7. VỤ ÁN DAI DẲNG XOAY QUANH NHỮNG VIÊN ĐẠN VÀ KẺ NỔ SÚNG LẠNH LÙNG ĐẰNG SAU CHIẾC MŨ TRÙM ĐẦU Ở ORKNEY - Charlotte Platt-
Quần đảo Orkney nằm ở vùng hoang vu biển Bắc và ngoài khơi bờ biển phía đông bắc Scotland. Nơi này gồm 70 đảo, trong đó có 20 đảo có người sinh sống.
Chủng tộc người đầu tiên sinh sống ở đây là những bộ lạc thuộc thời kỳ Đồ đá giữa, Đồ đá mới và sau đó là những người Pict. Quần đảo Orkney bị người Na Uy xâm lược, rồi sáp nhập lãnh thổ vào năm 875, sau đó người Bắc Âu đến đây định cư. Vị trí địa lý nơi này có bẻ khiến người ta sửng sốt, bởi nó chỉ cách bờ biển Caithness - một hạt thuộc cực bắc của Scotland - 13km. Tuy nhiên, eo biển Pentland Firth ngăn cách quần đảo Orkney khỏi Vương quốc Anh lại là điểm giao nhau của biển Bắc và Đại Tây Dương, và là một vùng nước dữ khét tiếng. Vào năm 1472, Quốc hội Scotland sáp nhập quần đảo Orkney và quần đảo Zetland (bây giờ là Shetland) vào Hoàng gia Scotland. Sau đó, cả hai quần đảo trở thành một trong những món hồi môn cho tân nương Margaret của Đan Mạch khi nàng trở thành hôn thê của vua James III. Mặc dù sự kiện này đã đưa hai quần đảo nằm dưới sự cai trị của Scotland, nhưng vẫn còn những ràng buộc về văn hóa sâu sắc giữa Na Uy và thị trấn Kirkwall - thành phố hành chính lớn nhất tại quần đảo Orkney - như tục lệ Na Uy tặng cho Scotland một cây thông giáng sinh hằng năm.
Không có gì ngạc nhiên khi nói quần đảo Orkney nổi tiếng, vì nơi này có rất nhiều di tích khảo cổ và liên tục bị chiếm đóng hơn 8.500 năm. Do đó, nơi này thu hút một lượng lớn khách du lịch và các học giả. Quần đảo này cũng có một số địa điểm nổi tiếng nhất và được bảo tồn tốt nhất ở châu Âu. Khu vực “trung tâm của Orkney thời kỳ Đồ đá mới” - một tập hợp những di tích trên hòn đảo lớn nhất Mainland - được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới.
Orkney là quần đảo sầm uất với ngành du lịch và xuất khẩu phát triển mạnh, nổi tiếng quanh năm và có thể đến đây bằng phà hoặc máy bay. Nhờ có Tòa án cảnh sát trưởng, những vụ phạm tội nhẹ trong khu vực được giải quyết nhanh chóng. Những tội trạng thường thấy trong các báo cáo của tòa án và được đăng tải chi tiết trên tuần báo The Orcadian bao gồm làm vỡ cửa sổ, tài xế say rượu, chạy quá tốc độ và gây rối trật tự công cộng. Tòa án cảnh sát trưởng của thị trấn Kirkwall phần lớn giải quyết các vụ án dân sự, hình sự và chỉ những vấn đề nghiêm trọng nhất mới được gửi “về phía nam” để được giải quyết tại những tòa án cấp cao hơn ở Edinburgh hoặc Glasgow. Đây là hệ thống tiêu chuẩn ở Scotland, nơi cảnh sát trưởng địa phương sẽ ngồi phán xét các tội nhẹ hơn để những đơn vị trung ương xử lý các vấn đề nghiêm trọng hơn.
Lực lượng cảnh sát địa phương quen biết gần hết 2.200 cư dân sinh sống trên quần đảo. Mặc dù quần đảo có rất nhiều lễ hội địa phương, bao gồm Liên hoan Khoa học Quốc tế Orkney (lễ hội khoa học lơns thứ hai ở Scotland) và Lễ hội St.Magnus nổi tiếng, giúp số người hiện diện tại quần đảo tăng lên suốt mùa hè, nhưng cũng rất dễ để nhận diện ai là khách du lịch.
Mặc dù chính xác Kirkwall được nhiều người biết đến với nhà thờ St.Magnus xinh đẹp, nhưng đây là thị trấn lớn nhất ở quần đảo Orkney, với dân số khoảng 9.000 vào giữa những năm 2010 và khoảng 7.000 vào những năm 1990. Theo ghi chép đầu tiên trong câu chuyện kể về lịch sử của các đảo Orkney và Shetland năm 1046, thị trấn Kirkwall từ lâu đã là trung tâm hành chính của quần đảo và có những văn phòng hội đồng chính, bệnh viện Balfour, trụ sở Dịch vụ Y tế Quốc gia Orkney, cũng như thư viện và kho lưu trữ Orkney. Thị trấn nhộn nhịp vào mùa hè nhờ tàu du lịch cập cảng Kirkwall để đưa khách tham quan những di tích lịch sử ưa thích, những cửa hàng, cơ sở kinh danh thực phẩm, đồ uống và đồ trang sức.
Ngoài ra, còn có một số doanh nghiệp địa phương lâu đời như cửa hàng thịt, dịch vụ nghệ thuật, đồ ăn mang đi, quầy bán báo và cửa hàng len nằm trên những khu vực của phố Bridge, phố Albert và phố Broad. Người dân địa phương gọi những khu vực nối liền với nhau là “dãy phố”. Khu vực này là trung tâm của thị trấn, người qua kẻ lại tấp nập vào ban ngày và thỉnh thoảng cấm xe hơi do lượng khách du lịch đến thăm quá đông. Có hàng loạt các quán rượu, quán cà phê và nhà hàng nổi tiếng,cũng như nhiều khách sạn phục vụ khách du lịch và khách kinh doanh. Cuộc sống về đêm trên phố rất sôi động, đặc biệt là vào cuối tuần. Đường phố hiếm khi yên tĩnh trừ khi thời tiết xấu, mà cho dù vậy thì quán cà phê và quán rượu vẫn tấp nập người ra kẻ vào.
Vì lẽ đó, vào năm 1994, vụ giết người đầu tiên ở quần đảo Orkney xảy ra trong hơn 25 năm chính là cú sốc đối với cộng đồng ở đây và những nơi khác ở Vương quốc Anh. Vào buổi chiều ngày mùng 2 tháng Sáu năm 1994, Shamshđin Mahmood - một người có quốc tịch Bangladesh sinh sống ở thị trấn Kirkwall - vẫn làm bồi bàn trong nhà hàng Mumutaz Indian Tandoori như thường lệ (hiện nay là nhà hàng Dil Se, nằm ở phố Bridge thuộc thị trấn Kirkwall).
Mahmood (26 tuổi) được gia đình và bạn bè gọi là “Shamol.” Anh tốt nghiệp với tấm bằng cử nhân nghệ thuật của trường Đại học Quốc gia Bangladesh. Bố mẹ anh sinh được 11 người con, 7 trai 4 gái và anh rất được mọi người yêu mến. Anh đến Vương quốc Anh thăm anh trai vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, anh buộc phải ở đó vĩnh viễn và đành từ bỏ việc học luật trước đây. Năm 1992, anh chuyển đến quần đảo Orkney và làm bồi bàn trong một nhà hàng, giống như công việc anh từng làm ở Anh. Đầu năm 1993, anh rời quần đảo, nhưng rồi vào năm 1994, anh quay về đây để đảm nhiệm vai trò quản lý nhà hàng. Anh trở nên nổi tiếng và được nhân viên cũng như mọi người yêu mến. Sau vụ giết người, anh được mô tả là một người trầm lặng, thân thiện, vui vẻ và luôn nở nụ cười trên môi.
Vào khoảng 7 giờ 15 phút tối, khi anh đang phục vụ bữa ăn cho gia đình nhà Glue, gồm cả người lớn và trẻ nhỏ, thì một người đàn ông đội mũ che kín đầu, cổ và mặt bước vào nhà hàng. Người đàn ông bước thẳng về phía anh Mahmood với tư thế khom lưng khác lạ, sau đó hắn giơ súng ngắn bắn vào đầu anh, ngay phía bên mắt trái. Anh Mahmood bị thương nghiêm trọng và ngã xuống sàn, trong khi viên đạn cắm vào tường, còn máu và chất dịch bắn lên người của thực khách. Trong cơn hỗn loạn tiếp theo, kẻ tấn công nhanh chóng rời khỏi nhà hàng, bước xuống một trong hai con hẻm bên hông nhà hàng và lặn mất tăm. Hai trong số những người khách quen ban đầu đuổi theo hắn, nhưng sau đó họ quay lại để giúp đỡ những thực khách khác và chờ cảnh sát đến.
Khi anh Mahmood nằm trên sàn, những vị khách cố gắng trấn an anh, đắp áo khoác lên người anh và cố tìm bác sĩ từ một trong những cơ sở kinh doanh hoặc tàu thuyền ở bến tàu địa phương, nhưng vô ích. Dù mạch của anh vẫn đập lúc cảnh sát đến hiện trường, nhưng hai bác sĩ từ bến tàu xác nhận anh đã tử vong. Họ tuyên bố anh ấy tử vong trên đường tới bệnh viện địa phương, cách nhà hàng vài km. Hung thủ đã ra tay đủ gần và để lại vết muội thang trên khuôn mặt của Mahmood. Viên đạn bắn vào đầu ngay phía trên mắt trái của anh và xuyên thủng tai phải.
Tại địa phương, người ta đoán non đoán già xem kẻ sát nhân là người dân trên đảo hay cố tình đến Orkney để nổ súng giết người. Mọi người bắt đầu đồn đoán về một thỏa thuận giết người để trút giận lên nạn nhân. Vì công việc lúc trước của Mahmood là ở London và í tai biết những mối quan hệ lúc trước cảu anh ở Bangladesh, nên mọi dự đoán đều không có căn cứ. Trong 3 ngày, cảnh sát nổ lực phong tỏa quần đảo với hàng rào chốt chặn trên bến phà và sân bay. Tuy nhiên, không có kết quả gì và một đội điều tra được cử đến.
Sở cảnh sát miền bắc chọn Giám đốc phòng điều tra George Gough chỉ đạo cuộc điều tra và Phó trưởng phòng điều tra Angus Chisholm hỗ trợ. Cả hai điều tra viên phải đi 240km từ Inverness đến John O’Groats trước khi bắt phà tới điểm đích. Họ biết rằng vụ án giết người gần nhất trên quần đảo đã được phá ngay ngày hôm sau, nên họ tràn đầy hi vọng sẽ nhanh chóng giải quyết vụ án này. Tuy nhiên, họ đành phải ôm nỗi thất vọng tràn trề khi kết quả điều tra ban đầu không như mong đợi, bởi họ thu thập được rất ít thông tin có lợi.
Những cuộc điều tra ở London cho thấy nơi làm việc lúc trước của nạn nhân không có mối liên hệ nào với hoạt động băng đảng cũng như không có thù oán nào. Không có bằng chứng cho thấy anh tham gia vào hoạt động buôn lậu ma túy hoặc hành vi bạo lực khác. Những du khách đến tham quan quần đảo vào lúc vụ án xảy ra đã được tìm kiếm và thẩm vấn, nhưng không có kết quả gì. Bên điều tra không phát hiện anh Mahmood có mối thâm thù riêng với bất kỳ ai. Nhà hàng hoạt động tốt, cả nhân viên và chủ đều rất vui vẻ với tình hình buôn bán, không có tranh chấp giữa nhân viên, cũng không có đánh nhau với thực khách hoặc sa thải nhân viên gần đây. Nhân viên nhà hàng thậm chí mới quyên góp 150 bảng Anh cho một chi nhánh địa phương của MacMillan Cancer Support - một tổ chức từ thiện hỗ trợ những người mắc bệnh ung thư.
Cùng lúc tiến hành cuộc điều tra, một loạt diễn biến bất thường khác âm thầm xảy ra trong khu vực. Một người phụ nữ địa Railston và cô con gái Lynn Railston nhìn thất một người đàn ông mặc đồ tối màu và đeo một loại mũ che kín đầu, cổ và mặt trong Papdale Woods - một nơi thưa thớt cây trong một khu vực phủ đầy cây xanh. Hôm đó là ngày 19 tháng Năm, thời tiết ấm áp hơn nên một người mặc trang phục tối màu, dày dặn cùng giày ống và che mặt khiến người khác chú ý. Cả hai mẹ con đều thấy người đàn ông đó di chuyển chầm chậm giữa đám cây. Cuối cùng, gã cởi mũ trùm và đi mất. Họ mô tả người đàn ông này có thân hình chắc nịch, rám nắng, khoảng ngoài hai mươi tuổi và hắn tỏ thái độ lo lắng.
Sau khi vụ nổ súng giết người xảy ra, hai mẹ con này trình báo những gì mà họ thấy và từ đó, phía cảnh sát điều tra đã phác họa khuôn mặt của người đàn ông trên máy tính. Hình ảnh của hắn được truyền đi, nhưng cản sát không nhận được thông tin nhận dạng nào. Cảnh sát nói hai mẹ con hãy quay lại đây nếu thấy người đàn ông ấy và họ cũng không thể làm gì cho đến lúc đó.
Lynn Railston lại chạm mặt người đàn ông đó vào ngày 8 tháng Chín. Khi đó, hắn đến cửa hàng nơi cô làm việc. Bởi vì cô đang trong giờ làm việc nên không báo cáo chuyện này cho cảnh sát liền được. Sau đó, cô phát hiện người đàn ông rời một tiệm bánh địa phương, cô đã cung cấp đầy đủ chi tiết cho cảnh sát để họ xác định người đàn ông đó qua băng ghi hình trong CCTV. Cảnh sát phát hiện người đàn ông đó là Michael Ross (15 tuổi).
Michael là con trai của Hạ sĩ Edmund (Eddie) Ross - một cựu quân nhân trong trung đoàn Black Watch và Royal Green Jackets, đồng thời là sĩ quan mang súng ở địa phương. Eddie cũng là chủ tịch câu lạc bộ súng ở địa phương kiêm huấn luyện viên bắn súng được cấp phép. Ngoài việc mở rộng đào tạo, ông còn đam mê những món vũ khí. Một trong những công việc của ông là vô hiệu hóa và vứt bỏ súng ống. Ông thường chặt chúng thành những mảnh nhỏ và vứt xuống biển và tại thời điểm đó, phương thức xử lý này được chấp nhận. Eddie được phân công nhiệm vụ hỗ trợ bảo vệ hiện trường vụ án. Khi điều tra viên tìm thấy một vỏ đạn trên sàn của nhà hàng, họ đã gọi ông đến để hỗ trợ nhận dạng nó.
Vỏ đạn này là của một viên đạn 9mm, sản xuất ở Ấn Độ và thường được dùng trong huấn luyện quân sự ở khắp Vương quốc Anh. Sau đó, Eddie được giao nhiệm vụ kiểm tra tất cả các khẩu súng có nòng kích cỡ này ở Orkney. Mặc dù một lượng súng đáng kể đã được kiểm tra nhưng vẫn không có kết quả khả quan nào.
Hai tháng tiếp theo cũng không có tiến triển gì. Sau đó, trong một cuộc thẩm vấn với Phó phòng điều tra Chisholm, Eddie có nhắc đến việc ông sở hữu một vài viên đạn cùng kích cỡ 9mm. Khi được hỏi ông có được chúng từ đâu, lúc đầu ông đã nói dối là không nhớ. Cảnh sát lục soát nhà ông và tìm thấy một hộp đạn còn niêm phong có tổng cộng 35 viên (điều đó cho thấy nó còn nguyên vẹn, không bị mất viên nào). Nhưng viên đạn được mang đi kiểm tra. Một số dấu hiệu bên ngoài trùng khớp với vỏ đạn được tìm thấy ở hiện trường.
Mặc dù Eddie miễn cưỡng thừa nhận, nhưng cuối cùng ông tiết lộ rằng ông mua những viên đạn đó từ James Spence - một người bạn học kiêm cựu lính Hải quân Hoàng gia. Người này đã trộm chúng nhiều năm trước, sau khi chúng bị bỏ đi vì kém chất lượng. Eddie khẳng định những viên đạn nằm trong chiếc hộp bị niêm phong trong nhà ông, vì ông không xử lý chúng như đã định. Lúc đầu, Spence chứng thực câu chuyện này với các sĩ quan, nhưng sau đó người này nhắc đến chi tiết rằng bản thân đã nói dối trước sự khăng khăng của Eddie Ross. Spence đã bán hai chiếc hộp, một niêm phong và một đã mơ, nhưng Eddie không muốn bất kỳ thông tin nào liên quan đến chiếc hộp đã mở lọt đến tai các sĩ quan.
Trong quá trình tìm kiếm để thu hồi chiếc hộp niêm phong ban đầu, nhóm điều tra viên đã tìm thấy nhiều vật dụng khác trong nhà Ross khiến họ lo ngại. Michael - con trai của Eddie - có nhiều món đồ đáng ngờ trong phòng ngủ của mình, điều này có thể không lạ đối với một cậu bé 15 tuổi. Michael là một học viên trường sĩ quan và cũng là một người đam mê súng ống giống cha mình. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là một khẩu súng tiểu liên đã ngừng hoạt động và một cuốn sổ ghi chép có nhiều hình ảnh bệnh hoạn, bao gồm biểu tượng “SS” và bản phác họa hình chữ “Vạn”. Những điều này kết hợp cùng khả năng Michael tiếp xúc với đạn thật ở nhà đủ chắc chắn đưa cậu lọt vào tầm ngắm của những điều tra viên.
Vào ngày 24 tháng Chín, Michael không được báo trước là sẽ cùng Eddie Ross đến buổi thẩm vấn của Phó phòng điều tra Chisholm và Trung sĩ điều tra Allan Mackenzie. Michael Ross nói với hai điều tra viên rằng trong lúc vụ nổ súng xảy ra, cậu đang đạp xe ở một nơi khác của thị trấn. Mặc dù có nghe thấy tiếng còi báo động nhưng cậu không biết chuyện gì đã xảy ra cho đến khi về nhà và nghe mẹ kể lại. Michael cũng thừa nhận cậu có một loại mũ che kín đầu, cổ và mặt trùng khớp với mô tả trước đó, nhưng cậu nói cậu đã ném nó xuống biển vì người nhà khó chịu khi thấy nó. Cậu được thả mà không bị cáo buộc gì.
Một vài tuần sau cuộc thẩm tra, Crimewatch - một loạt phim truyền hình về tội phạm có thật rất nổi tiếng của Vương quốc Anh vào thời điểm đó - tạo ra một màn tái hiện vụ nổ súng, với hi vọng thu hút nhiều người xem hơn. Chương trình cũng tái hiện cảnh trong Papdale Woods và mô tả nó là “diễn tập biệt kích với lý do khó hiểu”. Không có gì đặc biệt xảy ra sau chương trình này và không có ai bị bắt giữ.
Vào tháng Mười hai, Michael Ross lại được yêu cầu đến Sở cảnh sát Kirkwall và đi cùng cha mình. Tuy nhiên, Eddie vắng mặt trong buổi thẩm tra đầu tiên và việc đó không được ghi chép lại. Các điều tra viên nói với Michael rằng họ đã điều tra lời khai về việc cậu ở đâu vào tháng Năm và tháng Sáu, tuy nhiên không một người bạn nào mà cậu đề cập đã nhìn thấy cậu và có thể xác minh được chuyện này. Cuối cùng, Michael thừa nhận cậu là người đàn ông ở Papdale Woods và cuộc thẩm tra ngừng lại. Cậu được thả và cùng những điều tra viên ký vào đơn tự nguyện tham gia (theo cách gọi của Scotland). Đơn này xác nhận một người có thể rời cuộc thẩm tra, miễn là chưa chính thức bị giam giữ.
Sau ngày hôm đó, họ lại thẩm tra Michael với sự có mặt của Eddie và ghi âm cuộc thẩm tra, kèm theo ghi chép. Michael được báo trước sẽ bị hỏi những câu liên quan đến việc Margaret và Lynn Railston nhìn thấy cậu ở Papdale Woods. Cậu thú nhận mình ở đó, nhưng là để nhát ma một anh bạn học được cho có hành vi “xúc phạm” thân thể của Lynn Marie Neil - bạn gái của cậu. Anh bạn học đó không tới và Michael xác nhận cậu cũng rời khỏi nơi đó. Sau khi nghỉ một chút thì cuộc thẩm tra mới bắt đầu và vẫn được ghi âm. Điều tra viên hỏi lịch trình di chuyển của Michael vào ngày 19 tháng Năm, sau đó cậu ký tên xác nhận lời khai.
Sau đó, cuộc thẩm tra thứ ba có ghi âm diễn ra. Điều tra viên hỏi Michael về vụ giết người. Họ yêu cầu cậu xác nhận đã tới những nơi nào, gặp những ai và làm những gì trong suốt buổi chiều tối ngày mùng 2 tháng Sáu. Cậu kể tường tận các chi tiết, từ việc ra ngoài bằng xe đạp, đang đạp xe thì gặp bạn, trở về nhà để dắt chó đi dạo và sau đó nghe kể về vụ nổ súng. Cậu chỉ những chỗ mà mình đã đi qua trên bản đồ và thỉnh thoảng cha cậu lại chen ngang chỉ trỏ vài nơi. Cuộc thẩm tra kéo dài lâu đến nỗi cuộc băng ghi âm được dùng hết, nên họ phải tạm dừng cho đến khi băng mới được thay vào và tiếp tục ghi âm. Vì không có ai ra khỏi phòng nên không có nhắc nhở gì và hai phần thẩm tra được xem như một cuộc thẩm tra trọn vẹn, chứ không phải hai cuộc thẩm tra tách rời. Phó phòng điều tra Chisholm đọc lại lời khai của Michael rồi đưa cho cậu ký tên và buổi thẩm tra kết thúc. Những người bạn mà Michael đề cập đã gặp cậu vào ngày mùng 2 tháng Sáu được triệu tập để đối chứng và họ vẫn không chứng thực đã gặp cậu vào tối đó.
Vào ngày 5 tháng Mười hai, cảnh sát yêu cầu James Spence tới Sở cảnh sát Kirkwall. Trong suốt chuyến đi này, Eddie Ross được cho là đã yêu cầu Spence nói dối về chiếc hộp đạn đã mở có trong thỏa thuận giữa hai người họ. Vì những viên đạn này có dấu vết trùng khớp với vỏ đạn bị bỏ lại hiện trường nên các điều tra viên khá lo ngại, họ mời Eddie Ross đến làm việc lần nữa.
Vào ngày mùng 6 tháng Mười hai, họ thẩm tra Eddie. Mặc dù thừa nhận một trong hai chùm chìa khóa của tủ súng đã mất, ông tiếp tục chối bỏ sự hiện hữu của hộp đạn thứ hai. Cùng ngày, đứa con trai Michael bị bắt vì tình nghi liên quan đến vụ án. Họ tin rằng cậu bé đã nói dối về lịch trình di chuyển của mình vào ngày mùng 2 tháng Sáu và cậu bé đã lấy súng cùng với đạn. Cha cậu không có mặt và cậu cũng từ chối sự hỗ trợ của luật sư trong quá trình thẩm vấn. Sau đó, cậu được thả và cho phép về nhà. Những nhân chứng - những người khai nhận đã thấy tay súng này vào đêm diễn ra vụ nổ súng - được cho xem những bức ảnh của vài kẻ nằm trong diện tình nghi, trong đó có hình của Michael Ross, nhưng không có xác nhận danh tính khả quan nào.
Cùng lúc, cảnh sát thẩm tra Cator Moyes - một thiếu niên khác ở quần đảo Orkney vào thời điểm đó. Cậu bé này xác nhận Michael có quan điểm phân biệt chủng tộc và Michael công khai bày tỏ điều đó. Sau đó, Cator ký tên vào bản xác nhận lời khai và một bản xác nhận thứ hai chứng thực bản thứ nhất là sự thật. Trong tương lai, điều này trở thành một sự kiện quan trọng trong cuộc đời Cator.
Vào ngày 13 tháng Ba năm 1995, cảnh sát thẩm tra bạn gái cũ của Michael. Cô xác nhận rằng cậu đã khoe khoang về việc bản thân có một trong những khẩu súng của cha mình. Nhưng cậu chưa bao giờ cho cô xem và cậu không muốn làm bẩn nó.
Cũng vào tháng Ba năm 1995, Eddie Ross bị đình chỉ công tác 2 năm. Ông bị buộc tội cản trở việc điều tra tìm bắt hung thủ và giữ một khẩu súng ngắn không có giấy phép. Những cáo buộc này đặc biệt nghiêm trọng đối với bất kỳ cá nhân nào, nhưng đặc biệt đáng nguyền rủa đối với một sĩ quan cảnh sát. Nó không chỉ hủy hoại sự nghiệp của Eddie Ross, mà khoản lương hưu đáng kể - khoảng 100.000 bảng Anh trong 23 năm phục vụ của ông - cũng có khả năng tiêu tùng.
Tại phiên tòa được tổ chức ở tòa đại hình Inverness vào tháng Năm năm 1997, cảnh sát nói rõ Michael là nghi phạm chính trong vụ giết người, mặc dù cậu chưa bị bắt. Đồng thời, bất chấp việc Thẩm phán cấp quận (cơ quan điều tra những vụ truy tố có thể giải quyết ở Scotland) đã quyết định không buộc tội cậu trước đó, vì họ không có bằng chứng pháp y buộc tội cậu và nhân chứng không chọn ảnh của cậu trong số những bức ảnh đã được xem.
Phiên tòa kéo dài 6 ngày. Vào ngày 27 tháng Năm, Eddie Ross bị kết tội cố ý gây cản trở công lý. Ông bị bỏ tù 4 năm, trong đó có 2 năm, ông bị giam trong nhà tù Inverness (còn được gọi là nhà tù Porterfield), trước khi được phóng thích trước thời hạn và được phép trở về nhà. Mặc dù vậy, ông có thể bị gọi trở lại nhà tù nếu vi phạm một số điều kiện nhất định. Ông tiếp tục khẳng định mình và con trai vô tội. Vụ nổ súng vào ngày mùng 2 tháng Sáu năm 1994 vẫn không có chút tiến triển nào.
Vụ án sẽ kéo dài cho đến năm 2006 khi một bức thư nặc danh ngắn được giao cho Sở cảnh sát Kirkwall. Người viết dự định giao thư xong sẽ bỏ trốn, nhưng bị nhân viên dân sự đang ngồi bàn giấy phát hiện và nhận ra - một trong những hiểm họa khi sống trong một cộng đồng nhỏ. William Grant (51 tuổi) đã viết bức thư đó vào đêm vụ nổ súng xảy ra. Ông ta nhìn thấy tay súng trong một nhà vệ sinh công cộng gần nhà hàng. Hắn cầm một khẩu súng và quan trọng hơn là hắn vén mũ che kín đầu, cổ và mặt, nên ông đã thấy mặt hắn. Grant cho biết ông đã chạm mặt Michael Ross khi cậu thiếu niên này rời khỏi phòng vệ sinh, nhưng Ross nhanh chóng quay lại và đi vào trong. Khi được hỏi tại sao ông lại quyết định nói ra vào lúc này, Grant nói rằng ông cảm thấy tội lỗi chất chồng - một chi tiết gây tranh cãi sau này. Cuộc điều tra chính thức được mở lại và vào tháng Năm năm 2007, Michael bị bắt vì tội giết người.
Trong suốt thời gian này, Michael không hề “ăn không ngồi rồi”. Đến tuổi trưởng thành, hắn gia nhập quân đội, theo chân cha mình vào trung đoàn Black Watch. Hắn là lính binh nhì, đóng quân tại Fort George gần Inverness và có thời gian ở các vùng chiến sự đang hoạt động, bao gồm Afghanistan và Iraq. Hắn được tuyên dương vì có nhiều thành tích trong quân ngũ.
Michael cũng trở nên nổi tiếng vì đã nâng cao sĩ khí của đồng đội và được thăng cấp trung sĩ trong thời gian tại ngũ. Hắn là một tay bắn tỉa lão luyện và là một thành viên của Đội cận vệ Hoàng gia tại Lâu đài Balmoral - một vinh dự lớn lao đối với những người lính Scotland. Gia đình Hoàng gia dành thời gian ở Balmoral vào những thời điểm khác nhau trong năm; việc trở thành một thành viên của Đội cận vệ Hoàng gia là “tiếng thơm” trong thời gian phục vụ quân đội. Michael cũng đã kết hôn và có một gia đình; hắn và cô vợ Pam có hai cô con gái.
Vào ngày 12 tháng Năm năm 2008, Michael Ross ra tòa vì tội giết Shamsuddin Mahmood. Phiên tòa được tổ chức tại Tòa án tối cao ở Glasgow và do Ngài Hardie làm chủ tọa. Phiên tòa diễn ra trong vài ngày, hầu như theo tiêu chuẩn của hệ thống Scotland. Donald Findlay QC (Luật sư được bổ nhiệm làm việc cho chính phủ) - một thành viên nổi tiếng của hệ thống tư pháp Scotland - là luật sưu bào chữa cho hắn.
Ngoài cáo buộc giết người, Michael còn bị buộc hai tội gây rối trật tự công công – một là hai mẹ con Railstons báo cáo đã nhìn thấy hắn ở Papdale Woods và một được cho là hắn đã la hét, sỉ nhục và phân biệt chủng tộc bên ngoài nhà hàng vài tuần trước khi vụ giết người xảy ra. Cáo buộc về hai hành vi gây rối trật tự công cộng sau đó đã được bãi bỏ. Michael phải đối mặt với một cáo buộc nữa là cố ý gây cản trở công lý, bằng cách giấu giếm quần áo và súng ống có liên quan tới vụ nổ súng. Hắn biện hộ rằng bản thân không phạm tội liên quan tới tất cả các cáo buộc.
Nhóm công tố tập trung vào luận điểm Michael Ross là một người phân biệt chủng tộc và có quan điểm ủng hộ chủ nghĩa Đức Quốc xã. Họ cho rằng hắn đã nói với những người bạn học viên trường sĩ quan trong những năm 1990 rằng “phải bắn tất cả bọn người da đen” và “phải đe dọa chúng, gí súng vào đầu chúng”. Người ta nhấn mạnh rằng đây là một vụ giết người lạnh lùng, có tính toán và được thực hiện một cách tàn nhẫn. Dựa vào điều này, bên bào chữa liền “biến nguy thành cơ” và nhấn mạnh việc một cậu bé 15 tuổi có thể bình tĩnh bước vào một nhà hàng đông đúc, bắn vào đầu của một người đàn ông ở cự ly gần và bình tĩnh rời đi là điều không tưởng. Họ lập luận rằng vụ kiện của bên công tố hình sự Hoàng gia là suy diễn và bị một câu chuyện có nhiều lỗ hổng dẫn dắt. Vụ án bị thúc ép bởi những người có ý chống lại gia đình nhà Ross, đặc biệt là ông Eddie - cha của Michael.
Cũng phải lưu ý rằng anh Mahmood đang bàn chuyện cưới hỏi với một người phụ nữ mà anh gặp ở Orkney. Điều này khiến nội bộ gia đình lục đục bởi họ cảm thấy cô dâu tương lai này lẳng lơ và không phải là một lựa chọn tốt nhất. Bên bào chữa rõ ràng đã nổ lực để gài thêm khả năng có những bên khác có lý do muốn giết anh Madmood, có thể là từ chính gia đình anh hoặc từ gia đình của cô người yêu trước đã bị anh bỏ rơi khi anh rời Bangladesh. Abul Shafiuddin - anh trai của Mahmood cũng được thẩm tra về chuyện này, nhưng anh nói anh không tìm ra lý do tại sao có người muốn giết em trai mình và cái chết của em trai là một cú sốc lớn đối với gia đình.
Trong suốt phiên tòa, những nhân chứng có mặt tại đêm xảy ra vụ án được yêu cầu mô tả tay súng, vũ khí và hiện trường chung. Marion Flaws, lúc đó đang làm nhân viên phục vụ, đã bỏ chạy khỏi nhà hàng khi vụ nổ súng diễn ra. Cô khai đã nhìn thấy kẻ tấn công chạy xuống một con hẻm khu cô lao vào con hẻm đối diện để trốn. Cô cho rằng tay súng dường như biết cô có thể và không thể thấy gì, mặc dù cô thừa nhận việc đã chạy trốn khỏi vụ bạo lực.
Tại thời điểm xảy ra vụ nổ súng, Emma Stamper mới 13 tuổi. Cô mô tả những gì đã xảy ra vào chiều tối hôm đó. Cô biết tay súng có “sải chân rất lớn” và đi thẳng đến chỗ anh Mahmood, hắn bước đi bình tĩnh và tự tin ra khỏi cửa sau khi nổ súng. Nguyên văn cô ấy mô tả khẩu súng là “đen và nặng” còn tay súng là “người có bờ vai rộng và trông như một tay sát thủ chuyên nghiệp”. Điều này trái ngược với mô tả của William Grant. Khi được hỏi về chuyện này, cô chỉ nói đơn giản rằng cô sẽ nói sự thật khi cô làm chứng vào thời điểm đó.
Ricky Bews - một học viên trường sĩ quan cùng với Michael Ross và hiện đang giữ chức vụ trung sĩ ở trung đoàn Black Watch - được cảnh sát thẩm vấn vào năm 1999 và xác nhận rằng Michael có quan điểm phân biệt chủng tộc. Tại phiên tòa, anh được hỏi liệu chuyện này có thật hay không. Anh nói anh không nhớ đã từng nhận xét như vậy, mặc dù anh ủng hộ sự thật. Khi Donald Findlay thẩm vấn anh cho phần bào chữa, Bews thú nhận rằng những học viên quân đội vào thời điểm đó thường có những nhận xét như thế, đặc biệt là anh, Michael Ross và một số người khác. Anh khẳng định thêm rằng mình chưa bao giờ nhìn hoặc nghe thấy Michael nhắm mục tiêu vào những người châu Á như vậy. Những cựu học viên khác đã làm chứng cho các cuộc thảo luận tương tự và tất cả đều đồng ý rằng Michael chưa bao giờ thực sự tìm cách làm hại người châu Á hoặc người da đen.
Susan Sinclair - nhân viên dân sự và cũng là người nhận ra William Grant - được thẩm vấn về bức thư ông ta gửi. Cô Sinclair đọc to lá thư - cách phổ biến để trình bày bằng chứng trong hệ thống Scotland. Nội dung bức thư mô tả chi tiết tay súng “trẻ, trông như 15 tuổi” và “nhìn có vẻ như hắn từng có một khẩu súng trước đó”. Người viết kết thư rằng họ “chỉ là không biết phải làm gì”. Dường như nếu cô Sinclair không nhận ra ông Grant, thì vấn đề có lẽ sẽ bị trì hoãn. John Rendall - người đã dùng nhà vệ sinh công cộng cùng thời điểm được cho là thấy tay súng - phòng khi chuyện này có chút liên quan nào đó, khai nhận rằng trước đó anh ta nghe được tiếng sập mạnh trong một phòng vệ sinh sau khi phát hiện ra vụ nổ súng.
Cả bên công tố và bên bào chữa đã thẩm vấn William Grant rất lâu. Ông nói rằng ông vô cùng sợ hãi khi thấy một người rời khỏi phòng vệ sinh với khẩu súng ngắn. Ban đầu, ông nghĩ rằng ai đó “đang giỡn chơi” thôi, nhưng sau đó ông nhận ra hành động quay trở lại căn phòng và khóa cửa của người cầm vũ khí không chỉ xảy ra một lần. Grant nhanh chóng rời khỏi nhà vệ sinh, vừa đi vừa nhìn ra phía sau thì thấy người đó đang rời khỏi tòa nhà và bắt đầu đi lên con đường gần đó. Khi được hỏi liệu có nhận ra người này không, Grant xác nhận đã nhìn thấy hắn ở quanh thị trấn Kirkwall với cha hắn và xác định đó là Michael Ross.
Sau khi Donald Findlay đối chất lời khai, ông cho rằng Grant là một nhân chứng đáng nghi và mô tả Grant là “không đạt yêu cầu”. Grant bị buộc tội là kẻ nói dối và có ác cảm với Eddie Ross. Một phát hiện khác là Grant nhận được gợi ý tên của Michael Ross vài tháng sau vụ giết người và theo ngụ ý của bên truy tố, ông không nhận diện hắn ngay lập tức. Grant thú nhận ông có một chút “ý niệm” về tay súng nhưng không chắc chắn cho đến khi nghe người khác nói tên của hắn. Jane Grant - vợ cũ của Grant - khai rằng vào ngày mùng 1 tháng Chín năm 2006, ông nói với bà về việc ông biết Michael Ross là tay súng, nhưng ông chưa bao giờ báo cảnh sát hoặc nói với bất kỳ ai khác. Khi bà hỏi ông lý do, ông không thể trả lời.
Thiếu tá Graham Chubb - một chuyên gia về đạn dược đã phục vụ trong Lực lượng vũ trang Anh 35 năm - đưa ra bằng chứng liên quan đến viên đạn trong vụ giết người. Ông xác nhận đây là một trong số 54 triệu viên được sản xuất ở Ấn Độ và phục vụ cho quá trình huấn luyện sử dụng súng tiểu liên. Ông tuyên bố loại đạn này không phải là loại tiêu chuẩn dùng cho mục đích dân dụng, mặc dù ông thừa nhận về mặt pháp lý, chuyện này có thể xảy ra sau khi ông nhấn mạnh trong phiên tòa rằng có thể mua loại đạn này thông qua hình thức trực tuyến.
Norman MacLeod - trưởng cơ quan cấp phép súng cho Sở cảnh sát miền bắc - báo cáo trước tòa rằng từ năm 1992 đến 1995, Eddie Ross đã có chứng chỉ sử dụng một khẩu súng săn, hai khẩu súng ngắn ổ quay, ba khẩu súng trường và năm khẩu súng lục. Sau vụ xả súng ở trường Dunblane tại Scotland vào năm 1996, luật pháp của Vương quốc Anh liên quan đến vũ khí đã có một sự thay đổi lớn. Vì vậy, được phép sử dụng nhiều loại vũ khí như thế có thể gây sốc vào thời điểm xét xử, nhưng nó không có gì lạ trước đó, đặc biệt là ở một cộng đồng nông thôn.
Ronald Withers - một chuyên gia pháp y chuyên về đạn đạo vào có hơn 27 năm đảm nhiệm các vai trò liên quan đến súng - khẳng định rằng trước đây, ông chưa từng thấy loại đạn này trong vụ nổ súng. Ông cho hay, mặc dù viên đạn đó được bắn từ một khẩu súng ngắn, nhưng nó được thiết kế để dùng cho một khẩu tiểu liên. Điều đó càng làm tăng khả năng viên đạn sẽ mạnh hơn và vận tốc nhanh hơn. Khi được hỏi bao nhiêu người trên quần đảo có chứng chỉ đối với loại súng có thể bắn những viên đạn này vào thời điểm vụ nổ súng diễn ra, chuyên gia trả lời, “Sẽ có hàng nghìn người”.
Vào ngày 29 tháng Năm, tòa án được nghe lời khai từ James Spence. Người này xác nhận đã trộm những viên đạn từ căn cứ Thủy quân lục chiến Hoàng gia ở Arbroath sau khi chúng bị vứt đi. Spence cũng thừa nhận lúc trước đã nói dối cảnh sát, cử xử gian dối và tư lợi. Đồng thời, ông đã vi phạm. Đạo luật về súng mà trước đây ông chưa bao giờ bị truy tố về bất kỳ tội nào có liên quan.
Lynn Marie Neil - bạn gái cũ của Michael Ross - ra làm chứng vào đầu tháng Sáu. Cô nói với tòa rằng cô không thể nhớ từng nhìn thấy thứ vũ khí mà cô đã đề cập với cảnh sát. Khi được hỏi về lời khai gần đầy do cô ký xác nhận vào năm 2007, trong đó, cô mô tả nó là “một khẩu súng lục ổ quay kiểu cũ”, cô cho biết mình đã không đọc hết bản lời khai trước khi ký tên, bởi cô phải về nhà với con. Khi được hỏi tại sao Michael lại làm chuyện ngu ngốc như đem súng đi loanh quanh ngay sau vụ án mạng, cô nói chuyện đó thật ngu ngốc, nhưng cô cũng xác nhận Michael chưa bao giờ yêu cầu cô nói dối chuyện đó. Phó phòng điều tra Chisholm (hiện tại đã nghỉ hưu) được gọi đến để làm chứng. Những phần ghi âm của các buổi thẩm tra giữa ông và Michael Ross được mở tại tòa. Ông xác nhận mặc dù đã thẩm vấn ba lần, nhưng những người bạn học mà Michael cho là đã gặp vào buổi chiều tối hôm xảy ra vụ nổ súng đều xác minh là họ không gặp Michael. Ông đã thảo luận về một cuộc điều tra lớn hơn và việc khám xét nhà của gia đình Ross.
Vào ngày mùng 4 tháng Sáu năm 2008, Colin Ross - anh trai của Michael - là một trong những nhân chứng được gọi đến tòa để làm chứng cho nhân cách của em trai mình. Moira Ross - mẹ của Michael - thảo luận gay gắt với công tố viên. Họ thách thức bà khẳng định Michael không giết ai. Có ý kiến cho rằng chuyện giết người đối với sự nghiệp quân ngũ của Michael dường như là điều cấm kỵ và bà trả lời, “Thằng bé lúc đó 15 tuổi và không hề giết người”. Công tố viên đáp lại, “Về khía cạnh đó, những quý ông và quý bà trong bồi thẩm đoàn sẽ quyết định.” Đại úy Alexander Ramsay - một nhân chứng khác - mô tả Ross là một người đàn ông lịch thiệp và là “một trong những lính giỏi nhất, nếu không phải thì tôi cũng mới nói rồi đấy.” Những người lính khác, trong đó có một chuẩn hạ sĩ không phải là người da trắng - anh đã mất một người nhà trong cùng một cuộc tấn công mà Michael được tuyên dương vì lòng dũng cảm - xác nhận anh chưa bao giờ thấy Michael Ross phân biệt chủng tộc, và trong quân đội thì họ là anh em.
Cator Moyes là một trong những nhân chứng mâu thuẫn nhất tại phiên tòa. Mặc dù trước đây anh từng ký vào hai tờ khai xác nhận Michael Ross có quan điểm phân biệt chủng tộc, nhưng khi được hỏi về chuyện này trên tòa, anh trả lời, “Chuyện này xảy ra lâu rồi, tôi thực sự không nhớ.”
Suốt buổi thẩm vấn, anh có vẻ run rẩy và gần như sắp khóc. Sau đó, chuyện này đã dẫn đến một phiên tòa gây tranh cãi vào năm 2009 vì Moyes đã coi thường tòa án. Thẩm phán phát hiện Moyes né tránh và mô tả anh rất “thông minh và biết cách chuyển hướng câu hỏi.” Moyes khẳng định bản thân đã cố gắng hết sức để nói ra sự thực và thành thật mà nói thì anh không thể nhớ được. Mặc dù suýt chút nữa anh đã tránh được án tù đây là lần phạm tội đầu tiên, nhưng sau đó anh bị kết tội.
Khi phiên xét xử gần kết thúc, bồi thẩm đoàn được nhắc nhở về việc Eddie Ross bị đình chỉ công tác và kết án sau đó. Trong quá trình thẩm vấn, Eddie được hỏi rằng cậu con trai 15 tuổi của ông có thể tìm thấy một khẩu súng tiểu liên đã ngừng hoạt động ở đâu. Eddie xác nhận ông đã mua nó làm quà cho Michael, vì nó khá rẻ và an toàn. Ông cũng cho biết vào ngày mùng 2 tháng Sáu năm 1994, ông đã nhận ra hộp đạn trong khi đang làm nhiệm vụ nhưng lại nói dối về việc sở hữu loại đạn tương tự. Ông nghĩ rằng việc mình bị kết tội vào năm 1997 là một sự sai lầm của công lý và ông chỉ có một hộp đạn đã được niêm phong. Khi được hỏi tại sao ông thừa nhận quyền sở hữu những thứ này, ông nói ông “nghĩ rằng điều này sẽ giúp ích cho cuộc điều tra”. Eddie Ross đã kể về những viên đạn với Phó phòng điều tra John Smith. Người này thừa nhận rằng Michael thậm chí không phải là nghi phạm, cho đến khi người ta biết đến những viên đạn này.
Vào ngày 17 tháng Sáu năm 2008, phần kết thúc tranh luận diễn ra. Bên công tố nhận định vụ giết người này là một vụ mưu sát máu lạnh. Họ sử dụng bằng chứng gián tiếp để thể hiện một bức tranh về vụ giết người tàn bạo và phân biệt chủng tộc do một kẻ phân biệt chủng tộc và tàn bạo mới 15 tuổi thực hiện. Một kẻ đã bắn người mà hắn không thích chỉ vì màu da của người đó. Họ cũng không ngần ngại ca ngợi chiến công của Michael Ross và thừa nhận hắn đối xử công bằng với những người lính dưới quyền bất kể màu da của họ, nhưng điều đó không quan trọng. Phiên tòa không xem xét đến cuộc đời binh nghiệp hay tương lai tươi sáng tiềm năng của hắn, mà họ đang xem xét những hành vi của hắn vào tối ngày mùng 2 tháng Sáu năm 1994.
Bên bào chữa đồng tình rằng vụ án này thực sự là một vụ giết người dã man và có tính toán do một kẻ rõ ràng có ý định giết anh Mahmood chỉ bằng một phát bắn chuyên nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế, sự khác biệt là vụ án có thể là do một cậu bé 15 tuổi thực hiện. Họ mô tả bên công tố là “cùng đường bí lối”, sử dụng nhân chứng quan trọng nhưng người này lại “tư lợi”, “biết nói dối” và đưa ra bằng chứng gián tiếp mà không có mối liên hệ pháp lý nào giữa bị cáo và tội ác. Donald Findley nhắc nhở bồi thẩm đoàn trong phần kết thúc tranh luận thế này: “Không một nhân chứng nào có mặt tại hiện trường vụ nổ súng đưa ra bằng chứng là họ cảm thấy tay súng mới 15 tuổi.”
Vào ngày 20 tháng Sáu năm 2008, sau bốn tiếng cân nhắc, theo phán quyết đa số, bồi thẩm đoàn đã kết luận Michael Ross phạm tội giết người và cố gắng gây cản trở công lý. Michael tỏ ra thờ ơ khi thẩm phán nói với hắn rằng bản án sẽ bị hoãn trong lúc ông chờ một báo cáo điều tra những vấn đề xã hội xung quanh hoàn cảnh của hắn, từ đó, thẩm phán sẽ có kết luận về hình phạt dành cho bản án.
Trong khi sắp được đưa ra khỏi tòa, Michael Ross đã thực hiện một hành động bất ngờ nhưng vô nghĩa khi nhảy qua ghế ngồi của bị cáo. Luật sư bào chữa của hắn thấy thế liền hét lên, “Không, Michael, không!” và những viên chức tòa án đuổi theo hắn khắp tòa nhà. Gordon Morrison (61 tuổi) - một thương buôn tơ lụa vải vóc (kiêm một nhân viên dân sự phụ trách giữ trật tự trong tòa án) - đã “chụp giò” hắn. Ông Morrison bị xây xát nhưng thành công ngăn Michael bỏ trốn, chỉ cách cửa thoát hiểm chưa đầy 10m. Tòa án số 3 - nơi diễn ra phiên xét xử - được xem là một trong những phòng xử án có an ninh tốt nhất ở Scotland và được sử dụng cho những vụ án khủng bố. Vì vậy, chuyện xảy ra tại nơi này còn gây sốc hơn hành động cố gắng bỏ trốn bình thường. Người ta phát hiện ra Michael đã chuẩn bị một chiếc x echo thuê để trữ vũ khí, đậu cách tòa án chưa đầy 2km. Hắn đã chất đầy thùng xe với 542 viên đạn, một khẩu súng máy đã được nạp đạn đầy đủ, một quả lựu đạn, một khẩu súng lục, đồ dùng cắm trại và săn bắn, tiền bạc và quần áo. Nếu tẩu thoát thành công, hắn có ý định chuyển đến vùng cao nguyên xa xôi và sử dụng vũ khí để đi săn. Michael Ross sau đó thừa nhận hành vi cố gắng gây cản trở công lý và sở hữu súng ống, đạn dược. Sau khi tuyên bố bản án chính, hắn sẽ bị bỏ tủ thêm 5 năm.
Sau một vài cản trở vặt vãnh, Michael Ross bị kết án vào ngày 17 tháng Mười năm 2008. Hắn bị kết án tù chung thân tối thiểu là 25 năm. Ngài Hardie mô tả vụ giết người này là “một hành động hèn nhát” và nói với Ross rằng, “Bất chấp những lời tung hô trong cuộc đời binh nghiệp của bị cáo sau khi bị kết tội cho thấy bị cáo vẫn là một kẻ hèn nhát.” Đơn kháng cáo được đệ trình nhưng không được thông qua. Những nỗ lực pháp lý nhằm lật ngược phán quyết kết tội vẫn tiếp tục diễn ra.
Vào đầu tháng Mười một năm 2008, một người ẩn danh treo thưởng số tiền trị giá 100.000 bảng Anh trên tờ The Orcadian để đổi lấy thông tin liên quan đến vụ giết người. Bài quảng cáo tiếp tục cho biết người treo thưởng “cảm thấy tòa án đã phán quyết sai khi kết tội Michael Ross” và liệt kê một hộp thư bưu điện để gửi thông tin bí mật. Sự kiện này lan truyền khắp đất nước.
Amelia Swanney, 12 tuổi vào năm 1994 - một cư dân của Aberdeen nhưng xuất thân từ Orkney - đến nói rằng cô đã ở cùng Ross vào đêm xảy ra vụ giết người, ngoài ra, cô còn ở cùng những người bạn khác vào đêm hôm đó. Cô xác nhận mình làm vậy không vì phần thưởng, mà vì cô biết gia đình nhà Ross và chỉ muốn làm những điều đúng đắn.
Kể từ đó, Michael Ross đã bỏ trốn thêm ba lần. Lần thứ nhất, hắn cố gắng bỏ trốn khi đang ở trong xe chuyển đến nhà tù khác, lần thứ hai, hắn cố gắng ăn cắp một máy mài góc để trốn khỏi phòng giam, và lần thứ ba, hắn cố gắng leo hàng rào trong khi đang tập thể dục. Hắn tiếp tục xác nhận mình vô tội và chiến dịch “Công lý cho Michael Ross” đã được tiến hành kể từ khi hắn bị kết án. Chiến dịch quyên góp được hơn 33.000 bảng Anh để tìm kiếm lời khuyên pháp lý cho những nỗ lực lật ngược phán quyết kết tội. Trên quần đảo, vụ án vẫn đặc biệt gây xôn xao dư luận.
Vào năm 2018, Aamer Anwar - một luật sư nhân quynn hàng đầu ở Scotland và nổi tiếng với việc thực hiện những chiến dịch quan trọng cho khách hàng của mình - đã tiếp nhận vụ án của Michael Ross. Ông đã ở Orkney trong 3 ngày để tìm kiếm bằng chứng mới và nói chuyện với BBC Radio Orkney - một đài phát thanh địa phương, “Tôi đã tiếp nhận vụ này vì sau khi gặp Michael và kiểm tra các giấy tờ, tôi thấy rõ những mối bận tâm đáng kể liên quan đến cuộc điều tra giết người cũng như về bản án của anh ta…Tôi sẽ thuyết phục bất kỳ thành viên nào của công chúng có thông tin hỗ trợ chiến dịch công lý liên hệ với văn phòng của tôi.”
Vẫn còn rất nhiều người trong cộng đồng ủng hộ Michael Ross và cho đến năm 2020, chiến dịch ủng hộ đó vẫn tiếp diễn.