← Quay lại trang sách

Chương 2 (A)

I - Peter thành Wareham sinh ra là một kẻ gây rối.

Ông đã được thuyên chuyển từ tu viện chính ở Kingsbridge tới một tu viện chi nhánh nhỏ trong rừng, và nó cũng dễ hiểu tại sao tu viện trưởng tại Kingsbridge đã sợ hãi tống khứ ông đi. Là một người cao đẹp, khoảng gần ba mươi tuổi, ông có trí tuệ minh mẫn và thái độ khinh miệt, và ông thường xuyên sống trong tình trạng phẫn nộ, mặc dù sự phẫn nộ của ông chính đáng. Khi mới đến và được giao làm việc đồng áng, ông làm việc cật lực, rồi phê bình người khác về sự lười biếng của họ. Tuy nhiên, điều ngạc nhiên cho ông là hầu hết các tu sĩ đều có thể theo kịp ông, và những người trẻ còn làm ông phải cố gắng lắm mới theo kịp được họ. Ông thấy sự phê bình về ăn không ngồi rồi của ông không có kết quả và ông tìm một tính xấu khác để chỉ trích: thú mê ăn uống.

Ông bắt đầu chỉ ăn nửa phần bánh mì của ông và không ăn thịt. Cả ngày ông chỉ uống nước suối, pha loãng bia và từ chối uống rượu. Ông khiển trách một tu sĩ trẻ, khỏe mạnh vì đã xin thêm một phần cháo, và làm cho một đứa trẻ rớt nước mắt vì đã tinh nghịch uống rượu của người khác.

Không có nhiều bằng chứng về việc các tu sĩ mê ăn uống, Tu viện trưởng Philip nghĩ khi họ từ đỉnh đồi trở về tu viện vào giờ cơm trưa. Các tu sĩ trẻ gầy và có bắp thịt rắn chắc, các tu sĩ lớn tuổi có lớp da rạm nắng và dẻo dai. Không ai trong họ có vòng bụng to phì vì do ăn nhiều hay lười biếng làm việc. Philip nghĩ tất cả các tu sĩ nên gầy. Những tu sĩ béo mập sẽ gây nguyên cớ cho người nghèo ghen tức và căm hờn người phục vụ của Thiên Chúa.

Một cách đặc trưng, Peter đã cải trang lời buộc tội như lời thú tội. "Tôi phạm tội mê ăn uống," ông nói như vậy vào buổi sáng hôm nay, khi họ ngồi nghỉ ngơi trên những thân cây mà họ mới đốn, ăn lúa mạch đen và uống bia. "Tôi đã không giữ giới luật của Thánh Biển Đức, vì Ngài dạy các tu sĩ không nên ăn thịt và uống rượu." Ông nhìn quanh vào các tu sĩ khác, đầu ông ngẩng cao và đôi mắt đen đầy niềm tự hào, sau cùng ông nhìn chằm chằm vào Philip. "Và mọi người ở đây có cùng tội này," ông chấm dứt.

Thật buồn vì Peter như vậy, Philip nghĩ. Người đàn ông này hy sinh cho công việc của Thiên Chúa, và ông có một tâm trí tốt và một nghị lực mạnh mẽ để thực hiện mục đích. Nhưng dường như ông bị một nhu cầu thôi thúc để cảm thấy mình đặc biệt và muốn những người khác phải luôn luôn để ý đến ông, và điều này đòi ông phải tạo ra những màn kịch. Ông thực sự là một sự phiền toái. Nhưng Philip thương ông nhiều hơn những người khác, vì Philip có thể nhìn thấy, đàng sau sự ngạo mạn và khinh miệt là một tâm hồn bất an của một người không thực sự tin rằng có người nào đó yêu thương ông.

Philip nói: "Điều này cho chúng ta một cơ hội để nhớ lại những gì Thánh Biển Đức đã nói về chủ đề này. Anh có nhớ chính xác những lời này không, Peter?"

"Ngài nói: 'Tất cả, ngoài trừ những người bệnh, nên tiết chế thịt,' và sau đó: 'rượu không phải là đồ uống của các tu sĩ,'" Peter lập lại.

Philip gật đầu. Như ông đã nghi ngờ, Peter không biết rõ lề luật như ông. "Gần đúng như vây, Peter," ông nói. "Thánh Biển Đức không đề cập đến thịt chung chung, nhưng đề cập đến 'thịt của động vật bốn chân,' và Ngài ngoại trừ không những cho người bệnh, mà còn cho những người yếu. Ý ngài muốn nói gì về 'người yếu'? Ở đây, trong cộng đoàn bé nhỏ của chúng ta, chúng ta có thể nhìn thấy những anh em bị yếu mệt vì công việc vất vả ngoài đồng, những anh em này cần ăn thịt bò bây giờ để bảo vệ sức khỏe của họ."

Peter lắng nghe những điều này trong im lặng sưng sỉa, trán ông nhăn nhó không hài lòng, cặp lông mày trĩu nặng cau lại trên lỗ mũi cong lớn. Khuôn mặt ông che giấu một cuộc chống đối thầm kín.

Philip tiếp tục: "Về chủ đề rượu, Thánh Biển Đức nói: 'chúng ta đọc được rằng rượu không phải là đồ uống của tất cả các tu sĩ.' Việc sử dụng cụm từ 'chúng ta đọc đượng rằng' ngụ ý ngài không hoàn toàn tán thành việc cấm uống rượu. Ngài cũng nói rằng nửa lít rượu một ngày đủ cho mỗi người. Và ngài cảnh giác chúng ta không được uống cho đến chán. Phải chăng, rõ ràng là ngài không mong đợi các tu sĩ tránh rượu hoàn toàn?”

"Nhưng ngài nói rằng trong mọi sự chúng ta phải giữ tính thanh đạm," Peter nói.

"Và anh nghĩ là ở đây chúng ta không giữ thanh đạm đủ?" Philip hỏi ông.

"Tôi giữ," ông nói bằng giọng vang rền.

"'Hãy để những người được Thiên Chúa cho họ món quà của sự tiết chế biết rằng họ sẽ nhận được phần thưởng thích hợp cho họ,'” Philip trích dẫn. "Nếu anh cảm thấy lương thực ở đây quá dư giả, anh có thể ăn ít hơn. Nhưng hãy nhớ vị thánh cũng nói những điều khác nữa. Ngài trích thư thứ nhất gửi cho giáo đoàn Côrintô, trong đó thánh Phao Lô nói: 'mỗi người có món quà riêng của Thiên Chúa, người này có món quà này, người kia có món quà kia.' Và vị thánh nói với chúng ta:’Vì lý do này, không nên xác định số lượng đồ ăn của người khác.' Peter, làm ơn nhớ lấy điều đó, khi anh ăn chay và suy gẫm về tội mê ăn uống."

Họ đi làm trở lại, Peter mang bộ mặt như phải tử vì đạo. Ông không dễ dàng được bình yên, Philip nhận ra điều đó. Trong ba lời khấn của các tu sĩ về nghèo khó, khiết tịnh và vâng lời, điều khó khăn cho Peter là vâng lời.

Có nhiều cách đối xử với các tu sĩ không vâng lời, dĩ nhiên: biệt giam, phạt đồ ăn và nước uống, đánh đòn, sau cùng là vạ tuyệt thông và sa thải khỏi tu viện. Philip không ngần ngại dùng các phương thức đó, nhất là khi các tu sĩ muốn thử quyền bính của ông. Vì thế ông được coi là người cứng rắn. Nhưng trong thực tế ông ghét sử dụng hình phạt – nó mang lại bầu khí bất hòa giữa anh em tu sĩ và làm cho mọi người mất hạnh phúc. Tuy nhiên trong tường hợp của Peter, hình phạt không giúp gì – thực vậy, nó chỉ làm cho ông thêm kiêu ngạo và thêm hiềm thù. Philip phải tìm ra cách kiểm soát Peter và cùng lúc làm cho ông nên mềm mại. Điều đó không dễ dàng. Nhưng, ông nghĩ, nếu mọi chuyện đều dễ dàng, con người chẳng cần đến sự hướng dẫn của Thiên Chúa.

Họ đến khu đất phá hoang của tu viện trong rừng. Khi họ đi ngang qua một khoảng không gian thoáng, Philip nhìn thấy thầy John vẫy họ một cách thúc bách từ chuồng dê. Ông có tên là Johnny Eightpence, và ông có một chút vấn đề trong đầu. Philip băn khoăn không biết ông đang phấn khích về chuyện gì. Cùng với Johnny là một người trong y phục linh mục. Ông nhìn quen quen và Philip vội vàng tiến về phía họ.

Vị linh mục thấp, ngỏ gọn và vào lứa tuổi giữa hai mươi. Ông có mái tóc đen cắt ngắn và đôi mắt xanh lấp lánh sự thông minh nhanh nhẹn. Nhìn vào ông thì đối với Philip như thể nhìn vào gương. Vị linh mục, ông kinh ngạc nhận ra đó là em trai Francis của ông.

Và Francis đang bế một đứa bé mới sinh.

Philip không biết điều gì làm ông ngạc nhiên: Francis hay đứa bé. Các tu sĩ quây quần xung quanh. Francis đứng lên và trao đứa bé cho Johnny; rồi Philip ôm ông. “Em làm gì ở đây?” Philip thích chí nói. “Và tại sao em lại có đứa bé?”

“Chút nữa em sẽ kể cho anh tại sao em lại ở đây.” Francis nói. “Về đứa bé, em tìm thấy nó ở trong rừng, hoàn toàn một mình, nằm gần một đống lửa đang cháy.” Francis ngưng lại.

“Rồi sau đó…” Philip nhắc nhở ông.

Francis nhún vai. "Em không biết phải kể thêm gì nữa, bởi vì đó là tất cả những gì em biết. Em đã hy vọng có thể đến đây tối qua, nhưng em không thể đến được, vì thế em đã qua đêm ở một túp lều của nông dân. Em rời đó vào buổi bình minh sáng nay, và khi em đang cưỡi ngựa trên đường đi, em nghe tiếng trẻ khóc. Một lúc sau em thấy nó. Em bế nó lên và đem nó đến đây. Đó là tất cả câu chuyện."

Philip nhìn ngờ vực vào bọc nhỏ trong tay Johnny. Ông ngập ngừng đưa tay ra, nâng một góc của chiếc chăn. Ông nhìn thấy một khuôn mặt đỏ hỏn nhăn nheo, một chiếc miệng há rộng không răng và một đầu nhỏ không tóc – một mẫu nhỏ của một tu sĩ già. Ông mở to bọc hơn và nhìn thấy đôi vai mỏng manh nhỏ bé, cánh tay đang vẫy và bàn tay nắm chặt lại như nắm đấm. Ông nhìn vào cuống rốn treo từ lỗ rốn em bé. Nó xanh nhạt kinh khủng. Đó là điều tự nhiên? Philip tự hỏi. Nó giống như một vết thương được khỏi, và tốt hơn nên để nguyên như vậy. Ông kéo tấm chăn xuống sâu hơn. "Một bé trai," ông nói với chút xấu hổ, rồi đóng chăn lại. Một trong số tu sĩ tập sinh cười khúc khích.

Bất ngờ Philip cảm thấy bất lực. Tôi phải làm gì với nó đây? Ông nghĩ. Cho nó ăn?

Đứa trẻ khóc¸ và âm thanh đụng vào tình cảm của ông giống như một bài hát tình yêu quen thuộc. "Nó đói," ông nói, và ông tự hỏi trong lòng: Làm sao tôi biết được điều đó?

Một trong số các tu sĩ nói: "Chúng ta không thể cho nó ăn."

Philip định nói: Tại sao không? Nhưng ông chợt nhận ra tại sao không: vì không có phụ nữ nào ở xung quanh đây.

Tuy nhiên, Johnny đã giải quyết vấn đề, Philip nhìn thấy. Johnny ngồi xuống ghế với đứa trẻ trong lòng. Cậu có trong tay một chiếc khăn với một góc quấn lại như soắn ốc. Cậu nhúng góc khăn vào thùng sữa, để cho khăn thấm chất lỏng, rồi cho miếng vải vào miệng đứa bé. Đứa bé há miệng, mút vào khăn và nuốt.

Philip cảm thấy phấn khởi. "Rất thông minh, Johnny," ông nói trong ngạc nhiên.

Johnny cười toe toét. "Em đã làm điều này một lần rồi, khi con dê cái chết trước khi con dê con cai sữa," cậu hãnh diện nói.

Tất cả các tu sĩ chăm chú theo dõi Johnny lập lại động tác đơn giản của việc nhúng đầu khăn vào sữa và cho đứa bé bú. Vừa khi cậu đặt đầu khăn vào môi đứa bé, một vài tu sĩ há hốc miệng, Philip nhìn thích thú. Việc cho đứa bé ăn theo cách này thật mất giờ, nhưng một cách nào đó, việc cho đứa bé ăn là một công việc chậm rãi.

Peter thành Warenham hòa mình trong sự thích thú chung của mọi người nên đã quên chỉ trích. Bây giờ ông tỉnh lại và nói: "Nó sẽ ít việc hơn nếu tìm ra được mẹ của đứa bé."

Francis nói: "Tôi nghi ngờ về điều đó. Bà mẹ này chắc không có cưới hỏi gì và đã vi phạm luân lý. Tôi tưởng tượng cô ấy còn rất trẻ. Có lẽ cô ấy định giữ bí mật việc mang thai; rồi, khi thời điểm đến, cô đã vào rừng, đốt lửa; sau đó sinh con một mình, bỏ mặc con cho chó sói rồi đi về. Cô ấy sẽ ẩn mình để không bị tìm ra."

Đứa bé hầu như thiếp ngủ. Rồi bốc đồng, Philip lấy đứa bé từ tay Johnny. Ông ôm nó vào lòng, đỡ nó trong tay và ru nó. "Một sinh vật đáng thương," ông nói. "Đáng thương, thật đáng thương." Sự thúc đẩy muốn bảo vệ và săn sóc đứa bé dâng lên như một dòng nước chẩy mạnh. Ông nhận ra rằng các tu sĩ đang nhìn ông chằm chằm, kinh ngạc về sự biểu lộ bất ngờ về sự nhạy cảm của ông. Họ đã chẳng bao giờ nhìn thấy ông săn sóc một ai, dĩ nhiên, bởi vì những săn sóc tình cảm thuộc về thể xác bị nghiêm cấm trong tu viện. Rõ ràng là họ đã nghĩ ông không có khả năng về chuyện đó. Tốt thôi, ông nghĩ, bây giờ họ biết sự thật.

Peter thành Warenham lại lên tiếng. "Chúng ta phải mang đứa nhỏ đến Winchester, rồi cố gắng tìm ra một bà mẹ nuôi.”

Nếu điều này do một người khác nói, Philip có lẽ đã không nhanh chóng phản đối lại; nhưng người đó lại là Peter, nên Philip vội vàng nói, và lời nói này làm quan hệ giữa ông và Peter chẳng bao giờ còn như trước nữa. “Chúng ta không muốn giao nó cho một bà mẹ nuôi," ông nói dứt khoát. "Đứa bé này là một món quà của Thiên Chúa." Ông nhìn quanh tất cả họ. Các tu sĩ nhìn ông với đôi mắt mở to, theo dõi lời ông nói. "Chính chúng ta sẽ chăm sóc nó," ông tiếp tục. "Chúng ta sẽ nuôi nó, dạy dỗ nó và cho nó nên người trong đường lối của Thiên Chúa. Rồi, khi đứa bé thành một người lớn, cậu ấy sẽ trở thành tu sĩ, và qua cách đó chúng ta trao cậu ấy lại cho Thiên Chúa.

Một sự yên lặng sững sờ.

Rồi Peter nói trong tức giận: "Không thể được! Một bé sơ sinh không thể được nuôi nấng bởi các tu sĩ!"

Philip bắt gặp ánh mắt em trai của ông, và cả hai mỉm cười, trao đổi ký ức thời thơ ấu. Khi Philip lên tiếng, giọng ông trĩu nặng quá khứ. "Không thể ư? Không, Peter ạ. Ngược lại, tôi hoàn toàn tin chắc điều đó có thể làm được. Bằng chứng là em tôi đây. Chúng tôi biết từ kinh nghiệm riêng. Phải vậy không, Francis?”

Vào ngày hôm đó bố ông bị thương nặng và trở về nhà.

Philip là người đầu tiên nhìn thấy ông, cưỡi ngựa lên sườn đồi đến một làng nhỏ miền núi ở Bắc Wales. Philip sáu tuổi chạy ra gặp ông như thường lệ; nhưng lần này ông bố không bế cậu bé lên lưng ngựa, đặt ngồi phía trước ông như mọi khi. Ông cưỡi ngựa chậm rãi, ngồi sụp trong yên ngựa, giữ dây cương trong tay phải, và tay trái buông rũ xuống. Gương mặt ông tái nhợt và quần áo ông đầy máu. Philip vừa tò mò vừa lo âu, vì chưa bao giờ ông nhìn thấy bố mình tỏ ra yếu đuối.

Ông bố nói: "Gọi mẹ con về."

Khi họ đưa ông vào trong nhà, mẹ ông cắt áo sơ mi của ông. Philip kinh hoàng: nhìn thấy bà mẹ tần kiệm cố ý cắt hỏng bộ áo tốt còn kinh hoàng hơn là nhìn thấy máu. "Bây giờ đừng lo cho anh,” ông bố nói, nhưng giọng quát tháo bình thường của ông đã yếu đi thành tiếng thì thầm và không làm ai lưu ý đến – lại một sự kiện kinh hoàng khác, vì thông thường lời ông là luật. "Hãy để anh ở lại, và mọi người hãy đến tu viện ngay," ông nói. "Người Anh quốc chết tiệt chẳng bao lâu nữa sẽ đến đây." Có một tu viện với một nhà thờ ở trên đỉnh đồi, nhưng Philip không hiểu tại sao họ phải đến đó vì hôm nay không phải là chủ nhật. Mẹ nói: "Nếu anh mất nhiều máu hơn, anh sẽ không thể đi đâu nữa." Nhưng dì Gwen nói bà sẽ báo động, rồi bà đi ra ngoài.

Nhiều năm sau khi Philip nhớ lại những biến cố xẩy ra sau đó, ông nhận ra rằng vào thời điểm đó mọi người đã quên ông và đứa em bốn tuổi Francis của ông, và không ai nghĩ đến việc đem họ đến nơi an toàn trong tu viện. Dân chúng nghĩ về con cái của họ và cho rằng Philip và Francis được an toàn vì chúng ở với bố mẹ chúng; nhưng bố chẩy máu đến chết và mẹ gắng sức cứu ông, và người Anh đã đến và bắt cả bốn người họ.

Không có kinh nghiệm gì trong khoảng đời sống ngắn ngủi để chuẩn bị cho ông đối phó với hai kỵ binh khi họ đá cửa và xông vào trong căn nhà một phòng. Trong một tình huống khác họ không đáng sợ, vì họ là những thanh niên to lớn, lóng ngóng mà ông thường gặp. Những thanh niên này thường chế diễu đàn bà lớn tuổi, lạm dụng người Do Thái và đánh nhau bên cạnh những quán bia về đêm. Nhưng bây giờ (sau nhiều năm Philip hiểu, khi ông có thể nghĩ một cách khách quan về ngày đó) hai chàng thanh niên này bị say máu. Họ đã ở giữa cuộc chiến, đã nghe tiếng kêu trong lúc hấp hối, đã nhìn thấy bạn bè ngã xuống, và họ hoảng sợ, theo nghĩa đen, đã mất trí. Nhưng họ đã chiến thắng và sống sót, và bây giờ họ truy lùng quân thù của họ. Chỉ còn có một thứ làm họ thỏa mãn, đó là thêm máu, thêm tiếng kêu la, thêm thương tích và thêm chết chóc; và tất cả điều đó được viết trên khuôn mặt quằn quại của họ khi họ bước vào nhà, giống như những con cáo vào trong chuồng gà.

Mọi chuyện xẩy ra rất nhanh, mặc dù sau đó Philip có thể nhớ từng bước chân của họ, như thể nó kéo dài rất lâu. Cả hai người mặc áo giáp nhẹ, giống như một áo ngắn bằng dây xích sắt và một chiếc mũ bằng da với đai sắt. Cả hai đều rút gươm ra. Một người xấu xí, có chiếc mũi to cong và hàm răng xơ xác trong một nụ cười méo xệch giống như khỉ. Người kia có râu um tùm đầy máu người, có lẽ như vậy, vì ông ấy hầu như không bị thương. Hai người đi lại trong phòng, không dừng bước. Đôi mắt tàn nhẫn, tính toán của họ rời Philip và Francis, rồi tập trung vào ông bố. Họ nhào vào ông trước khi người khác có thể phản ứng.

Bà mẹ đang cúi xuống, băng cánh tay trái của ông. Bà chỗi dậy, đối diện với kẻ xâm phạm, mắt bà bừng lên niềm can đảm tuyệt vọng. Ông bố vùng đứng lên và đưa tay tới nắm gươm. Philip bật ra tiếng kêu kinh hoàng.

Người đàn ông xấu xí nâng lưỡi gươm qua đầu rồi bổ xuống – lần đầu xuống đầu mẹ, rồi đẩy bà sang bên mà không đâm bà, bởi vì có lẽ hắn không muốn mạo hiểm mắc lưỡi gươm của mình trong một thân thể, trong khi ông bố vẫn còn sống. Vài năm sau Philip nhớ lại: vào lúc đó ông chạy tới mẹ mà ông không hiểu rằng bà không còn có thể bảo vệ ông. Bà vấp váp, choáng váng và người đàn ông xấu xí đến bên bà, giơ cao thanh gươm một lần nữa. Philip bám vào váy bà khi bà lảo đảo, choáng váng; và ông bất lực nhìn về phía bố.

Ông bố kéo gươm ra khỏi bao và giơ lên bảo vệ. Người đàn ông xấu xí đánh lưỡi gươm xuống và hai lưỡi gươm đụng nhau, vang lên như chuông. Giống như mọi đứa trẻ khác, Philip nghĩ bố ông không thể thua; và đây là lúc ông biết sự thật. Bố yếu vì mất nhiều máu. Khi hai lưỡi gươm gặp nhau, lưỡi gươm của ông giảm xuống; và kẻ tấn công giơ gươm lên và bổ xuống nhanh chóng. Mũi gươm giáng xuống vào bắp thịt cổ, gần vai. Philip hét lên khi nhìn thấy lưỡi dao sắc cắt dào da thịt bố. Người đàn ông xấu xí kéo tay lại, và đâm lưỡi gươm vào bụng ông.

Tê liệt vì kinh hoàng, Philip nhìn mẹ. Mắt ông gặp mắt bà vừa lúc người đàn ông khác, người có râu, đánh bà gục xuống. Bà ngã xuống trên nền nhà bên cạnh Philip với máu tuôn ra từ vết thương trên đầu. Người đàn ông có râu thay đổi tay cầm gươm, đảo ngược nó để mũi nó quay xuống và cầm nó cả hai tay; rồi ông giơ cao, trông giống như đang đâm chính mình, và đâm mạnh xuống. Có tiếng vỡ ghê tởm của xương bị bể khi lưỡi gươm đâm vào ngực bà. Lưỡi dao vào sâu, quá sâu. Philip để ý, ngay cả khi ông đã tiều tụy vì sợ hãi hoảng loạn. Lưỡi dao đã đi qua lưng bà đến mặt đất, đóng chặt bà vào nền nhà như một cây đinh.

Tuyệt vọng, Philip lại nhìn bố. Ông thấy bố ông sụp xuống trên thanh gươm của người đàn ông xấu xí và phun ra một cục máu lớn. Kẻ tấn công lùi lại, giật cây gươm, cố gắng kéo nó ra. Ông bố vấp váp đi theo để người lính không rút gươm ra được. Người đàn ông xấu xí hét lên vì tức, và xoáy lưỡi gươm vào bụng ông. Lần này lưỡi gươm tụt ra, bố ông gục xuống nền nhà và tay ông đè lên hỗ sâu trên bụng như thể muốn che lại vết thương. Philip luôn tưởng tượng bên trong con người nhiều hay ít cũng rắn chắc, và ông kinh hoàng và buồn nôn vì các ống và cơ quan đáng sợ rơi ra từ bụng bố. Kẻ tấn công giơ cao gươm, chĩa mũi gươm xuống, trên thân thể ông, và đâm xuống lưỡi gươm cuối cùng giống như người đàn ông có râu đã làm với mẹ ông.

Hai người Anh quốc nhìn nhau và hoàn toàn bất ngờ, Philip đọc được sự bớt căng thẳng trên khuôn mặt họ. Cả hai, họ quay lại nhìn ông và Francis. Một người gật đầu và người kia nhún vai, và Philip nhận ra rằng họ định giết ông và em ông bằng cách mổ bụng họ bằng lưỡi gươm sắc này, và khi ông nhận ra nó sẽ đau làm sao, sự khiếp sợ đốt cháy trong ông cho đến khi ông cảm thấy như thể đầu ông sẽ vỡ ra.

Người đàn ông có máu trên râu cúi xuống nhanh chóng và móc Francis lên bằng một bàn chân. Ông giữ Francis lộn ngược trong không, trong khi đứa bé gào thét gọi mẹ mà nó không hiểu rằng mẹ nó đã chết. Người đàn ông xấu xí lôi thanh gươm ra khỏi xác của ông bố, và kéo tay lại như chuẩn bị đâm qua tim Francis.

Cú đâm chẳng bao giờ xẩy ra. Một giọng nói như ra lệnh vang lên, và hai người đàn ông chết lạnh. Tiếng la hét ngưng lại và Philip nhận ra chính ông là người đã la hét. Ông nhìn ra cửa và thấy Viện phụ Peter đứng đó trong bộ áo choàng giản dị, với cơn thịnh nộ của Thiên Chúa trong mắt, và giữ cây thánh giá trong tay như một thanh guơm.

Khi Philip mơ lại những ngày đó trong cơn ác mộng và thức dậy với mồ hôi ướt đẫm và tiếng la hét trong bóng tối, ông luôn có thể giữ mình bình tĩnh lại, và ru mình vào lại giấc ngủ, bằng cách nhớ lại cảnh cuối cùng. Ông nhớ lại những tiếng la hét được im lặng, những vết thương được băng bó bởi một người không có vũ khí gì, mà chỉ với cây thập giá trên tay.

Viện phụ Peter lại lên tiếng. Philip không hiểu ngôn ngữ ông dùng – nó là tiếng Anh, dĩ nhiên – nhưng ý nghĩa thì rõ ràng, vì hai người kỵ binh trông có vẻ xấu hổ, và tên có râu để Francis nhẹ nhàng xuống đất. Vẫn đang nói, vị tu sĩ tự tin bước vào nhà. Người kỵ binh lùi lại một bước, như thể họ sợ ông – họ với gươm và áo giáp, và ông ấy với một áo choàng bằng len và một cây thánh giá! Ông quay lưng lại phía họ, một thái độ khinh miệt, và cúi xuống nói chuyện với Philip. Giọng của ông thực tiễn. "Tên con là gì?"

"Philip."

"À, vâng, cha nhớ rồi. Và tên em con là gì?"

"Francis."

"Được rồi." Viện phụ nhìn vào những thân thể đẫm máu trên nền nhà. "Có phải đây là mẹ con không?"

“Vâng," Philip nói, và ông cảm thấy hoảng loạn khi ông chỉ vào thân xác đầy vết đâm của bố ông và nói: "Và đây là bố con."

"Cha biết," vị tu sĩ nói dịu dàng. "Con không phải la hét nữa, con phải trả lời câu hỏi của cha. Con có hiểu rằng họ đã chết rồi không?"

"Con không biết," Philip đau khổ nói. Ông biết một động vật chết nghĩa là như thế nào, nhưng làm sao điều đó có thể xẩy ra cho bố và mẹ của ông được?

Viện phụ nói: "Nó giống như người đang ngủ."

"Nhưng mắt họ mở!" Philip hét lên.

"Ừ, tốt hơn chúng ta nên vuốt mắt cho họ."

"Vâng,” Philip nói. Ông tưởng như thế sẽ giải quyết mọi chuyện.

Viện phụ Peter đứng lên, nắm tay Philip và Francis, và dắt chúng đi ngang phòng đến bên xác ông bố. Ông quỳ xuống, nắm tay của Philip trong tay ông. “Cha sẽ chỉ cho con,” ông nói. Ông di chuyển tay Philip trên mặt bố ông, nhưng bất ngờ Philip sợ không dám chạm vào người bố ông, bởi vì thân xác ông trông xa lạ, nhợt nhạt, mềm rũ và đầy vết thương ghê gớm, và ông vội rút tay về. Rồi ông sợ hãi nhìn Viện phụ Peter – một người mà không ai dám cãi lời. "Đến đây!" ông nói nhẹ nhàng và lại nắm lấy tay Philip. Lần này Philip không kháng cự. Cầm ngón trỏ của Philip, vị tu sĩ giúp đứa bé chạm vào mí mắt của ông bố và ấn nó xuống cho đến khi đôi mắt trừng trừng của ông khép kín. Rồi ông lay tay Philip và nói: "Hãy vuốt mắt kia nữa." Bây giờ không cần sự giúp đỡ, Philip đụng vào mắt bố ông và đóng nó lại. Sau đó ông cảm thấy thoải mái hơn.

Viện phụ nói: "Chúng ta cũng vuốt mắt mẹ con nữa chứ?"

"Vâng."

Họ quỳ xuống bên cạnh thi thể của bà. Viện phụ lau máu trên mặt bà bằng tay áo. Philip nói: "Còn Francis thì sao?"

"Có lẽ cậu ấy cũng giúp con nữa," viện phụ nói.

"Hãy làm những gì anh làm," Philip nói với em mình. "Hãy vuốt mắt cho mẹ như anh đã làm cho bố, như thế mẹ có thể ngủ yên."

"Họ đang ngủ sao?' Francis hỏi.

"Không, nhưng dường như thế," Philip nói một cách uy quyền, "vì thế mà mẹ cần nhắm mắt."

"Được," Francis nói và không do dự, cậu đưa bàn tay mũm mĩm và cẩn thận vuốt mắt mẹ.

Rồi viện phụ kéo chúng đứng lên, mỗi cậu một tay, và không nhìn vào các kỵ binh, ông đưa chúng ra khỏi nhà và theo con đường đồi đến tu viện.

Ông cho chúng ăn trong nhà bếp của tu viện; và để chúng không có giờ bận rộn với những suy nghĩ, ông nói chúng giúp chuẩn bị bữa ăn trưa cho các tu sĩ. Ngày hôm sau ông đưa chúng đi nhìn thi thể bố mẹ chúng đã được tắm rửa, mặc quần áo, sạch các vết thương, được đặt nằm trong quan tài, hai chiếc gần nhau trong gian giữa nhà thờ. Không phải chỉ có họ, còn nhiều thân nhân của họ cũng chết, bởi vì không phải tất cả dân làng đều có thể đến được tu viện để trốn tránh quân xâm lược. Viện phụ Peter dẫn chúng đến lễ an táng, và lo liệu cho chúng nhìn thấy hai quan tài được cho xuống trong một huyệt. Khi Philip kêu la, Francis cũng la theo. Một vài người bắt chúng yên, nhưng viện phụ nói: "Hãy để chúng khóc." Chỉ sau đó, khi chúng hiểu sâu thẳm trong tâm hồn rằng cha mẹ chúng đã ra đi vĩnh viễn và chẳng bao giờ trở lại, lúc đó ông mới nói với chúng về tương lai.

Trong số những người thân của chúng, không có gia đình nào còn lại trọn vẹn: trong mọi trường hợp, không bố thì mẹ đã bị giết. Không có người thân nào chăm sóc cho những đứa nhỏ này. Chỉ còn lại hai lựa chọn. Một là chúng có thể cho hoặc bán cho một nông dân như một nô lệ lao động cho đến khi chúng đủ lớn và đủ mạnh để chạy trốn. Hai là chúng được trao cho Chúa.

Cho những đứa bé vào tu viện không phải là việc mới lạ. Lứa tuổi thông thường được nhận vào tu viện là mười một, và ít nhất là năm tuổi, bởi vì các tu sĩ không quen chăm sóc trẻ thơ. Một đôi khi đứa trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ, một đôi khi chúng mất cha hoặc mẹ, một đôi khi cha mẹ chúng có quá nhiều con trai. Thường thường khi trao đứa nhỏ cho tu viện, họ cũng tặng tu viện một món quà tương xứng – một nông trại, một nhà thờ hoặc ngay cả một làng. Trong trường hợp vì nghèo túng, món quà không cần thiết. Tuy nhiên, bố của Philip đã để lại một trang trại đồi khiêm tốn, vì thế các cậu bé này không phải là một trường hợp vì từ thiện. Viện phụ Peter đề nghị rằng tu viện sẽ nhận các cậu bé và trang trại; các thân nhân còn sống của các cậu đồng ý; và sự thỏa thuận này được công nhận bởi Hoàng tử của Gwynedd, Gruffyd ap Cynan, người đã bị tạm thời hạ bệ, nhưng không bị hoàn toàn truất phế bởi quân đội xâm lược của vua Henry, những người đã giết bố của Philip.

Viện phụ biết nhiều về sầu khổ, nhưng bất chấp sự thông thái của ông, ông cũng không tưởng tượng được những gì sẽ xảy ra với Philip. Sau khoảng một năm, khi nỗi đau đã phôi phai, và hai cậu bé đã quen với đời sống trong tu viện, Philip bị giằn vặt bởi một sự tức giận không nguôi. Điều kiện sống trong tu viện trên đỉnh đồi không quá xấu để biện minh cho sự tức giận của cậu: ở đó có đồ ăn, quần áo, lò sưởi trong phòng ngủ vào mùa đông, và ngay cả một chút tình yêu và tình cảm; và kỷ luật nghiêm ngặt cũng như những nghi thức tẻ nhạt ít nhất cũng tạo nên trật tự và ổn định; nhưng Philip bắt đầu tỏ thái độ như thể ông bị giam giữ một cách bất công. Ông bất tuân mệnh lệnh, làm giảm thẩm quyền của các viên chức tu viện trong mọi cơ hội, ăn cắp đồ ăn, làm bể trứng, thả ngựa đi, chế giễu người bệnh và xúc phạm người lớn tuổi. Một tội phạm ông đã dừng lại đó là phạm sự thánh, và vì lý do đó viện phụ đã tha cho ông các lỗi lầm khác. Và sau cùng ông đã vượt qua khỏi nó. Vào một ngày lễ giáng sinh, ông nhìn lại mười hai tháng qua và nhận ra rằng trong cả năm ông đã chẳng phải ở trong nhà phạt một đêm nào.

Đó không phải là lý do duy nhất giúp ông trở về đời sống bình thường. Có lẽ sự thích thú trong lớp học đã giúp ông. Lý thuyết một cách toán học của âm nhạc đã thu hút ông, và ngay cả cách thức chia động từ Latin cũng có một lô gic nhất định. Ông được đưa vào giúp việc cho cha quản lý, người cung cấp mọi sự cần thiết cho tu viện, từ đôi dép cho tới hạt giống; và điều đó cũng khơi dậy sở thích của ông. Dần dần ông tỏ lòng ngưỡng mộ John, một tu sĩ trẻ đẹp trai, khỏe mạnh, một gương mẫu trong việc học, thánh thiện, thông thái và tử tế. Hoặc vì muốn bắt chước John, hoặc từ khuynh hướng riêng của mình, hoặc cả hai, ông đã bắt đầu tìm được niềm an ủi trong việc cầu nguyện và phục vụ hàng ngày. Và vì thế ông bước vào tuổi thành niên, với cách tổ chức của tu viện ảnh hưởng đến tâm trí ông và sự hòa hợp thánh thiện trong tai ông.

Trong việc học, cả hai Philip và Francis bỏ xa những đứa trẻ khác cùng lứa tuổi, nhưng họ cho rằng đó là bởi vì họ được sống trong tu viện và được huấn luyện một cách chặt chẽ hơn. Ở giai đoạn này họ không nhận ra rằng họ đặc biệt. Ngay cả khi họ càng ngày càng nhận nhiều trách nhiệm dạy học trong trường hơn, và nhận bài học trực tiếp từ tu viện trưởng thay vì từ vị giáo tập mô phạm già cả, họ nghĩ họ đi trước bởi vì họ đã được bắt đầu sớm hơn.

Khi họ nhìn lại tuổi trẻ của họ, Philip nhận ra dường như có một giai đoạn vàng son ngắn ngủi, một năm hoặc ngắn hơn, giữa giai đoạn cuối cuộc nổi loạn của ông và cuộc tấn công của sự ham muốn xác thịt. Sau đó là thời kỳ giằn vặt của những tư tưởng không thanh sạch, những giấc mơ xấu trong đêm, những buổi xưng tội đáng xấu hổ với cha giải tội (thường là viện phụ), với việc đền tội vô hạn và việc hành xác tai họa.

Sự ham muốn xác thịt chẳng bao giờ ngừng dày vò ông, nhưng nó trở thành ít quan trọng hơn, vì thế mà nó chỉ đôi khi làm phiền ông trong những trường hợp họa hiếm như khi đầu óc và thân thể ông nhàn rỗi; giống như một vết thương cũ đau lại khi thời tiết thay đổi.

Francis gặp cuộc chiến này trễ hơn, và mặc dù ông không thổ lộ việc này với Philip, nhưng Philip có cảm tưởng Francis đã ít dũng cảm chiến đấu chống lại lòng ham muốn xấu này. Tuy nhiên, vấn đề chính là họ đã hòa giải được với những đam mê, những kẻ thù lớn nhất trong đời sống tu sĩ.

Khi Philip làm việc với cha quản lý, Francis làm việc cho cha tu viện trưởng, phụ tá của Viện phụ Peter. Khi cha quản lý qua đời, Philip mới hai mươi mốt tuổi, và ngay cả còn trẻ, ông vẫn đảm nhận công việc đó. Và khi Francius được hai mươi mốt tuổi, viện phụ đề nghị tạo một công việc mới và trao cho ông, đó là tu viện phó. Nhưng đề nghị này gây nên một khủng hoảng cho ông. Francis xin từ bỏ trách nhiệm, cũng như rời khỏi tu viện. Ông muốn được thụ phong linh mục và phục vụ Thiên Chúa trong thế giới bên ngoài.

Philip ngạc nhiên và kinh hoàng. Ông chẳng bao giờ nghĩ rằng một người trong họ sẽ rời khỏi tu viện, và bây giờ nó làm ông bối rối khi ông nhận ra rằng ông là người thừa kế ngai vàng. Nhưng sau nhiều cuộc bàn cãi và dò xét lương tâm, Francis quyết định đi vào trong thế giới, và chẳng bao lâu sau ông trở thành tuyên úy cho bá tước thành Gloucester.

Trước khi những điều đó xảy ra, Philip nhìn thấy tương lai mình thật giản dị: ông sẽ là một tu sĩ, sống một cuộc sống khiêm nhường và vâng lời, và trong tuổi già, có lẽ sẽ trở thành viện phụ, và phấn đấu theo gương mẫu của cha Peter. Bây giờ ông tự hỏi Thiên Chúa có ý định nào cho ông. Ông nhớ lại ví dụ về những nén vàng: Thiên Chúa muốn đầy tớ của Ngài phát triển lĩnh vực của họ, chứ không chỉ đơn thuần là bảo tồn nó. Với sự bối rối, ông đã chia sẻ suy nghĩ này với Viện phụ Peter, nhận thức tỉnh táo rằng ông sẽ bị khiển trách vì niềm tự hào của mình.

Ông ngạc nhiên khi viện phụ nói: "Cha tự hỏi còn bao lâu nữa con sẽ lãnh nhiệm vụ này. Dĩ nhiên con được chỉ định cho công việc khác nữa. Con sinh ra ở một nơi gần tu viện, mồ côi khi lên sáu, lớn lên bởi các tu sĩ, trở thành quản lý khi mới hai mươi mốt tuổi – Thiên Chúa không cần quan tâm nhiều đến việc huấn luyện cho một người sẽ trải qua đời sống của mình trong một tu viện nhỏ trên ngọn đồi khô cằn nằm sâu trong rừng núi này. Ở đây không có đủ chỗ cho con. Con phải đi khỏi nơi đây."

Philip bị choáng váng bởi điều này, nhưng trước khi rời vị viện phụ, có một câu hỏi làm ông bận tâm, và ông bật thành lời. "Nếu tu viện này không quá quan trọng, tại sao Chúa lại đặt cha ở đây?"

Viện phụ Peter mỉm cười: "Có lẽ để lo lắng cho con."

Cuối năm đó, viện phụ đến Canterbury thăm viếng tổng giám mục, sau khi trở về ông nói với Philip: "Cha đã trao con cho tu viện trưởng ở Kingsbridge."

Philip nản lòng, tu viện Kingsbridge là một trong những tu viện lớn nhất và quan trọng nhất trong nước. Đó là một tu viện chính tòa: nhà thờ của tu viện là nhà thờ chính tòa, nơi có tòa giám mục, và giám mục thường là tu viện trưởng của tu viện, mặc dù trong thực tế nó được điều hành bởi tu viện trưởng.

“Tu viện trưởng James là một người bạn cũ của cha," Viện phụ Peter nói với Philip. "Trong những năm sau này ông trở nên chán nản, cha không biết tại sao. Dù sao, Kingsbridge cần nhiệt huyết trẻ trung. Đặc biệt, James đang có vấn đề với một tu viện chi nhánh trong rừng, và ông cần một người đáng tin cậy để điều hành tu viện và đưa nó trở về con đường kính sợ Chúa."

"Vì thế con sẽ là tu viện trưởng của tu viện?" Philip nói trong ngạc nhiên.

Viện phụ gật đầu. "Và nếu đúng rằng Thiên Chúa có nhiều việc cho con làm, chúng ta có thể chờ đợi Ngài sẽ giúp con giải quyết mọi khó khăn trong tu viện này."

"Và nếu chúng ta sai?"

"Con luôn luôn có thể trở về đây và làm quản lý của cha. Nhưng chúng ta không sai, con à, rồi con sẽ thấy."

Cuộc chia tay đầy nước mắt. Ông đã trải qua mười bảy năm ở đây, và các tu sĩ là gia đình của ông. Gia đình này còn thực tế với ông hơn là gia đình với cha mẹ, những người đã bị lấy đi khỏi ông một cách dã man. Có lẽ ông sẽ chẳng bao giờ gặp lại các tu sĩ này nữa, vì thế ông buồn.

Lúc đầu Kingsbridge làm ông quá sợ. Tu viện được các bức tường bao quanh còn lớn hơn nhiều làng mạc; nhà thờ chính tòa là một hang động lớn, ảm đạm; nhà tu viện trưởng là một cung điện nhỏ. Nhưng khi ông làm quen với vẻ lớn lao bên ngoài, ông nhìn thấy dấu hiệu của thờ ơ mà viện phụ Peter đã nhận xét về người bạn cũ của ngài. Nhà thờ cần một sự tu bổ tổng quát; giờ kinh đọc vội vàng; kỷ luật giữ thinh lặng thường xuyên bị phá vỡ; và có quá nhiều người làm hơn là các tu sĩ. Thay vì ngạc nhiên Philip trở thành tức giận. Ông muốn nắm cổ Tu viện trưởng James, lay ông và nói: "Làm sao cha dám làm điều này? Làm sao cha lại cho Chúa những lời kinh vội vàng? Làm sao cha lại cho phép các tập sinh chơi xúc xắc và các tu sĩ giữ những con chó cưng? Tại sao cha lại sống trong một cung điện, bao quanh bởi các người hầu hạ, trong khi nhà Chúa lại hư hại và rơi vào tình trạng đổ nát?" Dĩ nhiên, ông không nói những lời như thế. Ông có một cuộc phỏng vấn ngắn, hình thức với Tu viện trưởng James, một người cao, gầy, còng lưng như thể gánh nặng rắc rối của thế giới đè trên đôi vai tròn của ngài. Rồi ông nói chuyện với Tu viện phó Remigius. Vào lúc bắt đầu câu chuyện, Philip nói bóng gió là tu viện phải có một số thay đổi, chờ mong những người có trách nhiệm trong tu viện sẽ tán đồng; nhưng Remigius nhìn Philip như muốn nói: ông nghĩ ông là ai? Rồi ông đổi đề tài.

Remigius nói rằng tu viện Thánh St. John trong rừng đã được thiết lập ba năm trước với một ít đất và một số tài sản, và bây giờ nó nên tự lập, nhưng thực tế nó vẫn cần sự trợ giúp từ nhà dòng mẹ. Ngoài ra còn có những vấn đề khác: một phó tế đã qua đêm ở đó và đã phê bình về sự bê bối của các giờ kinh nguyện; khách lữ hành cho rằng họ bị cướp bởi các tu sĩ trong vùng; ngoài ra còn có những tin đồn nhảm nhí… Sự kiện là Remigius không có thể hoặc không muốn đưa ra những chi tiết cụ thể là những dấu hiệu khác về cách điều hành biếng nhác của tu viện. Philip run lên vì thịnh nộ. Tu viện là để làm vinh danh Chúa. Nếu nó không làm được điều đó, nó không còn ý nghĩa. Tu viện Kingsbridge còn xấu xa hơn thế nữa. Nó làm Chúa tủi hổ vì sự ỳ ạch của nó. Nhưng Philip không thể làm gì khác. Điều tốt nhất mà ông có thể hy vọng là cải cách một trong các tu viện nhỏ của Kingsbridge.

Trên cuộc hành trình hai ngày đến tu viện trong rừng, ông nghiền ngẫm những thông tin ít ỏi ông nhận được, và cân nhắc trong thâm tâm về cách thức ông phải hành động. Trước tiên ông sẽ hành xử nhẹ nhàng, ông quyết định như thế. Thông thường một tu viện trưởng sẽ được các tu sĩ bầu lên; nhưng trong trường hợp của một tu viện chi nhánh, được coi như một nhà phụ của tu viện chính, bề trên của tu viện chính có thể chỉ định tu viện trưởng cho tu viện chi nhánh. Vì thế Philip đã không được yêu cầu để trở thành ứng viên cho cuộc bầu cử, và điều đó cũng có nghĩa là ông không thể đương nhiên có được sự hậu thuẫn của các tu sĩ ở đó. Ông phải bắt đầu công việc một cách chậm rãi và cẩn thận. Ông cần tìm hiểu nhiều hơn về những khó khăn trước khi ông có thể quyết định cách nào tốt nhất để giải quyết chúng. Ông phải chiếm được sự tôn trọng và tin tưởng của các tu sĩ, đặc biệt những người lớn tuổi hơn ông và những người ghen tỵ với vị trí của ông. Và khi nào ông nhận được đầy đủ thông tin và vai trò lãnh đạo của ông đã vững vàng, ông sẽ hành động một cách mạnh mẽ.

Nhưng rồi mọi chuyện lại khác.

Trời ảm đạm hơn vào ngày thứ hai khi ông kiềm con ngựa nhỏ đi theo bờ biên của mảnh đất khai hoang và xem xét ngôi nhà mới của ông. Ở đó, trong lúc này, chỉ có một ngôi nhà đá, nhà nguyện (Philip đã xây nhà ngủ bằng đá vào năm sau.) Những nhà khác bằng gỗ nhìn xiêu vẹo. Philip không thể chấp nhận, vì đối với ông mọi thứ do các tu sĩ làm nên phải vững bền, và điều đó có giá trị cho cái chuồng heo cũng như ngôi nhà thờ chính tòa. Khi nhìn quanh, ông khám phá ra những bằng chứng khác chứng tỏ tính lỏng lẻo đã làm ông bị sốc ở Kingsbridge: không có hàng rào, cỏ khô được đổ ra bên ngoài cửa chuồng, và một đống phân bên cạnh ao cá. Ông cảm thấy mặt ông căng lên vì tức giận bị kiềm nén, và ông nhủ lòng: nhẹ nhàng, nhẹ nhàng.

Lúc đầu ông không thấy ai. Đó phải là chuyện bình thường, vì đó là giờ kinh chiều và hầu hết tu sĩ phải ở trong nhà nguyện. Ông quất vào hông con ngựa con và đi qua thủa đất khai hoang tới một túp lều trông giống như một chuồng súc vật. Một thanh niên có những cọng rơm trên mái tóc và có một cái nhìn xa vắng trên khuôn mặt thò đầu qua cửa và ngạc nhiên nhìn chằm chằm vào Philip.

"Tên anh là gì?" Philip nói và rồi, sau một lúc do dự, ông nói thêm: "Con thân yêu."

"Họ gọi con là Johnny Eightpence," chàng trai trẻ nói.

Philip xuống ngựa và trao dây cương cho cậu. "Tốt, Johnny Eightpence, con có thể tháo yên ngựa cho cha."

"Vâng, thưa cha." Cậu vắt dây cương qua một đường ray và ra đi.

"Con đi đâu thế?" Philip cứng rắn hỏi.

"Để nói cho các anh em khác biết là có một người lạ ở đây."

"Con phải thực hành sự vâng lời, Johnny. Tháo yên ngựa xuống! Cha sẽ tự nói cho các anh em biết là cha đang ở đây."

"Vâng, thưa cha." Nhìn một cách sợ hãi, Johnny cúi xuống làm nhiệm vụ của mình.

Philip nhìn quanh. Ở giữa vùng đất khai hoang là một tòa nhà dài giống như một hội trường lớn. Gần đó là một tòa nhà nhỏ hình tròn, có khói bốc lên từ một lỗ trên mái. Đó có lẽ là nhà bếp. Ông quyết định xem bữa ăn tối ra sao. Trong những tu viện nghiêm ngặt, mỗi ngày chỉ có một bữa ăn, bữa ăn trưa vào lúc mặt trời đứng bóng; nhưng đây hiển nhiên không phải là một tu viện nghiêm ngặt, và có thể ở đây sẽ có một bữa ăn nhẹ sau giờ kinh chiều, một vài lát bánh mì với pho mát hay với cá ướp muối, hay một bát cháo lúa mạch với các loại rau. Tuy nhiên, khi ông đến gần nhà bếp, ông ngửi thấy một mùi thơm không thể nhầm lẫn được của thịt nướng. Ông dừng lại, cau mày, rồi đi vào.

Hai tu sĩ và một cậu bé đang ngồi quanh lò sưởi. Khi Philip quan sát, một tu sĩ đưa một chiếc bình cho người khác, và người đó uống. Cậu bé đang quay một cái xiên và trên cái xiên là một con heo nhỏ.

Họ nhìn lên ngạc nhiên khi Philip bước vào. Không nói gì, ông lấy chiếc bình từ tay vị tu sĩ và ngửi. Rồi ông nói: "Tại sao các anh lại uống rượu?"

"Bởi vì nó làm cho tim tôi rộn ràng, người xa lạ ạ!" vị tu sĩ nói. "Hãy uống một hơi đi."

Rõ ràng là họ không được cảnh báo để chờ đợi vị tu viện trưởng mới. Cũng rõ ràng là họ không sợ bị một tu sĩ vãng lai nào đó thông báo cho tu viện chính ở Kingsbridge về thái độ của họ. Philip nổi giận đến nỗi muốn đập chiếc bình lên đầu vị tu sĩ, nhưng ông hít một hơi dài và nói dịu dàng. "Những đứa con của người nghèo phải nhịn đói để cung cấp thịt và đồ uống cho chúng ta," ông nói. "Nó để làm vinh danh Chúa, chứ không phải để làm trái tim chúng ta rộn ràng. Tối nay các anh sẽ không có rượu nữa." Ông đi ra, mang theo bình rượu.

Khi ông đi ra, ông nghe một tu sĩ nói theo sau lưng: "Ông nghĩ ông là ai?" Ông không trả lời. Chẳng bao lâu nữa họ sẽ tự tìm ra.

Ông để bình rượu bên ngoài nhà bếp và đi theo khu đất khai hoang về phía nhà nguyện, nắm chặt tay rồi nhả ra, cố gắng kiềm chế cơn giận. Đừng vội vàng, ông tự nhủ. Hãy thận trọng. Hãy chờ đợi.

Ông dừng lại một lúc trong mái hiên nhỏ của nhà nguyện cho tâm hồn lắng đọng, rồi nhẹ nhàng đẩy cánh cửa gỗ sồi lớn và âm thầm đi vào.

Khoảng một chục các tu sĩ và một vài tập sinh đứng quay lưng về phía ông trong hàng ngũ rời rạc. Đối diện với họ là cha phụ trách phụng vụ đang đọc từ cuốn sách mở sẵn trước mặt. Ông xướng kinh nhanh chóng và các tu sĩ thưa lại hời hợt. Ba cây nến cao thấp khác nhau chẩy sáp trên khăn bàn thờ dơ bẩn.

Phía sau, hai tu sĩ trẻ đang nói chuyện, không quan tâm đến giờ kinh và thảo luận về một cái gì đó sôi nổi. Khi Philip đến ngang hàng ghế của họ, một tu sĩ nói một điều gì đó khôi hài, và người kia cười to, át cả tiếng của người chủ sự giờ kinh. Đó là giọt nước cuối cùng đối với Philip và tất cả quyết định phải hành động nhẹ nhàng biến khỏi tâm trí ông. Ông cất tiếng hét lên: "Hãy yên lặng."

Tiếng cười ngưng lại. Người chủ sự giờ kinh ngừng đọc. Nhà nguyện lặng thinh, các tu sĩ ngó quanh rồi nhìn chằm chặp vào Philip.

Ông đến bên vị tu sĩ đã cười và nắm lấy tai ông. Ông cùng trạc tuổi với Philip, cao hơn, nhưng ông quá kinh ngạc để phản kháng khi Philip ấn đầu ông xuống. "Quỳ xuống!" Philip nói lớn. Một lúc lâu dường như vị tu sĩ cố gắng để gỡ mình ra; nhưng ông biết ông sai, và đúng như Philip chờ đợi, sự chống đối của ông dần dần bị quy phục vì lương tâm tội lỗi của ông; và khi Philip kéo tai ông mạnh hơn, ông quỳ xuống.

"Tất cả mọi người," Philip ra lệnh. "Hãy quỳ xuống!"

Tất cả các tu sĩ có lời khấn vâng lời, và sự vô kỷ luật mà họ đang sống hiện nay cũng không xóa bỏ được tập quán của hàng nhiều năm. Vì thế một nửa các tu sĩ và tất cả các tập sinh quỳ xuống.

"Tất cả anh em đã vi phạm lời khấn," Philip nói, tỏ thái độ coi thường. "Mỗi người trong anh em đều xúc phạm đến Thiên Chúa." Ông nhìn quanh, tìm kiếm mắt họ. "Việc đền tội của anh em bắt đầu từ bây giờ," sau cùng ông nói.

Chậm rãi họ quỳ xuống, từng người một, chỉ trừ người chủ tọa giờ kinh vẫn đứng. Ông ấy là người mập mạp, có đôi mắt buồn ngủ và già hơn Philip khoảng hai mươi tuổi. Philip đến gần ông, đi vòng quanh các tu sĩ đang quỳ. "Hãy đưa sách cho tôi," ông nói.

Vị phụ trách phụng vụ ngang ngược nhìn lại, không nói gì.

Philip bước đến và cầm lấy cuốn sách lớn. Người chủ tọa giờ kinh không buông ra. Philip do dự. Hai ngày qua ông đã quyết định phải cẩn thận và hành động chậm rãi, nhưng bây giờ ông đang ở đây, với bụi đường còn lấm đôi chân, ông mạo hiểm tất cả trong cuộc đối đầu với một người mà ông chưa biết. "Đưa cho tôi cuốn sách và quỳ xuống," ông lập lại.

Một nét nhạo báng trên khuôn mặt, ông hỏi: "Ông là ai?"

Philip lại do dự. Rõ ràng ông là một tu sĩ, từ quần áo đến mái tóc; và họ phải đoán qua tư cách của ông rằng ông là người có thẩm quyền; nhưng nó chưa rõ ràng là ông có quyền cao hơn người chủ sự giờ kinh không. Tất cả những gì ông cần nói là: tôi là tu viện trưởng mới của anh em, nhưng ông không muốn. Đột nhiên ông có cảm tưởng là nên thuyết phục bằng quyền uy luân lý.

Vị phụ trách phụng vụ cảm thấy sự không chắc chắn của ông và tận dụng nó. "Làm ơn nói cho tất cả chúng tôi biết," ông nói với vẻ lịch sự giả dối, "người đã ra lệnh cho chúng tôi quỳ xuống trước mặt họ là ai?"

Tất cả sự do dự chợt tan biến và ông nghĩ: Thiên Chúa ở với tôi, tôi còn sợ gì? Ông hít một hơi dài, và lời ông phát ra như tiếng gầm, vang từ nền gạch cho đến mái trần vòm bằng đá. "Đó chính là Thiên Chúa, Người ra lệnh cho các anh quỳ xuống trước sự hiện diện của Ngài!" ông gầm lên.

Vị phụ trách phụng vụ dường như mất đi một chút tự tin. Philip lợi dụng cơ hội, giật lấy cuốn sách. Vị phụ trách phụng vụ bây giờ đã mất hết thẩm quyền và sau cùng ông miễn cưỡng quỳ xuống.

Che dấu sự nhẹ nhõm trong lòng, Philip nhìn quanh và nói: "Tôi là tu viện trưởng mới của anh em."

Ông vẫn để mọi người quỳ trong khi ông tiếp tục giờ kinh. Thời gian kéo dài lâu, vì ông để họ lập đi lập lại lời đáp ca cho đến khi họ có thể đáp đều hoàn hảo. Rồi ông để họ ra khỏi nhà nguyện trong yên lặng, đi qua mảnh đất khai hoang vào nhà cơm. Ông cho đem con heo quay vào lại nhà bếp, ra lệnh mang bánh mì và bia nhẹ ra, rồi đặt một tu sĩ đọc sách lớn tiếng trong khi các tu sĩ khác ăn. Sau khi ăn xong, ông để họ, vẫn trong yên lặng, đi về nhà ngủ.

Ông ra lệnh đem giường từ nhà dành riêng cho tu viện trưởng vào trong phòng ngủ chung: ông sẽ ngủ cùng phòng với các tu sĩ. Đó là cách đơn giản nhất và hiệu nghiệm nhất chống lại tội không trinh khiết.

Đêm đầu tiên ông không ngủ. Ông ngồi bên cây nến, yên lặng cầu nguyện cho đến nửa đêm, và đó là lúc ông đánh thức các tu sĩ dậy cho giờ kinh đêm. Ông cử hành giờ kinh nhanh chóng để cho họ hiểu rằng ông không phải là người hoàn toàn tàn nhẫn. Các tu sĩ khác lên giường ngủ lại, nhưng Philip không ngủ.

Ông ra ngoài vào lúc bình minh, trước khi các tu sĩ thức dậy, và nhìn xung quanh, nghĩ về ngày đang đến. Một cánh đồng vừa được khai hoang từ rừng, và ở ngay giữa là một gốc vĩ đại, chắc là gốc của một cây sồi lớn. Nó cho ông một ý tưởng.

Sau giờ kinh sáng và bữa điểm tâm, ông đưa tất cả các tu sĩ ra ngoài đồng với dây thừng và rìu, và dành cả buối sáng nhổ gốc cây lớn, một nửa kéo bằng dây thừng, một nửa khác chặt rễ bằng rìu, tất cả cùng nhau hò hét " Hê-êeeeee". Khi gốc cây đã bật ra khỏi mặt đất, Philip cho họ bia, bánh và một miếng thịt mà hôm qua ông đã từ chối không cho họ ăn trong bữa tối.

Đó không phải là kết thúc của các vấn đề, nhưng nó là bắt đầu của cách giải quyết. Từ khi bắt đầu ông đã từ chối hỏi xin nhà mẹ bất cứ sự gì, ngoài lúa mì để làm bánh và nến cho nhà nguyện. Sự nhận biết rằng họ sẽ không có thịt nào khác, ngoài những thịt mà họ đã để dành hoặc săn bắt được, làm cho các tu sĩ chăm chú hơn vào việc trồng nho, nuôi gia súc và bẫy chim; và trước đây họ đã trốn các giờ kinh bằng cách ra ngoài làm việc, bây giờ họ vui vì Philip cắt bớt giờ kinh trong nhà nguyện để họ có nhiều giờ hơn ở ngoài đồng.

Sau hai năm họ đã tự cung cấp, và hai năm sau nữa họ đã cung cấp cho tu viện chính ở Kingsbridge thịt gia xúc, thịt rừng, và pho mát làm bằng sữa dê, một sản phẩm đã trở thành món ngon nổi tiếng. Tu viện phát triển thịnh vượng, các giờ kinh nghiêm trang và trang trọng, các tu sĩ khỏe mạnh và hạnh phúc.

Philip hài lòng – nhưng tu viện chính ở Kingsbridge, mỗi ngày một tồi tệ hơn.

Chính ra nó phải là một trung tâm tôn giáo hàng đầu trong vương quốc, nhộn nhịp với các sinh hoạt, thư viện được các học giả ngoại quốc đến nghiên cứu, tu viện trưởng được các nam tước tìm đến xin ý kiến, di tích thánh thu hút khách hành hương từ khắp quốc gia, nhà khách nổi tiếng trong giới quý tộc và lòng bác ái của nó rộng mở đến các người nghèo. Nhưng nhà thờ đổ nát, một nửa tòa nhà tu viện để không, tu viện mắc nợ nần. Philip đến Kingsbridge ít nhất một năm một lần, và lần nào ông cũng tức giận khi nhìn thấy gia tài quý giá do các tín hữu dâng cúng và được gia tăng do các tu sĩ tận tâm đã bị tàn phá do sự bất cẩn, giống như của thừa kế của người con hoang đàng đã bị phung phí.

Một phần của vấn đề là tu viện nằm trong một ngôi làng nhỏ trên một con đường phụ ít người qua lại. Từ thời vua William thứ nhất - người được gọi là người chinh phục hay người con ngoài hôn thú, tùy theo quan niệm - hầu hết các nhà thờ chính tòa đã chuyển về thành phố lớn, nhưng Kingsbridge đã thoát được cơn lốc này. Tuy nhiên, trong cái nhìn của Philip, nó không phải là vấn đề không thể vượt qua được: một tu viện sầm uất với một nhà thờ chính tòa thì chính nó sẽ là một thành phố.

Vấn đề thực sự là tính thờ ơ của tu viện trưởng lớn tuổi James. Với bàn tay thiếu nghị lực ở bánh lái, con thuyền sẽ bị thổi đi trong cơn giông tố và chẳng biết đi về đâu.

Và, trong sự tiếc nuối cay đắng của Philip, tu viện Kingsbridge vẫn tiếp tục đi xuống bao lâu James còn sống.

Họ quấn đứa bé trong khăn sạch và đặt nó trong một giỏ đựng bánh như một cái nôi. Với chiếc bụng nhỏ đầy sữa dê, nó dường như thiêu ngủ. Philip trao cho Johnny Eightpence trách nhiệm lo cho đứa bé, vì mặc dù cậu lãng trí trong vài công việc, cậu có bàn tay dịu dàng với sinh vật bé nhỏ và mỏng dòn.

Philip tò mò muốn biết lý do nào đã đưa Francis đến tu viện. Ông thử vài lần trong bữa ăn trưa, nhưng Francis không đả động tới, và Philip phải đè nén sự tò mò của mình.

Sau bữa trưa đến giờ học. Ở đây họ không có khu nội cấm riêng biệt, nhưng các tu sĩ có thể ngồi trong mái hiên của nhà nguyện để đọc, hay đi bộ trong sân. Lâu lâu họ cũng được phép vào nhà bếp để sưởi ấm, theo thói quen. Philip và Francis đi dạo theo bờ sân vườn, bên cạnh nhau, như họ đã thường làm trong khu nội cấm của tu viện tại Wales; và Francis lên tiếng nói.

"Vua Henry luôn luôn coi giáo hội là một phần nằm dưới quyền cai trị của ông," ông bắt đầu. "Ông can thiệp vào việc đặt các giám mục, tăng thuế, và ngăn chặn thẩm quyền của giáo hoàng."

"Anh biết," Philip nói. "Còn gì nữa không?"

"Vua Henry đã chết."

Philip đứng dừng lại. Ông không ngờ chuyện đó.

Francis tiếp tục: "Nhà vua chết trong lâu đài săn bắn ở trong khu rừng tại Lyon, Normandy, sau một bữa ăn với cá mút đá mà ông thích, mặc dù chúng không hợp với ông ấy."

"Khi nào?"

"Hôm nay là ngày đầu năm, vì thế chính xác là một tháng trước."

Philip bị sốc. Henry là vua trước khi Philip sinh ra. Ông chưa bao giờ sống trong thời điểm băng hà của một vị vua, nhưng ông biết nó đồng nghĩa với khủng hoảng, và có thể có chiến tranh. "Chuyện gì sẽ xẩy ra?" ông lo lắng nói.

Họ lại tiếp tục đi dạo. Francis nói: "Vấn đề là kẻ thừa kế ngai vàng đã bị giết trên biển nhiều năm trước – có lẽ anh còn nhớ."

"Anh nhớ." Khi đó Philip mười hai tuổi. Đó là sự kiện đầu tiên có tầm quan trọng quốc gia đã ảnh hưởng đến ký ức tuổi thơ của ông, và nó đã làm ông nhận thức về thế giới bên ngoài tu viện. Con trai vua đã chết trong tai nạn tàu được gọi là ‘con tàu trắng’, bên ngoài bờ biển Cherbourg. Viện phụ Peter, người kể những điều này cho Philip, đã lo lắng rằng chiến tranh và tình trạng hỗn loạn sẽ theo sau cái chết của người kế vị; nhưng trong thực tế, vua Henry vẫn duy trì sự kiểm soát và đời sống vẫn tiếp diễn, không gây xáo trộn gì đối với Philip và Francis.

&quo