hiện ra trong tầm mắt, nhưng chẳng ai thấy hoặc nghe được bất kỳ âm thanh gì. Thi thể của cô bé sau đó được tìm thấy trong đêm. Cuộc truy tìm hung thủ diễn ra rất nhanh chóng và kỹ lưỡng nhưng họ vẫn không biết kẻ thủ ác là ai. Mặc dù hơn 20 năm sau, truyền thông đã có cơ hội “đào lại” vụ án, nhưng nó chưa bao giờ đủ sức để kích động những người dân ngoài thị trấn. Những hình ảnh về vụ hủy diệt hạt nhân từng ám ảnh trong giấc mơ của tôi và khiến tôi rợn tóc gáy. Còn bây giờ, nỗi ám ảnh đso là một tên giết người tự do làm bậy.

Những chi tiết dã man và bạo lực trong vụ án sát hại cô bé Gabriele Schmidt hầu như là do này. Không có cuộc họp báo nào, không có chi tiết biên bản nào bị rò rỉ cho truyền thông và không có tờ báo nào ngoài tờ báo địa phương Zeitung đăng tải câu chuyện. Tôi co rúm lại khi gọi cô bé là “một câu chuyện”, trong khi cô bé còn hơn cả thế. Gabriele Schmidt sẽ không có “ngày đầu tiên đi học”; cô bé sẽ không bao giờ có cơ hội học cách lái xe đạp, kết bạn hay yêu đương, cuộc đời của cô bé mãi mãi dừng lại ở tuổi lên 5. Trong nhiều thập niên sau, những chi tiết về vụ án sát hại cô bé chỉ được giới hạn trong chưa đầy một chục bài báo trực tuyến, trong khi những tội ác tương tự được những tờ báo quốc tế đăng tải. Cô bé ra đi và mang theo câu chuyện bị sát hại xuống nấm mồ.

Fulda là một thị trấn phong cách baroque14 ở trung tâm nước Đức, tọa lạc giữa hai ngọn núi RhoŠn và Vogelsberg. Thị trấn này nằm chen chúc giữa ngọn đồi cây cối rậm rạp và các trang trại quy mô nhỏ với đống xỉ muối kali của các tháp mỏ muối địa phương ở phía đông nam của thị trấn. Cũng giống như nhiều thị trấn nhỏ khác, thị trấn Fulda rất có ý thức về việc xưng tội. Vào năm 1980, 10.000 người Công giáo lũ lượt kéo tới thị trấn để tham dự một buổi lễ ngoài trời do Giáo hoàng John Paul II tổ chức trong quảng trường nhà thờ và chiêm ngưỡng nhà thờ Thánh Michael, nhà thờ tiền Romanesque lâu đời nhất toàn quốc. Các dịch vụ thương mại tập trung đông đúc, như rạp chiếu phim, khách sạn lịch sử, nhà hàng nhỏ, quán cà phê và cửa hàng bánh kẹo. Nhưng đừng thấy vậy mà lầm, bởi khi đồng hồ điểm 6 giờ, các chủ tiệm khóa cửa, họ không còn điều gì khác thú vị hơn là xuất hiện trên vỉa hè. Sau nhiều giờ, những ngôi nhà khung gỗ còn lại hầu như không còn được chiếu sáng bằng ánh đèn đường.

14 Theo Gia Bao Group, phong cách baroque ra đời từ kiến trúc thời Phục Hưng. Phong cách này ngày càng phát triển và phổ biến ở nhiều quốc gia châu Âu. Lối thiết kế kiến trúc theo phong cách baroque trông rất tráng lệ, nguy nga và sang trọng. Phong cách thiết kế này thường được ứng dụng trong các lĩnh vực như nhà hàng, khách sạn theo huynh hướng cổ điển và quý tốc hoàng gia.

Những tòa nhà phong cách baroque ở Fulda là nơi đáng chiêm ngưỡng, đồng thời chúng là chứng tích từ thời vị vua William của Hà Lan cai trị xứ Orange-Nassau và sống trong lâu đài Stadtschloss được xây dựng vào thế kỷ XVIII. Phòng ốc trong tòa lâu đài được trang trí lộng lẫy, với đầy ắp đồ đạc xa hoa và đồ sưu cao cấp. Trong vườn hoa bên ngoài tòa lâu đài, người dân chơi trò ném bi sắt và tắm nắng giữa những cảnh quan kiểu baroque và kiểu Anh. Nhưng vườn hoa này cũng có bí mật - một cái cống nước ở cuối khu vườn, một phần của hệ thống thoát nước thành phố. Nó trải dài đến tận những khu vườn phía sau ngôi nhà của Gabriele Schmidt.

Nếu nói sự kiện tai tiếng đã khiến thị trấn ở cao nguyên đông Hessen được nhiều người chú ý thì chính là nói quá. Thị trấn Fulda có một quá khứ đen tối. Những ngọn đồi thoai thoải và những trang trại rải rác trong khu vực chẳng nói lên điều gì về vai trò của thị trấn Fulda trong suốt thời kỳ Chiến tranh lạnh. Người ta cho rằng trận chiến Armageddon15 xảy ra ở đó. Đồng thời, tôi đến nơi này để đi bộ đường dài trong đầm lầy kế bên biên giới. Ở phía xa xa, những pháo đài quan sát của Đông Đức với lính canh nhìn chằm chằm và ánh đèn pha hướng sự chú ý vào tôi.

15 Theo Tin lành âm phúc, trận chiến Armageddon là một thuật ngữ trong Kinh thánh, có nghĩa là nơi sẽ diễn ra trận chiến giữa hai thế lực thiện và ác.

Tôi lớn lên trong chiến tranh và đọc sách là cách giúp tôi giải thoát những ngày tháng đó. Những câu chuyện là thứ quan trọng nhất trong cuộc đời tôi. Tôi lấy những cuốn sách từ chiếc tủ phủ đầy bụi trên gác mái hoặc mượn từ thư viện địa phương trông chẳng khác gì một căn phòng nhỏ dưới tầng hầm của tòa thị chính. Tôi đọc từ đầu đến cuối tất cả những cuốn sách đặt trên kệ với mọi thể loại: hư cấu, phi hư cấu, thậm chí là y học. Những kẻ sát nhân hàng loạt. Xét nghiệm nhóm máu. Tôi đọc hết sạch sành sanh và có lần, tôi “lĩnh hội” một cuốn bách khoa toàn thư đặt trên giá vẽ.

Khi không đọc sách, tôi rong chơi khắp chốn. Nơi ưa thích nhất của tôi là những ngôi nhà trong trang trại bỏ hoang, những tháp canh cũ kỹ,những nghĩa trang và rừng cây. Rauschenberg là một gò đất nhỏ được hình thành từ đá bazan và một khu rừng hỗn hợp nhiều cây cối rậm rạp - nơi sống dậy trong tôi những câu chuyện cổ Grimm với những cái cây cao và thẳng như cột nhà, những con cú to lớn có sừng và những cái cây rỗng ruột mọc lên từ một tầng rừng rải rác những cây nấm đỏ có đốm trắng. Một tháp đá cao nhất trong chín tháp canh, với những bậc quanh co nằm giữa những khu rừng. Với vị trí thuận lợi của nó, bạn có thể lần theo các con đường giao thương ngày trước. Tầng rừng rải rác vô số hố bom được một lớp đất phủ gần kín.

Tôi cũng hay đến thăm nghĩa trang địa phương. Đối với tôi, chuyện này không hề rùng rợn mà chỉ đơn giản là tôi thích đến đó. Khuôn viên nghĩa trang được bao bọc bởi những phiến đá xếp chồng lên nhau, tạo thành một bức tường thô sơ, ở giữa có một cánh cổng sắt và một nhà thờ nhỏ cũ kỹ. Tôi đi qua đi lại cạnh một hàng mộ ở bên trái nhà thờ, mỗi bước chân của tôi khiến nền sỏi đá kêu lạo xạo. Nơi này thanh tĩnh và trang trọng, nên không có ai phán xét việc tôi chăm chú nhìn những bia đá. Tất cả những người nằm ở đây đều chết trong cùng một ngày. Tôi gọi khu vực ở bên phải nhà thờ là vườn Thiên thần. Đây là một nơi dành riêng cho những đứa trẻ, với những bức tượng thiên thần canh giữ những hàng bia đá nhỏ bằng cẩm thạch trắng.

Trong đó, có một ngôi mộ đặc biệt khiến tôi bị cuốn vào dòng suy tưởng.

Một bia đá đơn độc và đơn sơ nằm rúc ở một góc phía đông, cách những bia đá khác khá xa. Bia đá đó không đề ngày, không đề tên, không đề câu viết trừ công việc của anh ta: Người lính Liên Xô vô danh. Thỉnh thoảng, có người đặt bó hoa tươi trên bia đá, nhưng hầu hết thời gian, anh ta bị lãng quên. Ai là người đã đặt bó hoa trên mộ? Liệu họ có biết gì về anh ta không và điều gì khiến anh ta nằm xuống ở một nơi đất khách quê người? Liệu mẹ anh ta có biết rằng anh ta được chôn ở đây? Tôi thường tự hỏi liệu có phải anh ta đã làm một hành động anh hùng nào đó để được chôn cùng những người dân địa phương hay không. Tôi ước mình có thể đưa ra kết luận về câu chuyện chưa kể của một anh lính, cũng như vụ sát hại Gabriele Schmidt.

Việc tuổi thơ của tôi gắn liền với địa điểm quân sự hóa nặng nề nhất trên trái đất cũng bình thường như những dãy núi thấp ở phía chân trời. Những ngọn đồi thoai thoải ở cao nguyên Hessen là biên giới nơi cuộc chiến sẽ xảy ra. Nếu Chiến tranh Lạnh trở nên “nóng bỏng”, thì nơi này sẽ trở thành bình địa. Từ biên giới khiến tôi liên tưởng đến những người đàn ông áp sát má vào báng súng trường. Ở phía xa xa trước mặt họ, nếu không phải một khoảng trống hoang vu với vũ khí và lưỡi lê thì cũng là hàng trăm đầu đạn hạt nhân tầm trung. Ông bà tôi đã sống trông suốt thời chiến, nhưng họ không bao giờ quên các phương án phòng ngừa quen thuộc: của sổ có mái che dày nặng nề và kệ tầng hầm chất đầy đồ hộp. Họ kể về những lúc đèn đường, biển báo được chiếu sáng và đèn pin bị cấm. Thời thơ ấu của tôi chỉ toàn là lời kêu gọi tìm kếm nơi trú ẩn. Tôi không nhớ bất kỳ cuộc tập trận “cúi người né đạn” nào ở trường, bởi vì nó không cần thiết và những người trưởng thành biết điều mà trẻ con như chúng tôi không được biết: nếu có một vụ nổ hạt nhân, không ai trong chúng tôi sống sót. Chúng tôi sẽ trở thành bụi phóng xạ trong vòng vài phút. Tất cả những nơi trú ẩn quá xa hoặc không đủ sâu và mọi suy nghĩ về sự sống sót chỉ là hão huyền.

Khoảng thời gian tôi mới biết đến việc Gabriele Schmidt mất tích là vào tháng Sáu, ngày lễ Fronleichnam (Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kito) - một ngày lễ trọng thể của nhà thờ, được tổ chức ở các vùng chủ yếu thuộc đạo Công giáo của Đức. Ngày hôm đó bắt đầu bằng một buổi lễ, sau đó là một linh mục dẫn đầu một đám rước đi qua thị trấn. Những bé gái đội vương miện kết bằng hoa và khoác trên mình bộ đồ đẹp nhất, lấy hoa từ trong giỏ rải trên ncon đường đi qua thị trấn. Vào năm 1983, chúng tôi có một kì nghỉ cuối tuần dài ngày và trường sắp cho học sinh nghỉ hè. Lúc đó, tôi 17 tuổi và ở nhà của một người bạn vào kì nghỉ cuối tuần. Chúng tôi tranh thủ từng phút từng giây lên kế hoạch để tận hưởng kỳ nghỉ.

Căn hộ của bạn tôi như một cái hộp bốn tầng sừng sững bằng gạch clinker16 đỏ nằm trên một con phố chính và những ngôi nhà lân cận nằm ngay ngắn như các cuốn sách trên kệ. Chúng tôi ngửi được một mùi thơm thoang thoảng như ngũ cốc tỏa ra từ một nhà máy bia gần đó, cùng một ga xe lửa nhỏ và một quầy bán vé. Nhà tôi ở Petersberg, cách đây 10km, là một nơi khác biệt hẳn. Nhà tôi gần những trang trại rải rác trên vài ngọn đồi. Ở đó không có nhà máy, không có xe lửa và thực sự là hầu như không có bất kỳ phương tiện giao thông nào đáng nói đến. Từ phòng mình, tôi nghe thấy tiếng gà trống gáy và tiếng chim hót trên một sợi dây điện gần đó. Mãi sau này tôi mới nhận ra mùa hè năm 1983 đánh dấu lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng mình được “nếm trải” sự tự do.

16 Theo báo Xây dựng, gạch clinker là gạch ốp lát cao cấp, có độ bền gần như vĩnh cuux, chịu được sự khắc nghiệt của môi trường. Gạch được ép đùn, không tráng men, thời gian nung dài.

Ban đêm, chúng tôi mở cửa sổ để không khí ùa vào phòng. Tôi nghe thấy một tiếng ầm ầm và tự hỏi liệu đó có phải là sấm sét không, nhưng sau đó ánh sáng tràn qua cửa sổ và tiếng ồn tăng lên từng phút - một đoàn tàu chạy lại từ xa. Đầu tiên, tôi nghe thấy âm thanh xình xịch, sau đó là tiếng còi. Khi những toa tàu chạy ầm ầm trên cây cầu gần đó, bánh xe trên đường ray kêu leng keng. Tôi tự trấn an bản thân và lắng nghe tiếng tàu đang chạy ngang qua, rồi âm thanh nhỏ dần và im bặt cho đến khi chuyến tàu tiếp theo chạy đến. Suốt đêm, giữa những đợt ngừng đúng lúc, những âm thanh gầm rú giống như một lời kêu gọi rằng bạn có thể dễ dàng quyết định cuộc sống của mình. Có một đêm, tôi tỉnh dậy vì những tiếng chim kêu và tiếng vỗ cánh trên trần nhà. Tôi bật đèn lên và một “con chim” vỗ cánh hối hả bay ra ngoài cửa sổ. Nó chỉ có da, gầy còm và da trên mình nó căng ra, thì ra là một con dơi. “Kẻ xâm nhập” hàng đêm này không quyết tâm bằng chúng tôi khi bóng tối đến. Chúng tôi không nao núng và chúng tôi mong mỏi một cuộc sống đầy “hiểm nguy”.

Từ tầng ba của căn hộ, chúng tôi trượt xuống hành lang, rón rén bước qua cửa phòng của mẹ cô ấy, đầy táo bạo và không gì cản bước nổi. Những bậc cầu thang bằng gỗ kêu rít lên lạc quẻ so với quyết tâm lao vào màn đêm của chúng tôi. Trong những giờ phút tối tăm và tĩnh lặng, chúng tôi hút thuốc, uống rượu và hôn những gã trai trong con ngõ hẻm u ám mà không màng đến ngày mai. Chúng tôi tin tưởng rằng ngày mai sẽ đến và chúng tôi sẽ không sao cả, bất chấp mọi việc chúng tôi làm và hoàn toàn mặc kệ sự an toàn của bản thân. Sáng sớm, chúng tôi trở lại căn hộ. Hai đứa giống như ma cà rồng, tránh ánh nắng và ngủ cả ngày, rồi lặp lại mọi chuyện từ đêm này qua đêm khác. Tôi nằm thức và lắng nghe những âm thanh dần trở nên quen thuộc hơn của thị trấn. Những chuyến tàu, những mùi hương, những con dơi, những âm thanh của tự do.

Vào ngày xảy ra vụ sát hại cô bé đó, chúng tôi dành buổi chiều trên một bãi cỏ nhỏ để “tắm táp” dưới những tia nắng. Chúng tôi trải khăn tắm, bật đài radio và nói chuyện phiếm. Chẳng bao lâu sau, làn da nhợt nhạt của tôi ửng sáng phủ sương và bóng mướt màu mật ong, còn những đốm tàn nhang chi chít trên má tôi thì như những chòm sao trong bầu trời đêm.

Sau đó, chúng tôi nghe được tin tức về cô bé. Tôi nhớ cô bạn đã nói với giọng hổn hển và chỉ về hướng xa xa của cây cầu, “Một cô bé đã mất tích. Ngay đằng kia.” Cô ấy đọc tên con phố đó và