← Quay lại trang sách

Chương 1 (C)

IV - Vào dịp lễ Giáng sinh họ thiếu ăn.

Mùa đông đến sớm, và trời vừa lạnh, vừa khắc nghiệt lại chẳng chịu khắc phục giống như cái đục sắt của người thợ đá. Táo vẫn còn trên cây khi cơn tuyết đầu tiên phủ xuống cánh đồng. Người ta gọi nó là đợt rét đột ngột, nghĩ rằng nó sẽ chóng qua, nhưng không phải vậy. Những ngôi làng cày trễ trong mùa thu đã bị vỡ lưỡi cày trên đất cứng như đá. Các nông dân vội vàng giết heo, muối chúng cho mùa đông, và các lãnh chúa giết gia súc, vì sự chăn thả gia súc trong mùa đông không thể bằng mùa hè. Nhưng mùa đông dài vô tận làm cỏ héo úa và một số thú vật còn lại chết bằng cách này hay cách khác. Chó sói tuyệt vọng, chúng vào trong làng khi trời nhá nhem tối và cướp đi những con gà gầy còm và những trẻ thơ bơ phờ.

Về phía xây dựng, chẳng bao lâu sau khi cơn tuyết đầu mùa đổ xuống, các bức tường được xây trong mùa hè phải được vội vàng che phủ bằng rơm và phân để đề phòng cái lạnh khắc nghiệt nhất, bởi vì vữa trong tường chưa khô hẳn, và nếu nó bị đóng băng, tường sẽ nứt ra. Việc làm vữa bị ngưng lại,cho đến khi mùa xuân trở lại. Nhiều thợ hồ chỉ được mướn cho mùa hè, và giờ đây họ trở về làng cũ, nơi họ không còn là thợ hồ nữa mà làm mọi nghề, dành cả mùa đông làm lưỡi cày, yên ngựa, công cụ lao động, xe bò, xẻng, cửa và bất cứ việc gì cần đến bàn tay khéo léo với chiếc búa, đục và cưa. Các thợ hồ khác di chuyển vào trong các nhà có mái che và suốt ngày cắt đá theo những hình dạng phức tạp. Nhưng tuyết đổ quá sớm và công việc tiến triển quá nhanh, và bởi vì các nông dân bị đói, nên các giám mục, các người cai quản thành trì và các lãnh chúa có ít tiền để chi cho việc xây dựng hơn họ dự định. Và vì thế khi mùa đông vừa đến, một số thợ hồ đã bị sa thải.

Tom và gia đình đi bộ từ Salisbury tới Shaftesbury, rồi từ đó đến Sherborne, Wells, Bath, Bristol, Gloucester, Oxford, Wallingford và Windsor. Ở mọi nơi, ngọn lửa bên trong nhà cháy rực, và sân nhà thờ cũng như các bức tường thành còn vang lên bài ca của sắt trên đá cứng, và thợ xây dựng chính làm những mô hình nhỏ về các mái vòm và khung vòm bằng bàn tay khéo léo của họ. Một vài thợ xây dựng chính thiếu kiên nhẫn, thô lỗ và bất lịch sự; những người khác nhìn những đứa con gầy guộc và bà vợ đang mang thai của Tom một cách buồn bã, rồi nói những lời tử tế và lấy làm tiếc; nhưng mọi người đều cùng nói một câu: Không, ở đây không có việc cho ông.

Bất cứ khi nào có thể, họ lợi dụng lòng hiếu khách của các tu viện, nơi mà khách vãng lai luôn được cho một bữa ăn và một nơi để ngủ - chỉ cho một đêm duy nhất. Khi những trái dâu đen chín trên bụi cây, họ sống nhờ đó như những con chim. Trong rừng, Agnes nhóm lửa dưới chiếc nồi sắt và nấu cháo. Nhưng vẫn có nhiều lần, họ phải mua bánh từ tiệm và cá từ cửa hàng, hay ăn trong quán bia hoặc tiệm ăn, dĩ nhiên nó mắc hơn là họ tự nấu; và vì thế tiền của họ hao đi nhanh chóng.

Tự bản chất, Martha đã gầy sẵn nhưng càng ngày càng gầy hơn. Alfred vẫn phát triển cao hơn, giống như cỏ dại phát triển trong đất bằng, và cậu cao lêu nghêu. Bản thân Agnes ăn ít, nhưng đứa bé trong bụng bà tham ăn, và Tom có thể thấy rằng bà bị cơn đói dày vò. Một đôi khi ông ra lệnh cho bà ăn nhiều hơn, và ý chí cứng như sắt của bà cũng phải quỵ lụy vì uy quyền của chồng và của đứa con chưa sinh. Bà vẫn chưa phát mập và hồng hào như trong thời gian mang thai khác. Thay vào đó, bà gầy gò mặc dù bụng bà phình to, giống như đứa trẻ thiếu ăn trong nạn đói.

Từ khi rời Salisbury họ đã đi vòng quanh ba phần tư của một vòng tròn lớn, và vào cuối năm họ đã trở lại khu rừng rộng lớn, trải dài từ Windsor tới Winchester. Tom đã bán công cụ thợ xây của mình, và không phải tất cả, nhưng một vài xu đã được chi tiêu: ông phải mượn đồ nghề hoặc mua nó bao lâu ông tìm được việc làm. Nếu ông không tìm được việc ở Winchester, ông không biết phải làm sao. Ông có anh em ở vùng quê của ông; nhưng ở mãi phía bắc, cách đây vài tuần du hành, và gia đình ông sẽ chết đói trước khi đến được đó. Agnes là đứa con duy nhất và cha mẹ bà đã qua đời. Không có công việc đồng áng giữa mùa đông. Có lẽ Agnes sẽ tìm được vài xu như một người giúp việc trong một gia đình giầu có ở Winchester. Bà chắc chắn không còn có thể lang thang lâu hơn trên đường, vì ngày sinh đã gần kề.

Nhưng Winchester còn ba ngày đường nữa và bây giờ họ đói. Dâu đen đã hết, không có bóng tu viện nào trước mắt, và Agnes không còn gì trong chiếc nồi mà bà đeo trên lưng. Đêm hôm trước họ đã đổi một con dao lấy một ổ bánh lúa mạch, bốn bát canh không thịt, và một nơi để ngủ qua đêm bên cạnh đống lửa trong túp lều của một nông dân. Từ đó họ không thấy ngôi làng nào. Nhưng vào cuối buổi chiều, Tom nhìn thấy khói bốc lên sau hàng cây, và họ tìm thấy căn nhà nằm đơn độc của một viên kiểm lâm, một viên cảnh sát kiểm lâm của nhà vua. Ông ấy đưa cho họ một bao củ cải để đổi lấy cái rìu nhỏ của Tom.

Họ đi bộ thêm ba dặm và Agnes cho biết bà đã quá mệt để tiếp tục đi. Tom ngạc nhiên. Trong cả thời gian chung sống với nhau, chưa bao giờ bà nói quá mệt cho bất cứ điều gì.

Bà ngồi xuống trong bóng mát của một cây dẻ bên đường đi. Tom đào một lỗ nhỏ để đốt lửa, dùng một cái xẻng gỗ - một trong vài đồ dùng còn lại vì không ai muốn mua nó. Trẻ em thu thập cành cây và Tom mồi lửa, rồi ông lấy nồi, đi tìm một dòng suối. Ông trở lại với nồi đầy nước đá và đặt lên cạnh đống lửa, Agnes cắt một số củ cải. Martha thu nhặt hạt dẻ rơi xuống từ cây và Agnes chỉ chúng cách gọt vỏ và nghiền phần mềm bên trong thành bột thô để làm cho súp củ cải đặc hơn. Tom nói Alfred đi tìm thêm củi, trong khi đó ông lấy một cây gậy và đi thọc xuống lá rừng khô, mong sẽ tìm thấy một con nhím hay một con sóc đang ngủ đông để cho vào nồi súp. Nhưng may mắn không đến với ông.

Ông ngồi xuống bên cạnh Agnes trong khi màn đêm buông xuống và nồi súp đang nấu. "Chúng ta còn chút muối nào không?" ông hỏi bà.

Bà lắc đầu. "Anh đã ăn cháo nhiều tuần nay không có muối," bà nói. "Anh không nhận ra điều đó à?"

"Không."

"Đói là gia vị tốt nhất."

"Vâng, chúng ta có nhiều gia vị đó." Bất ngờ Tom cảm thấy mệt khủng khiếp. Ông cảm nhận gánh nặng của thất vọng chồng chất trong bốn tháng qua và ông không còn can đảm nữa. Ông nói bằng giọng chán chường: "Đâu là những sai lầm, Agnes?"

"Mọi sự," bà nói. "Anh không tìm được việc làm trong suốt mùa đông. Anh có một công việc trong mùa xuân; nhưng người con gái của lãnh chúa đã hủy cuộc hôn nhân và chủ William đã hủy việc xây dựng của chúng ta. Sau đó chúng ta quyết định ở lại làm việc trong mùa gặt – đó là một sai lầm."

"Chắc chắn đối với anh, tìm việc trong mùa hè thì dễ hơn là tìm việc trong mùa thu."

"Và mùa đông đến sớm. Và mặc dù tất cả những điều đó, chúng ta vẫn được bảo đảm, nhưng rồi con heo của chúng ta bị ăn cắp."

Tom gật đầu một cách mệt mỏi. "Điều an ủi duy nhất của anh là được biết rằng tên trộm bây giờ đang chịu nhiều cực hình trong hỏa ngục."

"Em cũng hy vọng như vậy."

"Em có nghi ngờ về điều đó không?"

"Các linh mục không biết nhiều như họ nói. Hãy nhớ rằng bố em cũng là một linh mục.”

Tom nhớ rất rõ. Một bức tường của nhà thờ giáo xứ của bố bà đã sụp đổ không thể sửa chữa được, và Tom đã được thuê để xây lại. Linh mục không được lập gia đình, nhưng vị này có bà giúp việc, và bà giúp việc có một người con gái. Trong làng có một bí mật mà mọi người đều bết đó là linh mục là bố của cô gái. Agnes không đẹp lắm, ngay cả sau đó, nhưng da bà tươi trẻ và bà tràn đầy nghị lực. Bà nói chuyện với Tom khi ông làm việc ở đó. Một đôi khi gió thổi quần áo sát vào người bà, nên Tom có thể nhìn thấy đường cong của thân thể bà, như thể bà đang khỏa thân. Một đêm bà đến căn lều nhỏ nơi ông ngủ, đặt tay lên miệng ông như ra hiệu đừng nói gì, và cởi quần áo ra để ông có thể thấy thân thể trần truồng của bà dưới ánh trăng, và rồi ông ôm lấy thân thể mạnh mẽ, trẻ trung của bà trong cánh tay và họ làm tình.

"Khi đó chúng ta đều là trinh nữ," ông nói to.

Bà biết ông đang nghĩ gì. Bà mỉm cười, và khuôn mặt bà đượm buồn, và bà nói: "Dường như đã lâu rồi."

Martha nói: "Chúng ta có thể ăn bây giờ chưa?"

Mùi của súp làm bao tử Tom cồn cào. Ông nhúng bát vào cái vạc sôi và lấy ra vài miếng củ cải trong cháo lỏng. Ông dùng cạnh sắc của con dao để thử củ cải. Nó chưa kỹ hẳn, nhưng ông quyết định không chờ thêm nữa. Ông đưa cho mỗi con một chén, rồi đem một chén cho Agnes.

Bà nhìn chăm chú và ưu tư. Bà thổi cho súp nguội, rồi đưa bát lên miệng.

Trẻ em ăn nhanh hết phần mình và muốn nữa. Tom lấy nồi ra khỏi lửa, dùng ven áo choàng để tay mình không bị bỏng, và gạt hết phần súp còn lại vào chén của các con.

Khi ông trở về bên cạnh Agnes, bà hỏi: "Còn anh thì sao?"

"Ngày mai anh sẽ ăn," ông nói.

Bà quá mệt để tranh luận.

Tom và Alfred khêu lửa cao lên và thu thập đủ củi để đốt qua đêm. Sau đó tất cả cuộn trong áo choàng và nằm xuống ngủ trên đống lá.

Tom ngủ không sâu, và khi Agnes rên, ông thức giấc ngay. "Cái gì vậy?" ông thì thầm.

Bà lại rên. Khuôn mặt bà nhợt nhạt và đôi mắt khép kín. Một lúc sau bà nói: "Đứa bé sắp ra đời."

Trái tim Tom lỡ nhịp. Không thể ở đây, ông nghĩ; không thể ở đây trên nền đất lạnh giữa rừng sâu này. "Nhưng nó chưa đến ngày," ông nói.

"Nó đến sớm."

Tom giữ giọng bình tĩnh. "Nước đã chảy ra chưa?"

"Sau khi chúng ta rời căn lều của viên kiểm lâm," Agnes thở hổn hển, mắt vẫn không mở.

Tom nhớ một lần bà đã bất thình lình lẩn vào trong bụi cây như để trả lời một cuộc gọi khẩn cấp của thiên nhiên. "Và có những cơn đau không?"

"Kể từ lúc đó."

Bà đã giữ kín điều đó.

Alfred và Martha cũng đã dậy. Alfred hỏi: "Chuyện gì xẩy ra vậy?"

"Đứa nhỏ sắp chào đời," Tom nói.

Martha bật khóc.

Tom cau mày. "Em có thể đi trở lại căn lều của viên kiểm lâm không?" ông hỏi Agnes. Ở đó ít nhất họ có mái nhà, có rơm để nằm và có người giúp đỡ.

Agnes lắc đầu. "Đứa bé sắp ra."

Như vậy là chẳng còn bao lâu nữa! Họ đang ở trong khu hoang vắng nhất của khu rừng. Từ sáng nay họ không nhìn thấy ngôi làng nào, và viên kiểm lâm nói cả ngày mai nữa họ cũng sẽ không thấy cái nào. Điều đó có nghĩa là không thể tìm ra một phụ nữ làm nữ hộ sinh. Chính Tom phải lo cho con mình, trong cái lạnh, chỉ có sự giúp đỡ của các con, và nếu có chuyện xẩy ra, ông không có thuốc, không có kiến thức.

Đây là lỗi của tôi, Tom nghĩ. Tôi lấy bà làm vợ khi bà còn trẻ và tôi đưa bà vào cảnh túng thiếu. Bà tin tưởng tôi sẽ lo cho bà, và bây giờ bà đang sinh con giữa trời trong mùa đông. Ông luôn xem thường những đàn ông sinh con rồi để chúng chết đói; và bây giờ ông cũng không khá gì hơn họ. Ông cảm thấy xấu hổ.

"Em quá mệt," Agnes nói. "Em không tin rằng em có thể sinh con ra. Em cần nghỉ." Khuôn mặt bà lấp lánh trong ánh lửa, với một màng mỏng mồ hôi.

Tom nhận ra ông phải gắng sức lên. Ông muốn cho Agnes sức mạnh. "Anh sẽ giúp em," ông nói. Không có gì bí ẩn và phức tạp về những gì sắp xẩy ra. Ông đã quan sát nhiều đứa trẻ được sinh ra. Công việc thường được một người đàn bà thực hiện, bởi vì họ hiểu người mẹ cảm thấy như thế nào và vì thế họ có thể giúp người mẹ nhiều hơn; nhưng không có lý do gì tại sao một người đàn ông lại không thể làm việc đó khi cần thiết. Trước hết ông phải để cho bà được thoải mái: rồi tìm xem bao lâu nữa đứa bé sẽ sinh ra, sau đó chuẩn bị tinh thần, rồi làm cho bà bình tĩnh và trấn an bà trong khi chờ đợi.

"Em cảm thấy thế nào?" ông hỏi bà.

"Lạnh," bà trả lời.

"Hãy đến gần ngọn lửa," ông nói. Ông cởi áo khoác và trải trên nền xa ngọn lửa một mét. Agnes cố tự đứng lên. Tom dìu bà lên, và để bà nhẹ nhàng ngồi xuống trên áo khoác của ông.

Ông qùy xuống bên cạnh bà. Áo dài len bà đang mặc bên dưới áo choàng có hàng nút dài phía trước. Ông mở hai nút và đưa bàn tay vào phía trong. Agnes thở hổn hển.

"Em có đau không?" ông hỏi, ngạc nhiên và lo âu.

"Không," bà nói với một nụ cười ngắn. "Tay anh lạnh quá."

Ông cảm thấy vòng bụng của bà. Sự căng tròn cao hơn và nhọn hơn tối hôm qua, khi hai người đã ngủ chung trong đống rơm trên nền túp lều của nông dân. Tom ấn mạnh hơn, cảm thấy hình dạng của thai nhi. Ông thấy một đầu thân thể, ngay dưới rốn của Agnes; nhưng ông không xác định được chỗ đầu kia đâu. Ông nói: "Anh có thể cảm thấy đít của nó, nhưng không thấy đầu."

"Bởi vì nó đang trên đường ra," bà nói.

Ông đắp cho bà và choàng áo khoác xung quanh bà. Ông phải chuẩn bị nhanh chóng. Ông nhìn các con. Martha khụt khịt. Alfred sợ hãi nhìn. Phải cho chúng điều gì để làm.

"Alfred, con đem nồi ra suối. Rửa sạch nó và lấy đầy nước sạch đem về. Martha, con thu một số lau sậy và làm cho bố hai vòng dây dài, mỗi cái đủ lớn cho một vòng cổ. Bây giờ nhanh lên. Các con sẽ có một em trai hay em gái khi bình minh ló dạng."

Chúng đi khỏi. Tom lấy ra con dao ăn và một hòn đá cứng nhỏ và bắt đầu mài lưỡi dao cho sắc. Agnes lại rên. Tom bỏ con dao xuống và cầm lấy tay bà.

Ông đã ngồi với bà như thế này khi những đứa con khác được sinh ra: Alfred; rồi Matilda, đứa bé đã mất khi được hai tuổi; và Martha; và đứa khác đã chết khi sinh ra, một đứa con trai mà ông đã ngấm ngầm dự định đặt tên là Harold. Nhưng mỗi lần đều có người giúp đỡ và trấn an – mẹ Agnes giúp Alfred, một nữ hộ sinh trong làng giúp Matilda và Harold, và một bà trong ấp giúp Martha. Lần này ông phải tự làm lấy một mình. Nhưng ông không được tỏ ra lo lắng: ông phải làm cho bà cảm thấy hạnh phúc và tin tưởng.

Bà nhẹ nhõm khi cơn co thắt qua đi. Tom nói: "Em có nhớ khi Martha được sinh ra, bà Isabella đã giúp như một nữ hộ sinh?"

Agnes mỉm cười. "Khi đó anh đang xây một nhà nguyện và anh yêu cầu bà sai người giúp việc đi đem bà đỡ từ làng về… Và bà ấy nói: ' bà phù thủy say rượu đó ư?' Và bà đưa chúng ta vào phòng của bà, và chủ Robert đã không thể lên giường cho đến khi Martha được sinh ra."

"Bà ấy là người đàn bà tốt."

"Không có nhiều người phụ nữ giống bà ấy."

Alfred trở về với chiếc nồi đầy nước. Tom để nó xuống gần đống lửa, không gần quá vì sợ nó sôi, chỉ để gần để có nước ấm. Agnes thò tay vào trong áo khoác, lấy ra một túi lụa nhỏ có đựng một miếng giẻ sạch mà bà đã chuẩn bị.

Martha trở lại, tay cầm đầy lau sậy. Cô ngồi xuống tuốt lá. "Bố cần vòng sậy để làm gì?" cô hỏi.

"Một việc rất quan trọng, rồi con sẽ thấy," Tom nói. "Hãy làm thật tốt."

Alfred nhìn bồn chồn và bối rối. "Con đi thu thêm củi," Tom nói với cậu. "Hãy làm một đống lửa lớn hơn." Cậu trai ra đi, vui vì có cái gì đó để làm.

Khuôn mặt của Agnes căng thẳng khi bà bắt đầu rặn, đẩy đứa nhỏ ra khỏi bụng, tạo ra một tiếng động giống như một cây rung rinh trong bão. Tom có thể nhìn thấy rằng sự cố gắng này lấy đi sức mạnh dự trữ cuối cùng của bà; và ông ước muốn với tất cả tâm hồn rằng ông có thể rặn thay bà, chịu đựng thay cho bà và cho bà một chút nhẹ nhàng. Sau cùng, dường như sự đau đớn giảm dần, và Tom có thể thở. Agnes dường như chìm vào giấc ngủ.

Alfred trở về, trên tay đầy củi.

Agnes tỉnh lại và nói. "Em lạnh quá."

Tom nói: "Alfred, hãy đốt thêm lửa. Martha, nằm xuống bên mẹ và giữ cho mẹ ấm." Cả hai vâng lời với đôi mắt lo âu. Agnes vòng tay ôm Martha và giữ chặt cô, run rẩy.

Tom đầy lo âu. Ngọn lửa bùng lên, nhưng không khí lại lạnh hơn. Nó dường như quá lạnh đến nỗi nó có thể giết chết đứa bé qua hơi thở đầu tiên của nó. Sinh ra ở ngoài đường là chuyện đã được biết tới; trong thực tế nó thường xẩy ra trong mùa gặt, khi mọi người quá bận rộn và người đàn bà phải làm cho tới giây phút cuối; nhưng trong mùa gặt mặt đất khô ráo, cỏ mềm mại và không khí dịu dàng. Ông đã chẳng bao giờ nghe nói về đàn bà sinh con bên ngoài trong mùa đông.

Agnes rướn người, chống mình trên khuỷu tay và dang rộng chân.

"Cái gì vậy?" ông hỏi bằng giọng sợ hãi.

Bà quá căng thẳng để trả lời.

Tom nói: "Alfred, hãy quỳ sau lưng mẹ, cho mẹ dựa lưng vào."

Khi Alfred vào vị trí, Tom mở áo choàng của Agnes và mở cúc váy. Quỳ giữa hai chân bà, ông có thể nhìn thấy cửa miệng đã rộng ra một chút. "Không lâu đâu em," ông thì thầm, cố giữ giọng nói không run vì lo sợ.

Bà thoải mái ra, nhắm nghiền đôi mắt và dựa thân mình vào Alfred. Cửa miệng dường như đã co lại một chút. Rừng như im lặng, chỉ còn tiếng lửa kêu lách tách. Bất thình lình Tom nghĩ về người phụ nữ sống bên ngoài pháp luật, Ellen, đã sinh con một mình trong rừng. Thật đáng sợ. Bà lo sợ một con sói có thể đến trong lúc bà bất lực và tha đứa trẻ mới sinh đi, bà ấy đã kể. Năm nay sói táo bạo hơn bình thường, người ta nói, nhưng chắc chắn chúng sẽ không dám tấn công một nhóm bốn người.

Agnes căng thẳng thêm và những hạt mồ hôi xuất hiện trên khuôn mặt méo mó của bà. Lần này đứa bé sẽ ra, Tom nghĩ. Ông sợ hãi. Ông xem cửa miệng một lần nữa, và lần này ông có thể nhìn thấy, qua ánh sáng của đống lửa, mái tóc đen của đầu em bé đang được đẩy ra. Ông nghĩ đến cầu nguyện, nhưng bây giờ không còn thời gian để cầu nguyện. Agnes bắt đầu thở ngắn và nhanh. Cửa miệng giãn nở rộng hơn – rộng không thể tin được - và chiếc đầu đứa bé đi xuyên qua, mặt úp xuống. Một lúc sau Tom nhìn thấy đôi tai nhăn bên cạnh đầu đứa bé, rồi làn da gấp nơi cổ. Ông chưa có thể xác nhận được đứa bé có bình thường không.

"Đầu nó ra rồi," ông nói, nhưng Agnes biết điều đó, dĩ nhiên, bởi vì bà có thể cảm thấy nó, và bà thấy thoải mái hơn. Chậm rãi đứa bé quay lại, vì thế Tom có thể nhìn thấy đôi mắt nhắm và cái miệng ướt đầy máu và các chất lỏng trong lòng mẹ.

Martha kêu lên: "Ôi! Hãy nhìn khuôn mặt nhỏ xíu của nó kìa!"

Agnes nghe cô nói, mỉm cười, rồi lại căng thẳng trở lại. Tom cúi xuống giữa hai đùi của bà và đỡ chiếc đầu nhỏ bằng bàn tay trái khi vai nó ra, trước hết một bên, rồi hai bên. Sau đó, phần còn lại của cơ thể tuột ra nhanh chóng, và Tom đặt bàn tay phải dưới mông đứa bé và giữ nó khi bàn chân bé nhỏ đó trườn vào sự lạnh lẽo của thế giới.

Cửa miệng của Agnes bắt đầu đóng lại ngay xung quanh sợi dây rốn màu xanh bắt đầu từ chiếc rốn của đứa bé.

Tom nhấc đứa bé và xem xét nó một cách lo lắng. Có nhiều máu, và ông sợ có điều gì ghê gớm không đúng xẩy ra; nhưng qua sự kiểm soát cẩn thận ông không thấy thương tích nào. Ông nhìn vào giữa hai chân đứa bé. Nó là con trai.

"Trông nó ghê gớm!" Martha nói.

"Nó hoàn hảo," Tom nói, và ông cảm thấy nhẹ mình. "Một đứa con trai hoàn hảo."

Đứa bé mở miệng và khóc.

Tom nhìn Agnes. Ánh mắt họ gặp nhau và họ mỉm cười.

Tom ôm đứa bé mỏng manh sát vào ngực mình. "Martha, lấy cho bố một bát nước từ trong nồi." Cô nhẩy lên để làm điều ông ra lệnh. "Miếng giẻ để ở đâu, Agnes?" Agnes chỉ vào túi bằng lụa nằm trên mặt đất bên cạnh vai bà. Alfred đưa nó cho Tom. Khuôn mặt cậu tràn nước mắt. Đây là lần đầu tiên cậu nhìn thấy đứa trẻ được sinh ra.

Tom nhúng miếng giẻ vào bát nước nóng và nhẹ nhàng rửa sạch máu và nước nhờn trên mặt đứa bé. Agnes cởi hàng cúc phía trước của áo dài và Tom đặt đứa bé vào vòng tay bà. Nó vẫn khóc. Tom quan sát, sợi dây rốn màu xanh từ bụng đứa bé đến háng của Agnes ngừng đập, teo lại và biến thành màu trắng.

Tom nói với Martha: "Con đưa cho bố những sợi dây con làm. Bây giờ con sẽ thấy công dụng của nó."

Cô đưa cho ông hai sợi dây làm bằng lau sậy. Ông cột chung quanh giây rốn ở hai nơi, kéo nút cột chặt lại. Rồi ông dùng dao cắt dây rốn giữa hai nút cột.

Ông ngồi xuống trên chân mình. Họ đã vượt qua. Điều nguy hiểm nhất đã qua và đứa bé mạnh khỏe. Ông cảm thấy tự hào.

Agnes di chuyển đứa bé để mặt nó áp vào ngực bà. Miệng nhỏ xíu của nó tìm núm vú to của bà, ngừng khóc và bắt đầu mút.

Martha nói bằng giọng hí hửng: "Làm sao nó biết nó phải làm điều đó?"

"Đó là một mầu nhiệm," Tom nói. Ông đưa bát cho cô và nói: "Lấy cho mẹ con một ít nước sạch để uống."

"Vâng," Agnes nói với lòng biết ơn, như thể bà vừa nhận ra rằng bà quá khát. Martha đem nước đến và bà uống sạch. "Thật tuyệt vời," bà nói. "Cảm ơn con."

Bà nhìn xuống đứa bé đang bú, rồi nhìn lên Tom. "Anh là người đàn ông tốt," bà lặng lẽ nói. "Em yêu anh."

Tom thấy nước mắt mình rơi. Ông mỉm cười với bà, rồi cúi xuống nhìn. Ông thấy bà vẫn ra nhiều máu. Sợi dây rốn nằm cuộn tròn trong vũng máu trên áo khoác của Tom, giữa chân của Agnes.

Ông nhìn lên lần nữa. Đứa bé đã thôi bú và chìm vào giấc ngủ. Agnes phủ chiếc áo choàng lên nó, rồi bà nhắm mắt lại.

Một lúc sau, Martha nói với Tom: "Bố đang chờ gì thế"

"Nhau thai," Tom nói với cô.

"Cái đó là cái gì?"

"Rồi con sẽ thấy."

Bà mẹ và đứa bé ngủ vùi một lúc, rồi Agnes mở mắt. Bắp thịt của bà căng thẳng, cửa mình của bà giãn ra một chút và nhau thai xuất ra. Tom cầm lấy nó trong tay và quan sát nó. Nó giống như cái gì đó trên bàn hàng thịt. Nhìn kỹ hơn ông thấy dường như nó bị rách, như thiếu một miếng. Nhưng ông chẳng bao giờ nhìn kỹ nhau thai, và ông cho rằng nó luôn luôn như thế, bởi vì luôn luôn nó phải tách ra từ dạ mẹ. Ông cho nó vào lửa. Khi nó cháy, nó có một mùi khó chịu, nhưng nếu ông ném nó đi, nó sẽ thu hút cáo và ngay cả chó sói đến.

Agnes vẫn còn chẩy máu. Tom nhớ rằng bao giờ nhau thai cũng đi ra theo máu, nhưng ông không nhớ nhiều lắm. Ông nhận ra rằng sự nghiêm trọng chưa qua khỏi. Ông cảm thấy mệt vì sự căng thẳng và vì thiếu ăn; nhưng sự làm việc say mê đã giúp ông vượt qua và ông ghìm mình lại.

"Em vẫn còn ra máu, một ít," ông nói với Agnes, cố gắng để âm thanh không mang theo sự lo lắng như ông đang có.

"Nó sẽ ngưng thôi," bà nói. "Hãy đắp cho em."

Tom cài nút chiếc váy của bà, rồi quấn áo khoác chung quanh chân bà.

Alfred hỏi: "Bây giờ con có thể nghỉ một chút không?"

Cậu vẫn còn quỳ đàng sau Agnes và đỡ bà. Cậu chắc bị tê, Tom nghĩ, vì ở mãi trong một tư thế.

"Bố sẽ thay con," Tom nói.

Agnes sẽ thoải mái hơn với đứa bé nếu nửa phần trên của bà nằm cao hơn, ông nghĩ; và một thân thể đàng sau bà cũng giữ bà ấm và bảo vệ bà khỏi gió. Ông đổi chỗ cho Alfred. Alfred lẩm bẩm vì đau khi duỗi chân ra. Tom vòng tay quanh Agnes và đứa bé. "Em cảm thấy thế nào?" ông hỏi bà.

"Chỉ thấy mệt."

Đứa bé khóc. Agnes di chuyển để nó có thể tìm thấy núm vú. Khi nó bú, bà lại chìm vào giấc ngủ.

Tom băn khoăn. Mệt mỏi là chuyện thường, nhưng đối với Agnes đó là một trạng thái hôn mê, điều đó làm ông lo lắng. Bà yếu quá.

Đứa bé ngủ, và một lúc sau hai đứa trẻ cũng ngủ thiếp đi, Martha cuộn tròn bên Agnes và Alfred duỗi dài phía bên kia ngọn lửa. Tom giữ Agnes trong vòng tay, vuốt ve bà nhẹ nhàng. Lâu lâu ông lại hôn lên trán bà. Ông cảm thấy cơ thể bà thoải mái hơn khi bà chìm sâu trong giấc ngủ. Có lẽ đó là điều tốt nhất cho bà, Tom quyết định. Ông sờ lên má bà. Da bà lạnh và ẩm ướt, mặc dù ông đã cố gắng giữ cho bà ấm. Ông đưa tay vào trong áo choàng và sờ lên ngực đứa bé. Đứa bé ấm và tim nó đập mạnh. Tom mỉm cười. Một đứa bé dẻo dai; một đứa bé sống sót.

Agnes xúc động. "Tom?"

"Em."

"Anh có nhớ đêm em đến với anh, trong căn lều của anh, khi anh còn làm việc cho nhà thờ của bố em?"

"Dĩ nhiên rồi," ông nói, vỗ nhẹ vào bà. "Làm sao anh có thể quên được?"

"Em chẳng bao giờ hối hận đã trao thân cho anh. Chẳng một lúc nào. Mỗi khi em nghĩ về buổi tối đó, em rất hạnh phúc."

Ông mỉm cười. Ông vui vì được biết điều đó. "Anh cũng vậy," ông nói. "Anh rất vui vì em đã làm điều đó."

Bà thiếp ngủ một lúc, rồi lại nói: "Em hy vọng anh sẽ xây nhà thờ chính tòa của anh."

Ông ngạc nhiên. "Anh cứ nghĩ là em chống lại chuyện đó."

"Vâng, nhưng em sai. Anh xứng đáng cho một cái gì đó thật tuyệt vời."

Ông không hiểu bà muốn nói gì.

"Hãy xây một ngôi nhà thờ chính tòa thật đẹp cho em," bà nói.

Bà không hoàn toàn tỉnh táo. Ông vui khi bà thiếp ngủ một lần nữa. Lần này cơ thể bà ủ rũ, đầu bà nghiêng qua một bên. Tom đỡ đứa bé để đầu nó không rớt khỏi ngực bà.

Họ nằm như vậy một lúc lâu. Cuối cùng em bé thức dậy và khóc. Agnes không trả lời. Tiếng khóc đánh thức Alfred và cậu lăn qua nhìn vào em mình.

Tom nhẹ nhàng lay Agnes. "Thức dậy đi em," ông nói. "Con đòi ăn."

"Bố ơi!" Alfred nói trong sợ hãi. "Hãy nhìn vào mặt mẹ."

Tom có linh tính. Bà đã chẩy quá nhiều máu. "Agnes!" ông nói. "Dậy đi em!" Không có trả lời. Bà bất tỉnh. Ông bật dậy, đặt bà nằm thẳng xuống trên nền đất. Mặt bà trắng khủng khiếp. Tiên đoán những gì kinh khủng sẽ đến, ông mở nếp gấp của áo choàng quanh đùi bà.

Máu ở khắp nơi.

Alfred thở hổn hển.

Tom thì thầm: "Xin Chúa Giêsu Kitô cứu chúng con."

Tiếng đứa bé khóc đánh thức Martha. Cô thấy máu và hét lên. Tom bế cô lên, đánh lên má cô. Cô im lặng. "Đừng la to," ông bình tĩnh nói và đặt cô xuống đất.

Alfred hỏi: "Có phải mẹ mất rồi không?"

Tom đặt tay lên ngực Agnes, ngay phía bên trái ngực bà. Tim không còn đập.

Không còn nhịp tim.

Ông nhấn mạnh hơn. Da thịt bà ấm áp, và phần dưới ngực nặng của bà đụng vào tay ông, nhưng bà không còn thở, và không còn nhịp tim.

Một cái lạnh tê cóng ụp xuống trên Tom như một lớp sương mù. Bà đã đi. Ông nhìn chằm chằm vào khuôn mặt bà. Làm sao mà bà lại không còn ở đây được? Tom muốn bà cử động, mở đôi mắt, lôi kéo hơi thở. Ông giữ tay trên ngực bà. Một đôi khi trái tim có thể hoạt động lại, người ta nói như vậy – nhưng bà đã mất quá nhiều máu…

Ông nhìn Alfred. "Mẹ đã qua đời," ông thì thào.

Alfred nhìn vào ông im lặng. Martha bắt đầu khóc. Tôi phải chăm sóc chúng, Tom nghĩ. Tôi phải vì chúng mà mạnh mẽ.

Nhưng Tom muốn khóc, muốn đặt vòng tay xung quanh bà và giữ thân thể bà khỏi lạnh dần, và nhớ lại khi bà còn là một thiếu nữ, rồi cười nói, rồi yêu nhau. Ông khóc thổn thức, giơ nắm tay lên trời vô tình. Ông nén tim ông. Ông phải tỉnh táo, phải mạnh mẽ vì những đứa con.

Không có nước mắt chẩy trên mặt ông.

Ông nghĩ: Tôi phải làm gì trước?

Đào một huyệt.

Tôi phải đào một huyệt sâu, đặt bà nằm trong đó để tránh chó sói, và bảo vệ xương cốt của bà cho đến ngày phán xét; và rồi đọc kinh cho linh hồn bà. Ôi Agnes, Tại sao em lại để anh một mình?

Đứa bé mới sinh vẫn đang khóc. Mắt nó nhắm nghiền, và miệng nó đóng mở nhịp nhàng như nó có thể nhận lương thực từ không khí. Nó cần ăn. Ngực của Agnes căng đầy sữa ấm. Tại sao không? Tom nghĩ. Ông chuyển đứa bé về phía ngực bà. Đứa bé tìm thấy núm vú và bú. Tom quấn áo choàng của Agnes chặt hơn xung quanh đứa bé.

Martha chăm chú nhìn, mắt mở to, miệng mút ngón tay. Tom nói với cô: "Con có thể giữ em ở đó để nó không rớt xuống không?"

Cô gật đầu rồi quỳ xuống bên cạnh người mẹ đã chết và đứa em.

Tom nhặt chiếc xẻng. Bà đã chọn vị trí này để nghỉ, và bà đã ngồi dưới bóng cây hạt dẻ. Hãy chọn nơi này làm nơi cho bà an nghỉ. Ông thổn thức, chiến đấu chống lại sự lôi cuốn muốn ngồi xuống mà khóc. Ông đánh dấu một hình vuông trên mặt đất, vài mét xa khỏi gốc cây, nơi không có rễ cây; sau đó ông bắt đầu đào.

Công việc làm ông thoải mái ra. Khi ông tập trung cắm chiếc xẻng xuống mặt đất khô cằn và hất đất đi, phần tâm trí còn lại của ông trở nên trống rỗng và ông tìm được bình tĩnh. Ông thay đổi với Alfred, bởi vì cậu cũng có thể tìm thấy sự thoải mái trong công việc chân tay đều đặn. Họ đào nhanh, cố gắng nhiều, và mặc dù trời lạnh buốt, cả hai đổ mồ hôi như trời đang nóng ban trưa.

Đến lúc Alfred nói: "Như vậy chưa đủ sao?"

Tom nhận ra rằng ông đang đứng trong một hố sâu, sâu bằng chiều cao của ông. Ông không muốn công việc chấm dứt. Ông miễn cưỡng gật đầu. "Được rồi," ông nói. Rồi ông trèo ra ngoài.

Bình minh đã lên khi ông đào xong. Martha đã bế đứa bé lên, ngồi bên đống lửa và ru nó. Tom đến gần Agnes và quỳ xuống. Ông quấn áo choàng chặt quanh người bà, để chừa mặt bà ra, rồi bế bà lên. Ông đi đến ngôi mộ và đặt bà nằm bên cạnh. Rồi ông nhẩy xuống hố.

Ông đưa bà xuống, đặt bà nhẹ nhàng trên mặt đất. Ông nhìn bà một lúc lâu, quỳ xuống bên cạnh bà trong ngôi mộ lạnh lẽo của bà. Ông hôn môi bà lần cuối, một cách dịu dàng. Rồi ông vuốt mắt bà.

Ông trèo lên khỏi ngôi mộ. "Các con hãy đến đây," ông nói. Alfred và Martha đến gần, mỗi người đứng một phía bên ông, Martha ôm em bé. Tom đặt vòng tay xung quanh mỗi đứa. Họ nhìn vào mộ, Tom nói: "Các con hãy nói: Xin Chúa chúc phúc cho mẹ con!"

Cả hai cùng nói: "Xin Chúa chúc phúc cho mẹ con."

Martha thổn thức và nước mắt của Alfred chẩy ra. Tom ôm cả hai con vào lòng và nuốt dòng nước mắt của mình.

Ông buông chúng và nhặt chiếc xẻng lên. Martha hét lớn khi ông hất xẻng đất đầu tiên xuống mộ. Alfred đặt cánh tay quanh em gái. Tom tiếp tục xúc. Ông không thể chị đựng được khi hất đất lên mặt bà, vì thế ông phủ đất từ bàn chân bà, rồi chân bà và mình bà, và chất đất thành đống cao, tạo thành một gò đất, vì thế mà mỗi xẻng đất sau đó chẩy xuống, phủ cổ bà, rồi miệng bà mà ông đã hôn, và sau cùng khuôn mặt bà bị phủ kín, không bao giờ còn được nhìn thấy một lần nữa.

Ông nhanh chóng đổ đất đầy ngôi mộ.

Khi xong việc, ông đứng nhìn gò đất. "Vĩnh biệt em, em yêu," ông thì thầm. "Em là người vợ tốt, và anh yêu em."

Với một cố gắng, ông quay đi.

Chiếc áo choàng của ông vẫn còn trên mặt đất nơi Agnes đã nằm sinh con. Nửa dưới đẫm ướt với nước đã đóng băng và máu khô. Ông lấy dao và cắt vào giữa áo khoác. Ông ném phần có máu vào trong lửa.

Martha vẫn ôm em. "Đưa em cho bố," Tom nói. Cô nhìn chằm chằm vào ông với sự sợ hãi trong ánh mắt. Ông quấn đứa bé trần truồng trong phần sạch của áo khoác và đặt nó trên mộ. Đứa bé khóc.

Ông quay về phía các con. Chúng nhìn ông chằm chằm, yên lặng. Ông nói: "Chúng ta không có sữa để cho em bé sống, vì thế nó sẽ phải ở lại đây với mẹ nó."

Martha nói: "Nhưng em sẽ chết."

"Đúng," Tom nói, kiềm giọng nói thật cứng. "Bất cứ chúng ta làm gì, đứa bé cũng sẽ chết." Ông ước muốn đứa bé ngừng khóc.

Ông thu thập tài sản còn lại và đặt chúng vào trong nồi, rồi đeo nồi sau lưng, như Agnes vẫn làm.

"Chúng ta đi," ông nói.

Martha bắt đầu sụt sùi. Alfred mặt trắng bệch. Họ lên đường trong ánh sáng xám của một buổi sáng trời lạnh. Sau cùng tiếng khóc của đứa bé yếu dần rồi biến mất.

Ở lại bên ngôi mộ không tốt, vì các đứa trẻ không thể ngủ ở đó, và một đêm canh thức cũng không mang lại gì. Vì thế, tiếp tục di chuyển sẽ tốt hơn cho mọi người.

Tom bước nhanh, nhưng tư tưởng của ông bây giờ bay nhẩy tự do, ông không còn kiểm soát được chúng. Không có gì để làm, trừ đi bộ: không có thỏa thuận để thực hiện, không có việc để làm, không có gì để lên kế hoạch, không có gì để nhìn vào, ngoài trừ khu rừng ảm đạm và bóng đêm chập chờn trong ánh đuốc. Ông nghĩ về Agnes, lần theo dấu kỷ niệm, rồi tự mỉm cười, và nói với bà những gì ông nhớ; sau đó ông bàng hoàng khi nhận ra là bà đã chết, sự bàng hoàng như một nỗi đau thể lý giáng xuống trên ông. Ông thấy mình lúng túng, như thể một cái gì đó hoàn toàn không thể hiểu nổi đã xẩy ra, mặc dù chết khi sinh con là chuyện thường tình trong thế giới phụ nữ trong lứa tuổi của bà, và góa vợ trong thế giới đàn ông trong lứa tuổi của ông. Nhưng cảm giác về sự mất mát như một vết thương đau. Ông đã nghe nói rằng những người bị cắt những ngón chân không thể đứng lên được và luôn luôn bị ngã cho đến khi họ học đi. Ông cảm thấy giống như vậy, như một phần của ông bị cắt bỏ, và ông không thể quen được với tư tưởng rằng nó đã mất vĩnh viễn.

Ông cố gắng không nghĩ về bà, nhưng ông vẫn nhớ bà ra sao khi bà chết. Nó dường như không thể tin được là mới cách đây mấy giờ bà vẫn sống, và bây giờ bà không còn nữa. Ông nhớ lại khuôn mặt bà, khi bà cố sức sinh con và nụ cười hãnh diện khi bà nhìn vào đứa bé. Ông nhớ lại những gì bà nói với ông sau đó: Em hy vọng anh sẽ xây nhà thờ chính tòa của anh; và sau đó, xây một nhà thờ chính tòa thật đẹp cho em. Bà đã nói như thể bà biết là bà sẽ chết.

Khi tiếp tục đi, ông nghĩ nhiều hơn về đứa bé ông đã để lại, quấn trong nửa áo choàng, nằm trên ngôi mộ mới. Có lẽ nó vẫn sống, trừ khi một con cáo đã ngửi thấy mùi nó. Tuy nhiên nó sẽ chết trước khi mặt trời lên. Nó sẽ còn khóc một lúc nữa, rồi nó sẽ nhắm mắt lại. Trong giấc ngủ nó sẽ bị cảm lạnh, và đời nó sẽ trôi qua nhanh chóng.

Trừ khi một con cáo đã ngửi thấy mùi của đứa bé.

Tom không thể làm được gì cho đứa bé. Nó cần sữa để sống còn, nhưng ông không có: không có làng xóm nơi Tom có thể tìm thấy một người cho nó bú, không có cừu, dê hay bò để cung cấp những gì tương tự cần thiết. Tất cả những gì ông có thể cho nó là củ cải, và chắc chắn củ cải cũng giết nó như con cáo.

Càng đi việc nghĩ đến đứa bé bị bỏ rơi càng làm ông khinh hoàng. Ông biết, nó là một điều thường xẩy ra: Những nông dân có gia đình lớn và nông trại nhỏ, thường bỏ rơi trẻ sơ sinh cho chết, và đôi khi vị linh mục cũng ngoảnh mặt làm ngơ; nhưng Tom không thuộc nhóm người đó, ông nghĩ. Ông sẽ mang nó trên tay cho đến khi nó chết, và rồi chôn nó. Dĩ nhiên nó không mang lại gì, nhưng nó là những điều hợp lý cần phải làm.

Ông nhận ra trời đã sáng.

Đột nhiên ông dừng lại.

Các đứa trẻ đứng yên, nhìn chằm chằm vào ông chờ đợi. Chúng đã sẵn sàng cho mọi chuyện; không còn gì là bình thường nữa.

"Bố không nên bỏ rơi em," Tom nói.

Alfred nói: "Nhưng chúng ta không thể nuôi em. Em đã gắn liền với sự chết."

"Tuy nhiên bố không nên bỏ rơi em," Tom nói.

Martha nói: "Chúng ta quay trở lại."

Tom vẫn còn do dự. Quay trở lại nghĩa là thừa nhận mình đã sai khi bỏ rơi đứa bé.

Nhưng đó là sự thật. Ông đã sai.

Ông quay người lại. "Đúng," ông nói. "Chúng ta quay lại."

Bây giờ tất cả những nguy hiểm mà trước đó ông cố gắng coi thường dường như bất ngờ lại có khả năng xẩy ra hơn. Chắc chắn một con cáo đã đánh mùi thấy đứa bé, và đã tha đứa bé đến hang của nó. Hay có thể đó là một con chó sói. Lợn rừng cũng nguy hiểm, mặc dù chúng không ăn thịt. Và còn con cú thì sao? Một con cú không thể tha đứa bé đi được, nhưng nó có thể mổ mắt đứa bé.

Ông bước nhanh hơn, cảm thấy choáng váng vì kiệt sức và đói. Martha phải chạy để theo kịp ông, nhưng cô không kêu ca.

Ông rất sợ những gì ông sẽ nhìn thấy khi trở lại ngôi mộ. Thú ăn thịt rất tàn nhẫn, và chúng biết khi nào một sinh vật không còn tự lực được.

Ông không chắc chắn họ đã đi được bao xa: ông đã mất cảm giác về thời gian. Khu rừng hai bên đường dường như lạ lẫm, mặc dù ông vừa đi qua đó. Ông lo lắng tìm kiếm mảnh đất nơi ngôi mộ được chôn. Chắc chắn ngọn lửa chưa tàn – họ đã đốt nó rất cao… ông xem xét kỹ các cây, tìm kiếm chiếc lá đặc biệt của loài dẻ ngựa. Họ đi đến một khúc quoanh mà ông không nhớ và ông bắt đầu tự hỏi, có phải ông đã đi qua ngôi mộ mà không nhìn thấy nó, sau đó ông nhìn thấy một ánh sáng màu cam mờ phía trước.

Trái tim ông dường như ngừng đập. Ông bước nhanh hơn và đôi mắt mở rộng. Vâng, đó là một đống lửa. Ông chạy nhanh. Ông nghe Martha la to, có lẽ cô nghĩ là ông bỏ rơi cô, và ông gọi to: "Chúng ta đến nơi rồi!" và ông nghe tiếng bước chân hai đứa trẻ đàng sau ông.

Ông đến ngang tầm với cây hạt dẻ ngựa, tim ông đập thình thịch trong lồng ngực. Ngọn lửa vẫn cháy. Có đống gỗ. Có mảng máu trên mặt đất nơi Agnes đã chảy máu đến chết. Có ngôi mộ, một u đất mới mà dưới đó bà đang nằm. Và trên ngôi mộ không có gì.

Tom điên cuồng nhìn quanh, tâm trí của ông hỗn loạn. Không có dấu hiệu gì về đứa bé. Dòng nước mắt thất vọng chảy trên mắt Tom. Ngay cả nửa mảnh áo choàng quấn đứa bé cũng biến mất. Tuy nhiên ngôi mộ không bị xáo trộn – không có dấu chân của thú vật trên mặt đất mềm, không có máu, không có dấu hiệu là đứa bé đã bị kéo đi…

Tom bất ngờ cảm thấy là ông không còn nhìn thấy rõ nữa, ngay cả ông không còn suy nghĩ được nữa. Bây giờ ông biết ông đã làm một điều khủng khiếp là bỏ rơi đứa bé khi nó vẫn còn sống. Khi ông biết nó đã chết, ông có thể nhắm mắt ngủ. Nhưng có lẽ nó vẫn còn sống ở một nơi nào đó, một nơi rất gần. Ông quyết định đi xung quanh tìm nó.

Alfred hỏi: "Bố đi đâu?"

"Chúng ta phải đi tìm em," ông nói với các con.

Ông để chúng đi xung quanh, xa ngọn lửa, xuyên qua bụi cây. Ông cảm thấy bối rối, nhưng ông cố gắng tập trung vào một việc, một việc cấp thiết là tìm ra đứa bé. Giờ này ông không cảm thấy đau buồn, ông chỉ còn một quyết tâm khốc liệt, mạnh mẽ và trong tâm trí một nhận biết kinh hoàng rằng tất cả việc này là do lỗi của ông. Ông mò mẫm trong rừng, bới tung mặt đất bằng đôi mắt, lâu lâu dừng bước lại để nghe ngóng tiếng khóc đều đều không thể nhầm lẫn được của trẻ sơ sinh; nhưng khi ông và các con yên lặng, khu rừng cũng lặng im.

Ông đã mất dấu tích thời gian. Ông không còn biết ông đã đi bao lâu. Ông đi theo vòng tròn, nên một lúc sau ông lại trở về chốn cũ, nhưng khoảng thời gian của mỗi vòng mỗi lúc một lâu hơn. Ông tự hỏi tại sao ông chưa đi qua túp lều của viên kiểm lâm và ông mơ hồ biết rằng ông đã lạc lối, và có lẽ ông không còn đi vòng quanh ngôi mộ, mà thay vào đó ông đã ngẫu nhiên đi xuyên qua rừng; nhưng điều đó không quan trọng, miễn là ông vẫn tiếp tục tìm kiếm.

"Bố ơi!" Alfred nói.

Tom nhìn cậu, tức tối vì dòng tư tưởng bị ngắt ngang. Alfred cõng Martha, cô dường như ngủ vùi trên lưng anh. Tom hỏi: "Gì vậy con?"

"Chúng ta có thể nghỉ một chút không?" Alfred hỏi.

Tom do dự. Ông không muốn dừng lại, nhưng Alfred trông như muốn gục. "Được," ông nói miễn cưỡng. "Nhưng không quá lâu."

Họ đang lên dốc. Có lẽ có một dòng nước dưới chân dốc. Ông khát. Ông đỡ lấy Martha, bế cô trong tay và đi xuống dốc. Như mong đợi, ông tìm thấy một dòng suối nhỏ trong lành, các bờ rìa đã đóng băng. Ông đặt Martha xuống bên bờ. Cô không tỉnh dậy. Ông và Alfred quỳ xuống, múc nước lạnh trong tay.

Alfred nằm xuống bên cạnh Martha và nhắm mắt lại. Tom nhìn quanh. Ông ở trong một khoảng rừng thưa đầy lá rụng. Hàng cây xung quanh thấp, cây sồi rậm rạp, những cành trần quấn vào với nhau trên đầu. Tom đi ngang cánh rừng thưa, nghĩ sẽ tìm ra đứa bé đàng sau hàng cây, nhưng khi ông đến được phía bên kia, chân ông rã rời và ông buộc phải ngồi xuống đột ngột.

Trời đầy ánh sáng ban ngày, nhưng sương mù bao phủ và dường như trời không ấm hơn so với nửa đêm. Ông run rẩy, không còn kiểm soát được mình. Ông nhận ra rằng ông đã đi loanh quoanh mà chỉ mặc có chiếc áo trong. Ông ngạc nhiên không biết chiếc áo khoác của ông ở đâu, nhưng ông không còn nhớ được. Có thể vì sương mù hay mắt ông có chuyện gì xẩy ra, bởi vì ông không còn có thể nhìn thấy những đứa con ở phía xa bên kia khu rừng thưa. Ông muốn chỗi dậy đi về phía chúng, nhưng chân ông có một cái gì đó không ổn.

Một lúc sau, ánh sáng mặt trời yếu ớt xuyên qua đám mây, và chẳng bao lâu sau thiên thần xuất hiện.

Bà đến từ hướng đông, mặc một chiếc áo choàng mùa đông bằng lông cừu, tất cả màu trắng. Ông nhìn bà đến gần mà không ngạc nhiên hay tò mò. Ông nhìn bà bằng ánh mắt vô tri, trống rỗng, không cảm xúc như thể ông nhìn vào những cây sồi to lớn xung quanh. Khuôn mặt trái soan của bà được che bởi mái tóc đen rậm, và áo choàng che giấu bàn chân, vì thế mà dường như bà lướt đi trên lá khô. Bà dừng lại trước mặt ông, và đôi mắt vàng ròng nhạt của bà dường như có thể nhìn vào tâm hồn ông và hiểu nỗi đau của ông. Bà nhìn quen thuộc, như gần đây ông đã nhìn thấy hình thiên thần này trong một nhà thờ nào đó. Rồi bà cởi áo khoác. Dưới lớp áo đó bà trần truồng. Bà có thân thể của một phụ nữ trần gian vào lứa tuổi giữa đôi mươi, với làn da nhợt nhạt và núm vú hồng. Tom luôn luôn cho rằng thân thể thiên thần hoàn toàn không có lông, nhưng thiên thần này là một ngoại lệ.

Bà ngồi xuống trên đầu gối trước mặt ông, nơi ông ngồi gác chân lên nhau dưới một cây sồi. Bà nghiêng người về phía ông và hôn vào môi ông. Ông đã quá choáng váng bởi cú sốc trước đó, nên không có thể cảm nhận được sự ngạc nhiên vào lúc này. Bà đẩy ông xuống nhẹ nhàng cho đến khi ông nằm thẳng, rồi bà cởi áo choàng và nằm trên ông, ép chặt cơ thể trần truồng của bà vào ông. Ông cảm thấy hơi nóng của thân thể bà xuyên qua bộ áo trong của ông và ông ngừng run rẩy.

Bà ôm khuôn mặt đầy râu của ông trong tay và hôn ông, khao khát, giống như một người uống một ly nước lạnh sau một ngày dài khô cổ. Lúc sau bà đưa tay lần theo cánh tay ông xuống đến cổ tay, rồi cầm bàn tay ông đưa lên ngực bà. Một cách phản xạ, ông nắm chặt chúng. Chúng mềm mại và săn chắc và núm vú bà căng lên dưới ngón tay ông.

Trong tâm trí ông tưởng tượng mình đã chết. Thiên đường không được coi là như thế này, ông biết, nhưng ông hầu như không quan tâm. Ông đánh mất khả năng phê phán, khả năng suy tư hợp lý. Và ông để cho thân xác ông điều khiển. Ông rướn người lên, ép cơ thể ông mạnh vào bà, hút lấy sức mạnh từ hơi nóng và sự trần truồng của bà. Bà mở miệng và đẩy lưỡi bà vào miệng ông, tìm kiếm lưỡi ông, và ông hăm hở đáp lại.

Bà đẩy mình ra xa ông một chút, nâng cao người lên khỏi thân thể ông. Ông quan sát, sững sờ, khi bà kéo chiếc váy lên cao, rồi bà ngồi trên ông. Với đôi mắt nhìn xuyên qua tất cả bà nhìn ông, rồi bà hạ mình xuống. Đó là giây phút trêu ngươi khi thân thể họ đụng nhau, và bà lưỡng lự; rồi ông cảm thấy mình ở trong bà. Nó là một cảm xúc của khoái lạc vô bờ, ông cảm thấy mình có thể nổ tung vì sung sướng. Bà cử động đôi hông, mỉm cười với ông và hôn lên khuôn mặt ông.

Sau một thời gian ngắn, bà nhắm mắt lại, thở hổn hển, và ông hiểu rằng bà mất sự kiềm chế. Ông quan sát bà trong niềm đam mê khoái cảm. Bà thốt ra tiếng kêu nhỏ đều đặn, di chuyển nhanh hơn và nhanh hơn, và trạng thái ngây ngất của bà đụng đến chỗ sâu thẳm nhất trong tâm hồn bị thương của ông, đến nỗi ông không biết có nên khóc cho nỗi tuyệt vọng hay hét lên vì vui hay cười vì điên dại; và rồi sự bùng nổ của khoái cảm lắc mạnh họ như những cây bị giật trong cơn bão gió, một lần nữa và một lần nữa; cho đến khi niềm đam mê của họ giảm xuống, và bà ấy gục xuống trên ngực ông.

Họ nằm như thế rất lâu. Sức nóng từ thân thể bà làm ông ấm lại. Ông trôi vào giấc ngủ nhẹ. Dường như nó ngắn, và nó giống như một giấc mơ ban ngày hơn là một giấc ngủ thật; nhưng khi ông mở mắt, tâm trí ông minh mẫn.

Ông nhìn người phụ nữa trẻ nằm trên người ông, và ông nhận ra ngay bà không phải là một thiên thần, mà là người phụ nữ sống noài vòng pháp luật, Ellen, người mà ông đã gặp trong khu rừng vào ngày con heo bị mất. Bà cảm thấy ông nhúc nhích nên mở mắt ra, nhìn ông với cái nhìn vừa trìu mến vừa sợ hãi. Bất ngờ ông nghĩ đến các con. Ông lăn Ellen nhẹ nhàng sang bên rồi ngồi dậy. Alfred và Martha nằm trên lá, quấn mình trong áo choàng, và ánh mặt trời chiếu trên khuôn mặt đang ngủ của chúng. Sau đó những biến cố của tối hôm trước vụt trở lại với ông, và ông nhớ lại Agnes đã chết, và đứa trẻ mới sinh - con trai ông – đã biến mất; và ông vùi mặt vào hai bàn tay.

Ông nghe Ellen huýt sáo, tiếng sáo có âm thanh lạ. Ông nhìn lên. Một nhân vật xuất hiện từ trong rừng, và Tom nhận ra đứa con trông kỳ dị của bà, Jack, với làn da trắng chết chóc và mái tóc màu cam và đôi mắt màu xanh tươi sáng giống chim. Tom đứng lên, chỉnh sửa lại quần áo, và Ellen cũng đứng, đóng lại áo khoác.

Đứa bé mang theo vật gì đó, và cậu mang nó tới chỉ cho Tom. Tom nhận ra nó. Nó là nửa chiếc áo choàng mà Tom đã quấn đứa nhỏ trước khi đặt nó trên mộ của Agnes.

Không thể hiểu được, Tom nhìn chằm chằm vào đứa bé và rồi vào Ellen. Bà nắm bàn tay ông trong tay bà, nhìn vào mắt ông, và nói: "Con ông vẫn sống."

Tom không dám tin vào bà. Câu nói đó quá kỳ diệu, quá hạnh phúc. "Nó không thể còn sống," ông nói.

"Nó còn sống."

Tom bắt đầu hy vọng. "Thật không?" ông hỏi. "Thật không?"

Bà gật đầu. "Thật. Em sẽ đưa anh đến đó."

Tom nhận ra những gì bà muốn nói là thật. Một dòng của nhẹ nhàng và hạnh phúc đổ xuống trên ông. Ông khụy xuống, quỳ gối trên mặt đất; và rồi, sau cùng, giống như cửa thoát nước được mở, ông khóc.

V

"Jack nghe tiếng trẻ thơ khóc," Ellen giải thích. "Cậu ấy đang trên đường xuống suối, tới một nơi phía bắc của vùng này, nơi cậu có thể săn vịt bằng đá. Cậu không biết phải làm gì, vì thế cậu chạy về nhà gọi em ra. Nhưng trong khi chúng em trên đường đến đó, chúng em gặp một linh mục, cưỡi một con ngựa nhỏ, mang theo đứa bé."

Tom nói: "Anh phải tìm ông ấy."

"Đừng vội vàng," Ellen nói. "Em biết ông ấy ở đâu. Ông quẹo vào một con đường, rất gần ngôi mộ, một con đường dẫn tới một tu viện nhỏ ẩn trong rừng."

"Đứa bé cần sữa."

"Các tu sĩ có dê."

"Tạ ơn Chúa," Tom nhiệt thành nói.

"Em sẽ đưa anh tới đó, sau khi anh đã có cái gì để ăn," bà nói. "Nhưng…" bà cau mày. "Đừng vội nói với các con anh về tu viện."

Tom liếc qua cánh rừng thưa. Alfred và Martha vẫn ngủ. Jack đã đến chỗ chúng nằm và nhìn chúng chằm chằm.

"Tại sao không?"

"Em không rõ lắm… Em chỉ nghĩ nếu đợi thì khôn ngoan hơn."

"Nhưng con em sẽ nói với chúng."

Bà lắc đầu. "Cậu ấy nhìn thấy vị linh mục, nhưng em không nghĩ cậu ấy biết hết việc còn lại."

"Được." Tom nói nghiêm nghị. "Nếu anh đã biết em ở gần đây, em đã có thể cứu sống Agnes của anh."

Ellen lắc đầu, và mái tóc đen nhẩy múa trên khuôn mặt bà. "Không có thể làm được gì đâu, ngoài việc giữ cho bà ấy được ấm, và anh đã làm điều ấy. Khi người đàn bà ra máu bên trong, một là nó ngưng và bà ấy cảm thấy khỏe hơn, hoặc nó không ngưng và bà ấy chết."

Dòng nước mắt Tom chảy xuống, và Ellen nói: "Em xin lỗi."

Tom gật đầu im lặng.

Bà nói: "Nhưng người sống phải lo cho người sống, và anh cần đồ ăn nóng và chiếc áo choàng mới." Bà đứng lên.

Họ đánh thức lũ trẻ. Tom nói với chúng rằng em bé được an toàn vì Ellen và Jack đã nhìn thấy một linh mục bế nó và một chút nữa Tom và Ellen sẽ đi tìm vị linh mục, nhưng trước hết Ellen muốn lo cho họ ăn. Các đứa trẻ đón nhận tin đáng ngạc nhiên này một cách bình thản: bây giờ không gì có thể làm cho chúng sửng sốt. Cũng như chúng, Tom cũng không còn có thể kinh ngạc. Đối với ông đời sống chuyển động quá nhanh, đã làm thay đổi tất cả. Nó giống như ngồi trên lưng con ngựa đang chạy trốn: mọi chuyện xẩy ra quá nhanh đến nỗi không còn có giờ để phản ứng lại với các biến cố, và tất cả những gì ông có thể làm là bám chặt và cố giữ bình tĩnh. Agnes đã sinh con trong đêm lạnh và đứa bé được sinh ra khỏe mạnh diệu kỳ. Mọi chuyện dường như ổn, nhưng Agnes, người bạn đời của Tom, đã chẩy máu và chết trên tay ông, và ông đã mất trí. Số phận của đứa bé dường như đã được định đoạt và họ bỏ nó lại trên mộ, sau đó họ vô vọng tìm nó. Rồi Ellen xuất hiện, và Tom đã tưởng bà là một thiên thần, và họ đã yêu nhau như trong mơ; và bà ấy nói đứa bé vẫn sống và được an toàn. Cuộc sống có bao giờ đi chậm lại hơn để Tom có thể nghĩ về những biến cố kinh hoàng này?

Họ lên đường. Tom đã luôn luôn cho rằng những người sống ngoài vòng pháp luật là những người sống trong sự bẩn thỉu và cơ cực, nhưng Ellen không như ông nghĩ. Tom tò mò không biết nhà bà sẽ ra sao. Bà dẫn họ trên những con đường ngoằn nghèo xuyên qua rừng. Ở đó không có đường mòn, nhưng bà chẳng do dự bước qua con rạch, cúi mình dưới các lùm cây, vượt qua khu đầm lầy băng giá, vòng quanh các bụi rậm và thân cây to lớn của cây sồi gẫy đổ. Sau cùng bà đi về phía bụi cây dâu đen và dường như biến mất trong đó. Theo sau bà, Tom thấy rằng, trái với ấn tượng đầu tiên của ông, có một lối đi hẹp xuyên qua các bụi cây. Ông đi theo bà. Bụi dâu đen đan chéo làm thành mái vòm trên đầu ông và trong đó chỉ còn ánh sáng lờ mờ. Ông đứng yên, chờ cho mắt mình quen dần với bóng tối. Dần dần ông nhận ra ông đang ở trong một hang động.

Không khí ấm. Đằng trước ông, một ngọn lửa âm ỉ trên một lò sưởi bằng đá phẳng. Khói bay thẳng lên: có một ống khói tự nhiên ở đâu đó. Tường hang động một bên được căng bằng da sói, bên kia bằng da hưu. Một đùi thịt hun khói treo từ mái hang trên đầu ông. Ông nhìn thấy một hộp tự làm đầy táo chua, nến bấc trên bờ tường, và lau sậy khô trên nền nhà. Trong một góc bếp một nồi đang nấu, giống như trong bất cứ gia đình bình thường nào; và qua mùi vị, nó có cùng hương vị của một loại súp đặc như những người khác cũng ăn – rau luộc với xương thịt và các loại rau thơm. Tom ngạc nhiên. Nhà này thoải mái hơn nhiều nhà của các nông nô.

Ở bên kia ngọn lửa là hai chiếc nệm làm bằng da hươu và có lẽ được nhồi bằng lau sậy. Trên đầu mỗi nệm để một tấm lông sói được cuộn gọn gàng. Đó là nơi ngủ của Ellen và Jack. Ở phía sau hang động là bộ sưu tập kinh khủng về vũ khí và thiết bị săn bắn: một cây cung, nhiều mũi tên, bẫy thỏ, một số dao găm, một cây thương có đầu được mài nhọn và thôi trong lửa; và, giữa những dụng cụ thô sơ này là ba cuốn sách. Tom rất kinh ngạc: ông đã chẳng bao giờ nhìn thấy sách trong một gia đình, huống chi là trong một hang động, vì ông nghĩ sách thuộc về nhà thờ.

Cậu bé Jack lấy một bát gỗ, múc vào nồi rồi uống. Alfred và Martha chăm chú nhìn cậu một cách thèm thuồng. Ellen nhìn Tom như xin lỗi và nói: "Jack, khi chúng ta có người lạ, chúng ta mời họ trước khi chúng ta ăn."

Cậu bé nhìn chằm chằm vào bà, hoang mang. "Tại sao?"

"Bởi vì đó là một phép lịch sự cần làm. Hãy đưa cho các trẻ khác một ít súp."

Điều đó không thuyế