← Quay lại trang sách

12. TÊN MỤC SƯ HẮC ÁM. - David Brasfield -

Câu chuyện bắt đầu vào một ngày nắng như rang của tháng Sáu năm 1977 ở bang Alabama. Lúc đó, tôi mới 3 tuổi và đang sống trong một ngôi nhà trên cùng một con phố với nhà tang lễ Hutchinson. Trước những cặp mắt của 200 người đưa tang, một người nhân danh công lý đã bắn vào mặt Đức Cha Willie Maxwell. Mẹ tôi lái xe ngang qua và chứng kiến sự việc sau đó: nhà nguyện trông huơ trống hoác và mọi người chạy tán loạn trên bãi cỏ phía trước. Bà tự hỏi không biết chuyện gì đã xảy ra.

Thành phố Alexander - hay còn được người địa phương gọi là “thành phố Alex” - nằm nép mình giữa những rặng thông ở vùng đồi thấp dưới chân núi Appalachia, trên nền đất sét đỏ xếp sát giữa đá từ dung nham núi lửa và những mảnh thạch anh lấp lánh. Có một thời, người da đỏ Creek cư ngụ tại vùng đất này, nhưng vào năm 1814, Andrew Jackson đã đuổi họ đi thành công, khi ông giành chiến thắng tại khúc cua hình móng ngựa của sông Tallapoosa.

Vào năm 1902, Benjamin Russell - một cựu sĩ quan liên minh - quyết định mở một nhà máy sản xuất đồ lót để đáp ứng nhu cầu của phụ nữ. Nhà máy này mang tên ông và được đặt tại thành phố Alex. Vào năm 1926, Benjamin Russell Jr. - con trai ông - sáng chế một mặt hàng quần áo mà bây giờ thường được gọi là áo len. Đến năm 1973, doanh nghiệp gia đình này đã trở thành một tập đoàn quốc tế.

Ngày nay, mọi hoạt động sản xuất đã tiến hành ở nước ngoài, nhưng vào năm 1977, những công việc đó là “huyết mạch” của thị trấn. Hầu như mọi thứ ở thị trấn đều được đặt theo một thành viên của gia đình nhà Russell. Tôi được sinh ra ở bệnh viện Russell. Hai anh em trai của tôi đều học ở trường Trung học phổ thông Benjamin Russell. Chúng tôi đi mượn sách ở thư viện Adelia M. Russell. Trong những năm gần đây, thị trấn buộc phải đa dạng hóa và vẫn là một trong những thị trấn lớn nhất ở phía đông trung tâm Alabama, với dân số khoảng 14.000 người - một mức gia tăng khá nhỏ kể từ năm 1977.

Ngày đó, người da đen và người da trắng sống gần gũi với nhau, nhưng thực chất giữa họ vẫn còn sự phân biệt và công việc kinh doanh tang lễ cũng không ngoại lệ. Đến năm 1977, có hai nhà tang lễ hoạt động do người Mỹ gốc Phi mở ra để phục vụ cộng đồng. Một trong hai nhà tang lễ là Nhà Hutchinson thuộc quyền sở hữu của Fred Hutchinson.

Hutchinson nổi tiếng với những hành vi kinh doanh vô đạo đức. Ngoài nhà tang lễ, gã còn mở dịch vụ xe cấp cứu của riêng mình. Một cựu phóng viên của tờ báo địa phương đã nói với tôi về một trong những tin đồn nổi lên xung quanh dịch vụ này, “Nếu ai đó yếu dần [sắp chết], họ sẽ giải quyết bằng cách lái xe đi vòng quanh một lúc.”

Vào năm 1957, Hutchinson bị kết tội giết người cấp độ 124. Ông James “Geechy” Hunt (76 tuổi) - một trong những nhân viên cũ của Fred - đã chết trong một vụ cháy nhà và nhanh chóng được nhà Hutchinson an táng. Henry Ford - một tên đồng phạm - đã thú nhận với cảnh sát rằng Hutchinson đã trả hắn 800 USD Mỹ để chuốc say ông Hunt và đốt nhà ông ấy. Một người bán bảo hiểm làm chứng rằng ngay sau khi ông Hunt bị giết, Fred đã rút 9.000 USD Mỹ tiền bảo hiểm của ông ấy. Tờ báo địa phương Alexander City Outlook đã đăng tải những câu chuyện về vụ án ám chỉ “tang lễ trong ngày” của ông Hunt.

24. Theo báo VnExpress, giết người cấp độ 1 là mức độ nghiêm trọng nhất, ba dấu hiệu cấu thành tội phạm gồm: người phạm tội cố ý, có cân nhắc và suy tính trước khi thực hiện hành vi giết người.

Mặc dù bị tuyên án chung thân, nhưng vào năm 1977, Hutchinson ra tù và quay về tiếp tục công việc ở nhà tang lễ. Lúc đó, một người đàn ông khác đã bắt theo kế hoạch giết người lấy tiền bảo hiểm của gã và dường như nó được thực hiện một cách hoàn hảo.

Vào buổi sáng ngày 18 tháng Sáu, bạn bè và người nhà tụ họp tại Nhà của Hutchinson để tưởng nhớ cô gái Shirley Ellington (16 tuổi). Người ta tìm thấy cô bé trong tư thế nằm sõng soài dưới chiếc xe Ford Torino đời 1974, trông như cô đang thay lốp xe thì kích nâng xe bị tuột và chiếc xe lao xuống đè lên người cô. Tất nhiên, không ai tin điều đó. Ai lại nằm dưới gầm xe để thay lốp? Một báo cáo khám nghiệm tử thi sau đó kết luận rằng cô ấy đã tử vong trước vành lốp xe trượt xuống và ghiền nát cổ của cô ấy.

Chắc chắn, Robert Burns - cậu của cô gái - không tin Shirley qua đời do tai nạn. Trong suốt buổi lễ, ông ấy ngồi hàng ghế trước, nhìn chằm chằm xuống sàn nhà. Căn phòng chật kín người, nhưng điều khiến người khác chú ý lại là người đàn ông trong bộ trang phục màu xanh lá. Ông ấy khóc thút thít suốt buổi lễ.

Người mẹ nuôi của cô gái thể hiện nỗi thương tiếc dành cho con gái mình còn giả tạo hơn. Bà Ophelia Maxwell kêu gào đòi chui vào quan tài chung với con gái. Ôi đứa con tội nghiệp của bà ấy. Người ta phải kéo bà ấy ra và đưa bà ấy về lại hàng ghế ngồi. Đức Cha Willie Maxwell - chồng bà - phải trấn an bà. Ông ta chẳng buồn đến xem vợ mình diễn trò. Ông ta ngồi ở hàng ghế phía sau Burns, lấy khăn tay thấm mồ hôi trên mặt và phe phẩy quạt giấy để xua đi cái nóng.

Khi buổi lễ kết thúc và người đánh đàn organ bắt đầu chơi nhạc, một người phụ nữ trẻ đang ngồi kế bên ông Burns đột nhiên gây náo loạn. Cô ta quay về phía Đức Cha Maxwell và hét lên, “Ông giết em gái tôi và giờ ông phải trả giá cho chuyện đó!”

Một giây sau, ông ta đã thực sự phải đền mạng. Ông Burns đứng dậy, rút khẩu súng lục 0,25 ra khỏi túi áo khoác và bắn ba phát đạn vào mặt Đức Cha Maxwell. Khi người đàn ông chết gục trên hàng ghế, máu chảy ra như suối từ những cái lỗ trên đầu, Burns nói, “Ông đã bạc đãi gia đình tôi đủ lâu rồi.”

Nếu những lời cáo buộc là thật thì Willie Maxwell là một kẻ giết người hàng loạt, đặc biệt nạn nhân toàn là người nhà của mình. Vào ngày mùng 4 tháng Tám năm 1970, người ta tìm thấy Mary - người vợ đầu tiên của Đức Cha - trong tình trạng bị đánh đập và siết cổ trong chiếc xe đậu dọc theo quốc lộ 22, cách thành phố Alex 5km về phía bắc.

Vào năm 2008, Tom Radney kể với tôi, “Tôi nhận được một cuộc gọi vào khoảng 2 giờ sáng. Chuyện này cũng là thường tình đối với người làm trong ngành luật. Ông ấy nói, “Ngài Radney, cảnh sát ở xung quanh chỗ nhà tôi, họ tố cáo tôi giết vợ mình. Ngài có thể đến đấy và giúp tôi được không?”

Sau khi Radney xác định sẽ nhận được số tiền thích đáng cho nỗ lực trng vụ kiện tụng này, ông đồng ý làm luật sư đại diện cho Đức Cha. Ông ta bị buộc tội giết người cấp độ 1, ngoài ra còn có một đồng phạm bị cáo buộc khác nữa.

Hàng xóm kế bên nhà của Đức Cha Maxwell khai với cảnh sát rằng Mary Maxwell đã dừng xe ở trước nhà vào đêm bà bị giết. Chồng bà mới vừa gọi điện đến nói sau khi thuyết giảng một buổi phục hồi đức tin, ông ta gặp tai nạn xe hơi trên đường về nhà và bà sẽ đến đón chồng mình. Nhưng không ai nhìn thấy bà còn sống nữa.

Lời khai của Đức Cha Maxwell lại khác hẳn. Ông ta nói mình đã về nhà sau buổi phục hồi đức tin và đi ngủ ngay sau đó. Khi tỉnh dậy và phát hiện vợ mình chưa về, ông ta gọi điện cho bạn bè và người nhà để hỏi về vợ mình, nhưng ông ta chỉ biết vợ mình ở đâu sau khi cảnh sát đến vào sáng hôm sau để thẩm vấn ông ta. Các nhà chức trách sớm kết luận rằng ông ta không đến buổi phục hồi đức tin, mà đã dành một khoảng thời gian buổi chiều tối ở cùng một người phụ nữ trẻ. Họ buộc tội người này là đồng phạm của ông ta.

Bên công tố nghĩ rằng vụ án này “ngon ăn” rồi, nhưng sau đó, Dorcas Anderson - người hàng xóm - thay đổi lời khai. Trong khoảng thời gian trước khi vụ giết người xảy ra, chồng bà ấy đã qua đời sau một cơn bạo bệnh. Đức Cha đã trấn an bà ấy và đổi lại, bà ấy đã giúp ông ta tạo một bằng chứng ngoại phạm. Bây giờ, bà ấy tuyên bố đã tham dự buổi phục hồi đức tin với Đức Cha. Tất cả các cáo buộc đều bị bãi bỏ và không lâu sau, Dorcas Anderson trở thành Dorcas Maxwell - người vợ thứ hai của Đức Cha Maxwell.

Với sự trợ giúp của Radney, Đức Cha sớm thu tiền từ hợp đồng bảo hiểu tử nạn của bà Mary. Radney nói với tôi, “Tòa án tối cao của bang Alabama cho rằng vụ giết người này đối với người bị sát hạo là một tai nạn.Thẩm phán trao cho tôi toàn bộ số tiền bảo hiểm. Tôi đưa Đức Cha một nửa và giữ một nửa. Tôi tưởng mọi chuyện vậy là xong rồi.” Radney nói, “Ừ, hai hoặc ba tháng trôi qua và Đức Cha lại gọi điện cho tôi vào lúc 2 hoặc 3 giờ sáng.” Radney quay qua nói với vợ. “Tôi nói, ‘Mattie, anh vừa trải qua giấc mơ kì lạ nhất. Anh mơ thấy Đức Cha lại gọi điện cho anh.’ Vợ tôi đáp, ‘Chẳng phải giấc mơ đâu anh. Anh trả lời với ông ta rằng anh sẽ tới đó.’”

Vào tháng Chín năm 1972, người ta tìm thấy Dorcas Anderson Maxwell chết trong xe hơi của bà ấy, không xa nơi người ta tìm thấy bà vợ đầu của Maxwell. Cùng với số tiền bảo hiểm của người vợ đầu, Đức Cha Maxwell thụ hưởng một số tiền bảo hiểm rất lớn, ít nhất là 120.000 USD Mỹ.

Lúc này, công ty bảo hiểm từ chối trả tiền bồi thường. Nguyên nhân cái chết được xác định là “viêm phổi cấp tính”. Vì vậy, các luật sư của công ty bảo hiểm tranh cãi đây không phải tai nạn (Nhân tiện đây, các điều tra viên nghi ngờ nguyên nhân tử vong thực sự là ngạt thở, nhưng cũng không phải.)

Radney kiện công ty bảo hiểm ra tòa và thẩm phán mở rộng phạm vi bằng cách thẩm vấn nhà nghiên cứu chất độc. Theo một gluận giả định, nhà nghiên cứu chất độc thừa nhận vụ đụng xe có thể làm tình trạng bệnh lý tiềm ẩn thêm trầm trọng và khiến người phụ nữ đó qua đời. Thế nên, cái chết của bà ấy chỉ là một tai nạn và công ty bảo hiểm buộc phải trả tiền bồi thường.

Phán quyết đó cũng bảo vệ ông Maxwell trước một cáo buộc giết người: thực tế là toà án đã phán cái chết của bà Anderson là một tai nạn. Một lần nữa, có vẻ như Đức Cha Maxwell đã thoát khỏi tấm lưới công lý và kiếm được một khoản lợi nhuận kếch xù. Ông ta đã chia số tiền cho luật sư của mình. Radney cho tôi biết, với mỗi vụ đòi tiền bồi thường bảo hiểm, họ đều chia 50-50.

Tôi nói chuyện với Radney tại văn phòng làm việc của ông ấy - nơi còn được gọi là Nhà Maxwell, bởi người ta cho rằng Radney mua lại nơi này bằng khoản tiền bảo hiểm từ người thân đã qua đời của Đức Cha. Radney nói, “Tôi nghĩ tôi đã có đủ tiền để xây nói.”

Sau khi người vợ thứ hai của ông Maxwell qua đời, mọi người bắt đầu đặt câu hỏi về một cái chết đáng ngờ khác trong gia đình nhà Đức Cha. Vào ngày mùng 6 tháng Hai năm 1972, người ta tìm thấy John Columbus Maxwell - anh trai của Đức Cha - đã qua đời trên một cánh đồng. Theo kết quả khám nghiệm tử thi, nguyên nhân tử vong được xác định là do say rượu và bị phơi nhiễm. Nồng độ cồn trong máu của ông ấy là 0,48 - gấp gần 5 lần giới hạn luật định vào thời điểm đó. Về sau, các nhà điều tra viên đưa ra suy đoán với nhóm phóng viên rằng người đó đã bị giữ lại và bị ép uống nhiều rượu như vậy, nhưng không có bằng chứng cho thấy có hành vi phạm tội nào và cũng không có ai đưa ra cáo buộc nào.

Những người hàng xóm cũng bắt đầu thắc mắc liệu người chồng đầu tiên của bà Dorcas Anderson có thực sự chết tự nhiên hay không. Bấy giờ, họ mới nhớ rằng mỗi sáng, Đức Cha Maxwell đều đưa cho anh mình một tách cà phê và họ suy đoán trong tách cà phê đó có pha thêm chất chống đông. Chất độc này được cho là có vị ngọt và vì vậy, nó có tác dụng đối với những loài động vật được gọi là phiền phức, chẳng hạn như gấu trúc Mỹ. Cơ thể không tự xử lý được chất này, do đó nó tích tụ trong cơ thể cho đến khi gây chết người. Những người khác cho rằng ông ấy bị đầu độc bằng formaldehyde.

James Edward Hicks (22 tuổi) - cháu trai cuả Willie Maxwell - là người tiếp theo. Vào ngày 16 tháng Hai năm 1976, người ta tìm thấy cậu ấy chết trong xe hơi. Hai người đàn ông nói với các nhà chức trách rằng Đức Cha Maxwell cố gắng thuê họ giết Hicks và một người thân khác, mặc dù mỗi người trong cả hai đều không giữ đúng cam kết. Bất chấp lời khai của họ, vẫn không ai chứng thực được nguyên nhân tử vong và không ai đưa ra cáo buộc nào.

Đến bây giờ, những lời đồn đã đi quá xa. Làm thế nào mà một người đàn ông có thể thoát khỏi nhiều vụ tố cáo giết người như vậy, trừ phi ông ấy được những ác linh bảo vệ? Người ta nói rằng Đức Cha là một người đàn ông biết dùng bí thuật Voodoo25. Ông ấy học ma thuật với một nhóm gọi là Bảy chị em gái ở New Orleans.

25. Theo Totha.vn, bí thuật Voodoo là một hệ thống nghi lễ rất phức tạp, được thực hiện bởi hàng triệu người ở Châu Phi, vùng Caribbean, Louisiana và Nam Mỹ. Bí thuật này dựa trên sự tôn trọng và hài hòa với thiên nhiên, bao gồm các điệu múa hoang dã, hiến tế động vật để trả ơn thần linh, người quá cố, tôn kính tổ tiên… Tuy nhiên, người phương Tây nghĩ Voodoo là tà thuật, song rất ít đạo sư có thể dùng nó để thư ếm, hại người.

Trong lúc bàn luận về cái chết của Hicks, Radney nói, “Tôi nhớ đã hỏi nhà nghiên cứu chất độc của tiểu bang ‘Tại sao anh chàng này chết?’

Anh ta nói, ‘Ừm, tôi không chắc.’

Tôi tiếp tục hỏi, ‘Anh nói không chắc là ý gì? Anh giữ tất cả các báo cáo về nghiên cứu chất độc của bang Alabama, trng tòa nhà ở Auburn, vậy mà anh không thể nói với tôi tại sao một người lại chết à?’

Anh ta vẫn khăng khăng, ‘Không, tôi không thể.’

Thẩm phán Hooten… nói, ‘Anh đã dành 15,20 năm ở đây làm công việc xác định nguyên nhân tử vong. Điều gì khiến người đang ông tội nghiệp này chết vậy?’

[Nhà nghiên cứu về chết độc] thò tay vào túi và đáp, ‘Thưa Ngài Thẩm phán, tất cả những gì tôi có thể nói với Ngài là thứ mà dân gian da đen nói đến.’

Tôi dịch tay mình để lấy thứ đó ra.

Thẩm phán chấp nhận kiến nghị đó của tôi. Ông ta nói, ‘Với tư cách là một viên chức, hãy nói cho chúng tôi biết lý do vì sao cậu ấy chết.’

Anh ta đáp, ‘Thưa Thẩm phán, tôi không biết, nhưng trong túi của cậu ấy có… một thứ bột. Chúng tôi đã kiểm tra cẩn thận. Cục Điều tra Liên bang (FBI) đem thứ này đi chụp X-quang… Chúng tôi không điều tra ra thứ bột này là gì. Tôi không biết thứ bột này có liên quan đến vụ án hay không, nhưng nó là thứ kì lạ nhất mà chúng tôi tìm thấy.’”

Radney tiếp tục câu chuyện, “Tôi bắt đầu đi hỏi một người bạn da đen. Tôi hỏi anh ta, ‘Cái gì đã giết cậu ấy?’

Tôi ngạc nhiên, ‘Hả, bí thuật Voodoo giết cậu ấy?’

‘Vâng, thưa Ngài, chẳng phải trong túi của cậu ấy có thứ bột này sao? Nó là bí thuật Voodoo, bột bí thuật.’

‘Cậu ấy có được nó ở New Orleans.’

Dù gì đi nữa thì tôi cũng thích New Orleans, nên tôi đi tới đó một chuyến. Đến một cửa hàng bán đồ ma thuật, tôi bước vào và hỏi chuyện.”

Tiếp đó, Radney đã diễn lại cuộc trò chuyện giữa mình và nữ chủ cửa hàng bán đồ ma thuật. Ông hỏi cô có biết khách hàng của ông không. “Cô ấy nói, ‘Anh đang nói về vị mục sư thuyết giáo ở Alabama đó à?’

Tôi đáp, ‘Phải.’

‘Ông ta cũng thường đến đây.’

Tôi lấy ra một thứ được gọi là bột bí thuật Voodoo và hỏi, ‘Đó là gì?’

Cô ấy nói, ‘Ồ, cái đó xuất xứ ở châu Phi. Nó được làm từ… móng, phân của 20 loài động vật khác nhau và nhiều thứ khác. Không tìm ra trong đó có gì đâu. Tất cả những thứ trong đó đã được trộn lẫn ròi.’

Tôi cảm thán, ‘Thật thú vị.’

Radney kết thúc câu chuyện bằng việc thú nhận với tôi rằng ông ấy chưa bao giờ tiết lộ thông tin này với tòa án. Ông nói, “Tôi đành mặc kệ tiểu bang đứng ngồi không yên vậy.”

Không ai đề cập đến thứ bột kì lạ liên quan đến cái chết của James Hicks trong bất kì nguồn tin công khai nào. Có lẽ thời gian đã khiến Radney nhầm lẫn một số chi tiết. (Người ta nói đã tìm thấy trong túi của Đức Cha Maxwell thứ bột màu đen sau khi ông ta bị giết.) Và vị luật sư này được cho là đã thổi phồng sự thật. Trên thực tế, Radney đã nêu ra một triết lý, “Nếu bạn không biết rõ toàn bộ câu chuyện, hãy bịa thêm.” Và bí thuật Voodoo là thứ “gia vị” khiến câu chuyện thêm phần hấp dẫn.

Những tin đồn hay nghe thấy nhất ở thành phố Alexander vào những năm 1970 liên quan đến những con mèo mun ở nghĩa trang, những con gà không đầu bị treo trên cây hồ đào, máu được sơn trên cửa ra vào và tất nhiên, có cả căn phòng ma thuật của Đức Cha. Trong một cuộc phỏng vấn năm 2015, Robert Burns - người đàn ông đã bắn Đức Cha Maxwell - nói rằng mấy cô cháu gái của ông đến giúp bà quả phụ của Đức Cha dọn dẹp đồ dùng của Đức Cha sau khi ông ta bị giết. Burns nói, “Đúng, ông ta có một căn phòng ma thuật. Họ tìm thấy những hũ máu có dán nhãn ‘tình yêu’, ‘thù hận’, ‘tình bạn’ và ‘cái chết’.”

Phóng viên Al Benn của tờ Outlook phỏng vấn Đức Cha Maxwell và bà Ophelia - vợ ông, ngay sau khi người ta phát hiện ra thi thể của Shirley Ellington. Năm 2009, Benn nói với tôi, “Ông ta… Tôi không biết có phải anh nói đúng không, nhưng ông ta không hề vòng vo tam quốc. Ông ta trả lời thẳng thắn về những tin đồn này. Ông ta nói, ‘Đúng, để tôi đưa anh đi xem căn phòng bí thuật của tôi.’” Tuy nhiên, căn phòng đó chỉ chứa những món đồ nội thất rẻ tiền chắng đáng bao nhiêu.

Benn cũng phỏng vấn bà Ophelia. Dường như bà ấy chĩa mũi dùi trách móc nạn nhân. Bà ấy nói với anh rằng Cô Ellington “không còn là Shirley” trong những tuần cuối cùng trước khi chết và “con bé trở thành một người khác. Con bé chỉ mong thành công. Con bé chẳng giúp gì trong nhà.”

Cũng trng bài báo đó, Đức Cha Maxwell cho rằng cái chết của Shirley là do tai nạn. Ông nói, “Có lẽ con bé đã đánh rơi đai ốc hoặc bu lông dưới gầm xe trong khi thay lốp xe. Có lẽ con bé đang cố với lấy nó và chiếc xe đã trượt xuống.”

Mặc dù đưa ra giả thiết như vậy, nhưng Đức Cha biết rằng mình sẽ bị buộc tội nên đã nhờ luật sư giúp đỡ. Lần này, Radney tuyên bố rằng anh sẽ không tham gia.

Anh nói, “Thưa Đức Cha. Ông nói với tôi rằng ông không bao giờ giết ai. Tôi sẽ phải tin lời ông nói. Ông là khách hàng của tôi và tôi sẽ tin ông. Nhưng tôi sẽ không làm luật sư đại diện cho ông nữa.”

Và đúng như vậy, anh ấy không hề làm thế.

Sau khi Robert Burns bắn chết Đức Cha, ông bị hai sĩ quan hướng dẫn giao thông có mặt tại nhà nguyện bắt giữ. Anh trai của Đức Cha - người đã làm việc cho cục cảnh sát trưởng - thu khẩu súng mà Burns dùng để bắn ông ta. Trên đường đến nhà tù, Burns đã tuyên bố, “Tôi phải làm điều đó. Nếu cho tôi thêm một cơ hội, tôi vẫn sẽ làm như vậy.”

Tại phiên tòa tiếp theo, lời tự thú đó trở thành một tình tiết gây tranh cãi. Cảnh sát vẫn chưa thông báo cho ông ấy về quyền Miranda26 và có một vấn đề là liệu ông ấy đang thú tội với một viên chức pháp luật hay với một người nhà dễ đồng cảm cho hành vi mà ông đã gây ra. Luật sư của ông ấy sẽ thắng cuộc tranh luận vì phiên điều trần của bồi thẩm đoàn đã kháng biện lời tự thú đó.

26 Theo báo VnExpress, quyền Miranda (còn gọi là quyền im lặng) là một nguyên tắc pháp lý trao cho bất cứ cá nhân nào quyền từ chối trả lời câu hỏi do cảnh sát hoặc nhân viên tòa án đặt ra, trước hoặc trong giai đoạn tố tụng hình sự. Đồng thời, quyền này cũng yêu cầu thẩm phán hay bồi thẩm đoàn không được phép đưa ra suy đoán theo hướng bất lợi cho bị đơn từ sự im lặng của họ.

Và ai là luật sư bào chữa cho Burns? Tại sao, không ai khác ngoài Tom Radney.

Radney nói, “Tôi gọi cho hiệp hội luật sư và hỏi xem liệu có bất kì mâu thuẫn nào về việc tôi làm luật sư đại diện cho Robert Burns không. Họ nói, ‘Đức cha đã chết. Tôi thấy không có mâu thuẫn gì’.”

Radney tranh luận rằng Burns vô tội bởi lẽ trong phút chốc ông ấy đã cả giận mất khôn. Đừng bận tâm chuyện ông ấy mang súng tới đám tang. Khẩu súng đó có giấy phép và ông ấy có thể mang nó đi bất kì đâu. Các nhân chứng cho rằng trước, và trong và sau buổi lễ, Burns đã quẫn trí vì ông ấy yêu thương Shirley Ellington như con gái. Hai nhân chứng bên bào chữa có kiến thức tâm lý đã làm chứng thay cho ông ấy. Bên bào chữa cũng đưa ra nhân chứng danh tiếng27, gồm một người phụ nữ là bạn qua thư của Burns khi ông ấy phục vụ trong quân đội. Trong một bức thư ông ấy gửi cho cô - và nó trở thành vật chứng - Burns đã diễn giải lời của sĩ quan Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ Nathan Hale, “Anh đã ở đây trong 134 ngày và anh còn phải ở đây thêm 232 ngày nữa. Anh muốn em biết anh không hề hối tiếc một ngày nào cả. Anh chỉ hối tiếc rằng anh có mỗi một đời để cống hiến cho đất nước và những người như chính em.”

27 Theo Wikipedia, nhân chứng danh tiếng là một người làm chứng về danh tiếng của một người hoặc tổ chức kinh doanh, khi danh tiếng là vấn đề quan trọng trong tranh chấp.

Nhưng có lẽ, chiến thuật bào chữa hiệu quả nhất là sử dụng tình trạng quẫn trí của bị cáo để làm mất thời gian, chủ yếu đưa Đức Cha Maxwell ra xét xử thay vì bị cáo. Radney đã thẩm vấn những nhân chứng về việc Đức Cha bị cáo buộc những tội ác đó và ông ám chỉ những tin đồn bí thuật Voodoo đã lan truyền khắp thị trấn. Young - ủy viên công tố quận - hiểu rõ sự trớ trêu của việc Radney đưa khách hàng cũ của mình ra xét xử và bào chữa cho kẻ đã giết ông ta. Young hỏi, “Anh đang công kích nhà thờ à? Nhà thờ của Đức Cha Maxwell ấy, anh đang làm luật sư đại diện cho ai vậy?”

Khi phiên tòa kéo dài, hai luật sư thường xuyên phản đối, cãi vã và mỗi bên đều yêu cầu vô hiệu phiên tòa xử sai này, mặc dù lời yêu cầu của cả hai không được chấp thuận. Một điểm gây tranh cãi là lời thú nhận của Burns được phán là không thể chấp nhận được. Young đã quyết tâm khiến bồi thẩm đoàn chấp nhận lời tự thú đó.

Radney nói với Young, “Im miệng đi. Ý tôi là anh im miệng đi.”

Công tố viên ngắt lời, “Anh đi chết đi.”

“Thẩm phán nói anh không được đề cập đến chuyện đó trước mặt bồi thẩm đoàn.”

Young tiếp tục, “Anh đi chết đi.”

Radney đáp, “Sẽ đến lúc đó thôi.”

Cuối cùng, cả hai người họ cũng chịu dừng lại, nhưng chiến thuật đưa nạn nhân ra xét xử của Radney đã thắng thế. Bồi thẩm đoàn gồm 12 người đàn ông da trắng cảm thấy một người đàn ông da đen như Robert Burns vô tội, với lý do là trng phút chốc, ông ấy chỉ giấn quá mất khôn mà thôi. Burns được đưa đi giam giữ tại bệnh viên Bryce ở Tuscaloosa. Tại đây, họ kiểm tra và kết luận ông đã bình thường. Tại đây, họ kiểm tra và kết luận ông đã bình thường. Ông được thả và quay về làm việc vào tuần sau. Cùng năm đó, Tom Radney được vinh danh là “Người đàn ông của năm” ở thành phố Alexander.

Đối với nhiều người trong khu vực, công lý đã được thực thi. Vào năm 2009, tôi có cuộc nói chuyện với Jim Earnhard và Al Benn. Cả hai đều đã viết lại câu chuyện trên tờ Outlook. Earnhard nói với tôi, “Tom Young có lẽ khó chịu, nhưng tôi thực sự nghĩ rất nhiều người cho rằng tòa án và cảnh sát đã hoàn thành việc của họ, chứ không phải là bỏ qua chuyện đó.”

Benn nói, “Nhưng đã đến lúc ngăn tất cả chuyện đó lại.”

Earnhard cho biết, “Tôi không tin vào công lý tự xưng. Tôi mong muốn nhìn thấy ông ta bị xét xử…”

Benn nói thêm, “Và sau đó bị treo cổ.”

Earnhard hùa vào, “Thực sự không có lời giải thích nào cho chuyện đó.”

“Về mặt thống kê, không đời nào có thể có nhiều cái chết bí ẩn như vậy trong một gia đình trong vòng sáu hoặc tám năm. Điều đó thật khó lý giải.”

Bằng nỗ lực của Radney, vào năm 1978, Harper Lee đã đến thành phố Alexander. Bà dự tính viết một cuốn sách phi hư cấu, tiếp nối cuối tiểu thuyết kinh điển của bà - Giết con chim nhại (To Kill a Mockingbird).

Chính sự tham gia của bà Lee đã thôi thúc tôi nghiên cứu câu chuyện này. Khi đang theo học cao học vào năm 2002, trong một buổi tiệc của khoa, một vị giáo sư đã hỏi tôi yêu thích tác giả miền Nam nào. Bị hỏi bất ngờ, tôi trả lời là Harper Lee - cái tên duy nhất tôi có thể nghĩ đến. Bằng cách nào đó, tôi đã học xong bậc trung học và đại học ở Alabama mà chưa bao giờ đọc cuốn Giết con chim nhại. Cuối cùng, tôi đã gạch tên quyển sách đó ra khỏi danh sách truyện đọc của mình vào năm trước.

Sau buổi tiệc, tôi dừng chân ở phòng máy tính để nghiên cứu người mà tôi nhận là vị tác giả miền Nam yêu thích của mình. Một trong những trang web tôi tra được đề cập rằng bà Lee dành một khoảng thời gian rất lâu ở thành phố Alexander - quê hương của tôi - để nghiên cứu câu chuyện về kẻ được gọi là gã mục sư tà đạo.

Ký ức ùa về trong tôi. Khi tôi còn nhỏ, gia đình tôi hay nói về Đức Cha Maxwell lúc ăn khuya. Một người phụ nữ làm việc trong gia đình tôi nói với mẹ tôi rằng, “Suýt chút nữa tôi đã đến đám tang đó. Tôi nghĩ là họ định giết ông ta ở nghĩa trang.” Và thế là tôi bắt đầu nghiên cứu câu chuyện này.

Dường như mọi người đều có trng đầu một lý do về việc bà Lee không bao giờ viết xong cuốn Đức Cha (The Reverend). Benn cho là, “Chúng ta có cảm tưởng bà ấy cho rằng đó chẳng qua là sự vạch trần của những trò gian lận bảo hiểm.” Earnhard nói, “Khi quyển sách đầu tay của bạn đạt giải Pulitzer và tin đồn nổi lên rằng Truman Capote - biên tập viên của cuốn sách - mới thực sự là người làm nên thành tựu cho nói. Cuốn sách thứ hai của bạn tốt hơn là cúng đạt giải Pulitzer, hoặc những tin đồn sẽ làm gì đó ra trò cho xem… Theo tôi biết, bà ấy có viết thứ gì đó, nhưng lại không bao giờ viết xong.”

Trong buổi lễ kỷ niệm lần thứ 50 của ngày xuất bản cuốn Giết con chim nhại, Kathryn Tucker Windham - tác giả, nhiếp ảnh gia, nhà văn học dân gian và là bạn của Harper Lee - đã trao đổi với bà Lee rằng sau sự thành công phi thường của cuốn sách đầu tay, tại sao bà lại chần chừ không xuất bản cuốn sách tiếp theo. Bà Windham nói, “Khi một người đã viết ra một cuốn sách hay nhất thế giới thì họ còn tâm trí đâu mà viết thứ gì khác.” Câu nói này là sự lặp lại những lời của Alice Lee (chị gái của Harper). Bà đã viết cho tờ Guardian trước khi qua đời ở tuổi 103 và cho biết Harper “nói với một trong những người anh em họ của chúng tôi, ‘Chị không thể viết được thứ gì hay hơn cuốn này’.”

Mãi cho đến khi Radney qua đời vào năm 2011, ông ấy khăng khăng rằng bà Lee đã viết cuốn Đức Cha trong nhiều năm sau khi rời thành phố Alexander. Ông nói, “Tôi đã nói chuyện với bà ấy. Bà ấy từng gọi cho tôi mỗi dịp Giáng sinh. Có một dịp Giáng sinh, bà ấy gọi và nói, ‘Có lẽ tôi sẽ ra mắt nó vào tháng 5.’ Bà ấy cứ nói như vậy từ năm này qua năm khác.” Nhưng vào đầu năm 2009, chính bà ấy trả lời thư của tôi và nhờ tôi cung cấp một số thông tin, “Khi đến thành phố Alex vào những năm trước, tôi nghe được hàng đống tin đồn, những câu chuyện phóng đại và những chuyện bé xé ra to. Tôi tin rằng thời gian đã khiến cho câu chuyện về Đức Cha Maxwell lắng dịu và tôi mong ông khỏe mạnh.”

Bức thư ngắn lặp đi lặp lại thành một bức thư dài hơn và được gửi đến tác giả miền Nam Madison Jones vào năm 1987. Trong thư, bà cảnh báo ông đừng dính vào chuyện này, bằng cách nêu chi tiết những vấn đề bà gặp phải khi hoàn thành cuốn sách, bao gồm những cuộc gặp gỡ với rất nhiều người mong muốn bán hoặc có cơ hội giao dịch với những câu chuyện của họ. “Không một thước đo nào có thể đong đếm được lòng tham hư vinh phù phiếm của con người. (‘Tôi thường được hỏi những câu như ‘Khi nào thì bộ phim ra mắt công chúng?’ và ‘Liệu tôi tham gia bộ phim được chứ?’)’

Sau đó, bà ấy chuyển hướng sang nói về Radney, “Nếu như ông vẫn chưa dính vào chuyện này, thì ông sẽ sớm thân thiết với Tom Radney. Dịch vụ pháp lý của ông ấy rất quan trọng đối với sự khỏe mạnh và hạnh phúc của Đức Cha Maxwell và kẻ ám sát Đức Cha. Tôi thấy Tom Radney là người có tinh thần hợp tác, tính tình hào phóng và tốt bụng nhất. Tuy nhiên, đồng thời, những phương pháp tâm lý của Radney khiến tôi lâm vào trạng thái mê mẩn: ông ấy dường như xem bải thân mình là sự pha trộn giữa Atticus Finch28 và Robert Redford29. Tôi hết hồn trước khả năng ghi nhớ những sự kiện của ông ấy. Nếu như ông ấy theo đuổi sự chính xác, hãy kiểm tra những gì ông ấy nói; còn nếu như ông muốn trở thành một người hùng, hãy bịa ra.”

“Dự án mà tôi tham gian chỉ là báo chí thông thường theo kiểu cổ điển - những sự kiện. Sau nhiều tháng tìm hiểu và nghiên cứu, tôi phát hiện ra những điều sau đây… Tôi không có đủ dữ liệu về những tội ác có thật để viết thành một cuốn sách.”

Mặc dù Harper Lee đã trả lời rõ ràng cho câu hỏi liệu bà đã viết xong cuốn Đức Cha hay chưa, nhưng bà vẫn bỏ ngỏ hai câu hỏi mới. Bà nói với Jones, “Tuy nhiên, nếu ông quan tâm đến sự thật của vấn đề này, tôi mong rằng hầu hết những gì mà ông nghe hôm nay sẽ trở thành huyền thoại. Kỳ lạ thay, mới đầu tôi nghĩ chúng dựa trên giả định không có thật – Đức Cha Maxwell là một kẻ biết dùng bí thuật Voodoo. Tôi đã truy tìm nguồn gốc của gần như mọi tin đồn đó, và nếu ông làm y như vậy, ông sẽ bất ngờ cho xem.”

28 Atticus Finch là nhân vật hư cấu trong tác phẩm (sách và phim) Giết con chim nhại. Anh được mô tả là người luôn đứng ngoài cuộc sống, dũng cảm và can đảm chống lại sự giả dối và bất công.

29. Robert Redford là một diễn viên kiêm đạo diễn người Hoa Kỳ có phong cách đặc biệt ở thập niên 70.

Những tin đồn có thể bắt nguồn từ người nhà của gia đình Đức Cha hoặc luật sư của ông ta. Radney chắc chắn rất sẵn lòng kể thêm về câu chuyện đó.

Trong bức thư gửi cho Madison Jones, Harper Lee vẫn chưa trả lời câu hỏi còn lại về tên của kẻ đồng phạm trong hai vụ giết người và một kẻ không tố giác tội phạm trong một vụ án có sự tham gia của Đức Cha. Bà nói, “Tôi tin người từng là đồng phạm/kẻ không tố giác tội phạm vẫn còn sống và sống cách nơi ông ở không quá 240km.”

Câu nói đó có lẽ nhắm đến kẻ đồng phạm bị cáo buộc và bị buộc tội giết người cấp độ 1 sau vụ giết Mary - người vợ đầu tiên của Maxwell. Đó là Ophelia Burns, sau này trở thành người vợ thứ ba của Đức Cha Maxwell. Người phụ nữ này có vẻ rất quẫn trí trong đám tang của Shirley Ellington. Vào thời điểm Lee gửi thư cho Jones, bà Ophelia vẫn đang sống ở thành phố Alex.

Ngày nay, câu chuyện về Đức Cha Maxwell đã phát triển thành một câu chuyện ma và được chiếu trên kênh Khoa học viễn tưởng (Sci-Fi, bây giờ là SYFY), nhưng nhiều người ở phía đông trung tâm Alabama vẫn còn nhớ về Đức Cha Maxwell ngoài đời thật. Gia đình ông ấy vẫn sống ở đây. Câu chuyện tiếp tục tạo ra sự chú ý và khiến họ hoang mang, nên gia đình ông mong mọi người sẽ thôi để ý tới họ và quan tâm đến việc khác. Những người khác ngạc nhiên khi thấy Radney đã thành công thay đổi bản thân thành một anh hùng của câu chuyện, sau khi ông chiếm được khá nhiều tiền bảo hiểm - động cơ của rất nhiều tội ác bị cáo buộc. Những người khác ngạc nhiên khi thấy Radney đã thành công thay đổi bản thân thành một anh hùng của câu chuyện, sau khi ông chiếm được khá nhiều tiền bảo hiểm - động cơ của rất nhiều tội ác bị cáo buộc. Những người khác chỉ đơn giản bị một câu chuyện hấp dẫn, với những tình tiết lắt léo có thể so với những chỗ quanh co khúc khuỷu của sông Tallapoosa.