← Quay lại trang sách

Chương 12

Cả mùa đông năm đó Aliena bị bệnh.

Mỗi đêm cô khó ngủ, cuộn mình trong chiếc áo choàng trên sàn nhà, ở cuối chân giường Alfred, và ban ngày cô mệt mỏi chán chường. Cô thường cảm thấy buồn nôn, nên cô ăn rất ít, mặc dù vậy cô vẫn cảm thấy như tăng ký: cô chắc chắn ngực và hông to hơn, và vòng eo đầy đặn hơn.

Cô có nhiệm vụ lo việc nhà cửa cho Alfred, mặc dù thực tế Martha làm hầu hết mọi việc. Cả ba sống chung với nhau trong một gia đình âu sầu. Martha không ưa anh cô, và bây giờ Aliena ghét cậu ấy cay đắng, vì thế mà không ngạc nhiên gì khi cậu vắng nhà bao nhiêu có thể. Ban ngày cậu ở chỗ làm việc và ban đêm ở quán bia. Martha và Aliena mua thực phẩm và nấu ăn một cách chán nản, vào buổi tối họ may vá quần áo. Aliena mong mùa xuân đến và trời ấm áp đủ để cô có thể thăm viếng khu rừng bí mật vào chiều chủ nhật. Ở đó cô sẽ nằm trong bình an và mơ về Jack.

Trong lúc này, sự an ủi của cô là Richard. Cậu đã có một con ngựa đua đen nhanh, một thanh kiếm mới và một người cận thần với một con ngựa con, và cậu lại chiến đấu cho vua Stephen mặc dù quân của cậu đã giảm số lượng. Cuộc chiến kéo dài sang năm mới. Maud đã trốn khỏi lâu đài Oxford và vượt qua tay của Stephen, và anh cô, Robert thành Gloucester, đã chiếm lại Wareham, nên tình trạng cò cưa cũ vẫn tiếp tục: mỗi bên thắng một tí rồi lại mất. Nhưng Aliena chu toàn lời thề của cô và cô có thể hài lòng với nó.

Trong tuần đầu tiên của năm mới Martha bắt đầu có kinh nguyệt lần đầu. Aliena chuẩn bị cho cô một ly nước nóng với thảo dược và mật ong để giảm bớt sự căng thẳng và trả lời cô những thắc mắc về gánh nặng người phụ nữ phải mang, và đi tìm hộp vải băng mà cô đã dành cho thời kỳ kinh nguyệt của cô. Tuy nhiên, chiếc hộp không có trong nhà, và sau cùng cô nhớ lại cô đã không đem nó từ nhà cũ tới đây khi cô lấy chồng.

Nhưng nó đã cách đây ba tháng.

Điều đó có nghĩa là cô đã không có kinh nguyệt từ ba tháng nay.

Không có kể từ ngày cưới.

Không có kể từ lần cô làm tình với Jack.

Cô để Martha ngồi bên bếp lửa, nhâm nhi ly mật ong, hơ ấm bàn chân, và cô đi ngang thị trấn về lại nhà cũ. Richard không có đó nhưng cô có một chìa khóa. Cô dễ dàng tìm thấy hộp băng nhưng cô không quay trở về ngay. Thay vào đó cô ngồi bên bếp lạnh, cuốn mình trong áo choàng và chìm trong suy nghĩ.

Cô đã cưới Alfred vào lễ Thiên Thần Micae. Bây giờ đã qua Giáng Sinh. Nó đã qua ba mùa trăng. Cô đã phải có ba lần kinh nguyệt. Tuy nhiên hộp băng ở trên giá cao, bên cạnh hòn đá Richard dùng để mài dao. Bây giờ cô giữ nó trong lòng. Cô chà ngón tay trên mặt gỗ thô. Ngón tay cô đầy bụi. Chiếc hộp có đầy bụi bao phủ.

Điều tồi tệ là cô chưa bao giờ làm tình với Alfred.

Sau đêm đầu tiên khủng khiếp đó, cậu đã thử ba lần nữa: một lần vào đêm hôm sau, rồi một tuần sau và một tháng sau khi cậu say rượu trở về. Nhưng mỗi lần cậu đều hoàn toàn không có khả năng. Lúc đầu Aliena đã khuyến khích cậu, vì tinh thần trách nhiệm; nhưng sau mỗi lần thất bại cậu lại càng tức giận hơn, và cô trở thành khép kín hơn. An toàn nhất là tránh xa cậu, mặc quần áo không hấp dẫn, không thay quần áo trước mặt cậu và để cho cậu quên đi chuyện ấy. Bây giờ cô tự hỏi cô có nên thử lần nữa không. Nhưng thực sự cô biết nó sẽ không thay đổi gì. Nó không có hy vọng. Cô không biết chắc chắn tại sao – có lẽ vì lời nguyền của Ellen, có lẽ Alfred bất lực, hay có lẽ vì nhớ đến Jack – nhưng cô cảm thấy chắc chắn bây giờ Alfred sẽ chẳng làm tình với cô.

Vì thế cậu sẽ biết đứa trẻ không phải là con cậu.

Cô nhìn vào đống tro lạnh trong bếp lửa của Richard và tự hỏi tại sao cô luôn luôn gặp sự không may như thế này. Ở đây, trong một cuộc hôn nhân tồi tệ, cô đã cố gắng làm tốt nhất và không may mắn cô lại có thai với một người khác, sau chỉ một lần làm tình.

Nhưng than thân trách phận không mang lại được gì. Cô phải quyết định làm một cái gì đó.

Cô đặt tay lên bụng. Bây giờ cô biết tại sao cô lên ký, tại sao cô cảm thấy buồn ói, tại sao cô luôn luôn mệt mỏi. Trong đây là một con người nhỏ. Cô mỉm cười với mình. Có một đứa bé sẽ đẹp dường nào.

Cô lắc đầu. Không phải mọi chuyện đều sẽ tốt đẹp. Alfred sẽ điên như một con bò đực. Không biết cậu ấy sẽ làm gì – giết cô, đuổi cô ra khỏi nhà, giết đứa bé… Cô có một linh tính bất ngờ, kinh khủng rằng cậu sẽ làm hại thai nhi bằng cách đạp vào bụng cô. Cô lau trán: cô chẩy mồ hôi lạnh.

Tôi sẽ không nói với cậu ấy, cô nghĩ.

Cô có thể giữ bí mật việc mang thai này không? Có lẽ. Cô đã thường mặc quần áo đủ kiểu, rộng thùng thình. Có thể bụng cô cũng không to quá – một số phụ nữ khác cũng vậy. Alfred là người ít tinh ý nhất trong nam giới. Những bà khôn ngoan trong thị trấn chắc chắn sẽ đoán được, nhưng cô tin rằng họ sẽ giữ nó cho riêng họ, hay ít nhất không nói chuyện đó với đàn ông. Vâng, cô quyết định không cho cậu ấy biết cho đến khi đứa bé được sinh ra.

Sau đó làm gì? Tốt, ít nhất sinh vật nhỏ bé này sẽ được mở mắt chào đời an toàn. Alfred không thể giết nó bằng cách đạp vào Aliena. Nhưng cậu ấy vẫn biết nó không phải là con cậu. Chắc chắn cậu ấy sẽ ghét đứa bé: nó là điều sỉ nhục cho nam tính của cậu. Đời sống sẽ là một hỏa ngục.

Aliena không có thể nghĩ xa hơn. Cô đã quyết định một bước an toàn cho sáu tháng tới. Trong thời gian này cô sẽ cố gắng nghĩ xem cô phải làm gì sau khi đứa bé được sinh ra.

Tôi muốn biết nó là con trai hay con gái, cô nghĩ.

Cô đứng lên với hộp băng cho thời kỳ kinh nguyệt đầu tiên của Martha. Tôi thương hại em, Martha, cô mệt mỏi nghĩ; tất cả những điều này còn ở trước mặt em.

Philip trải qua mùa đông năm đó, nghiền ngẫm về những rắc rối. Ông kinh hoàng về những lời nguyền rủa vô đạo mà Ellen thốt ra ở sảnh đường nhà thờ trong giờ lễ. Trong trí ông bây giờ không còn nghi ngờ gì rằng bà là một phù thủy. Ông chỉ hối hận về sự ngu ngốc của ông vì đã tha thứ cho bà về sự xúc phạm của bà đến luật Thánh Biển Đức nhiều năm trước đây. Ông phải biết rằng một người phụ nữ có thể làm điều đó sẽ chẳng bao giờ thực sự ăn năn. Tuy nhiên, một điều may mắn là Ellen đã rời Kingsbridge và từ đó đến nay chẳng ai thấy bà đâu nữa. Philip hy vọng một cách tha thiết rằng bà sẽ chẳng bao giờ quay trở về.

Aliena rõ ràng không hạnh phúc trong hôn nhân với Alfred, tuy nhiên Philip không tin rằng lời nguyền là nguyên nhân của việc đó. Philip không biết nhiều về đời sống hôn nhân nhưng ông có thể đoán được rằng một người thông minh, hiểu biết, sống động như Aliena sẽ không thể sống hạnh phúc với một người suy nghĩ chậm chạp và hẹp hòi như Alfred, mặc dù họ là chồng, là vợ hay là gì khác.

Aliena nên lấy Jack, dĩ nhiên. Bây giờ ông cảm thấy có lỗi vì đã quá bám víu vào kế hoạch của ông cho Jack đến nỗi không nhận ra những gì Jack thực sự cần. Jack không hợp với đời sống tu viện và Philip đã sai lầm khi ép cậu vào. Bây giờ Kingsbridge đã mất đi sự thông minh và khả năng của cậu.

Dường như mọi thứ đã sai kể từ thảm họa ở hội chợ len. Tu viện nợ nần nhiều hơn bao giờ hết. Philip đã cho một nửa nhân công xây dựng nghỉ việc vì không có đủ tiền trả lương họ. Qua đó cư dân của thị trấn đã giảm đi, và kết quả là chợ chủ nhật nhỏ hơn và Philip mất đi thu nhập từ việc cho thuê cửa hàng. Kingsbridge ở trong một vòng xoắn đi xuống.

Trọng tâm của vấn đề là tinh thần của cư dân. Mặc dù họ đã xây dựng lại nhà cửa và bắt đầu lại công việc kinh doanh nhỏ bé, họ vẫn chưa có sự tin tưởng vào tương lai. Bất cứ những gì họ dự định, bất cứ những gì họ xây dựng, cũng có thể bị phá hủy trong một ngày bởi William Hamleigh, nếu cậu tấn công một lần nữa. Sự bất an ngấm ngầm này ở trong suy nghĩ của mọi người và làm tê liệt ý muốn kinh doanh của họ.

Sau cùng Philip nhận ra ông phải làm một cái gì đó để ngăn chặn sự thụt lùi này. Ông cần phải làm một cử chỉ gây ấn tượng sâu sắc để nói cho thế giới nói chung và dân thị trấn nói riêng rằng Kingsbridge sẵn sàng chống trả. Ông dùng nhiều giờ cầu nguyện và suy niệm, cố gắng tìm ra hành động nào ông nên làm.

Cái mà ông thực sự cần thiết là một phép lạ. Nếu xương Thánh Adolphus có thể chữa được một công chúa khỏi bệnh dịch, hay biến giếng nước lờ lợ thành nước ngọt, dân chúng sẽ tuôn đổ đến Kingsbridge hành hương. Nhưng Thánh Adolphus đã không làm phép lạ từ nhiều năm nay. Một đôi khi Philip tự hỏi có phải phương pháp điều hành tu viện một cách ổn định và thực tế của ông đã không làm Thánh hài lòng, bởi vì phép lạ thường xẩy ra ở những nơi có bầu khí tôn giáo nhiệt thành. Nhưng Philip đã được học sống thực tế trên mặt đất. Linh mục Peter, viện phụ của tu viện đầu tiên ông ở, đã thường nói: “Hãy cầu xin cho có phép lạ, nhưng đừng quên trồng bắp.”

Biểu tượng của đời sống và sự mạnh mẽ của Kingsbridge là nhà thờ chính tòa. Nếu nhà thờ được hoàn thành do một phép lạ nhỉ? Một lần ông đã cầu nguyện cả đêm cho một phép lạ như thế, nhưng buổi sáng hôm sau gian cung thánh vẫn chưa có mái, vẫn còn chịu đựng nắng mưa, và bức tường cao, nơi gặp tường gian ngang, vẫn còn dang dở.

Philip vẫn chưa thuê người xây dựng chính mới. Ông bị sốc về số tiền lương họ đòi hỏi, và ông nhận ra tiền công cho Tom thật rẻ. Một cách nào đó Alfred đã điều hành lực lượng lao động mà không có nhiều khó khăn. Alfred trở nên buồn rầu từ sau ngày cưới, giống như một người đã đánh bại nhiều đối thủ để trở thành vua và rồi nhận ra rằng vương quyền là một gánh nặng mệt mỏi. Tuy nhiên, cậu có thẩm quyền và có thể quyết định, và những người khác tôn trọng cậu.

Nhưng Tom đã để lại một lỗ hổng không thể lấp đầy được. Philip thiếu ông không những vì ông là một thợ xây dựng chính mà ông còn là một người gần gũi. Tom đã quan tâm đến lý do tại sao các nhà thờ lại xây theo cách này hơn là cách khác, và Philip đã chia sẻ những suy đoán với ông những gì làm cho một số tòa nhà tồn tại trong khi một số khác xụp đổ. Tom không phải là người đặc biệt sùng đạo, nhưng đôi khi ông hỏi Philip những câu hỏi về thần học và nó chứng tỏ rằng ông chuyên tâm nhiều đến niềm tin cũng như với công việc xây dựng. Cách suy nghĩ của Tom nhiều hay ít cũng giống Philip. Philip coi ông như một đối tượng nói chuyện ngang hàng. Có rất ít những người như thế trong đời sống của Philip. Jack là một trong số đó, mặc dù cậu còn trẻ; Aliena là một người khác, nhưng cô đã biến mất trong cuộc hôn nhân buồn chán của cô ấy. Cuthbert bây giờ đã già, và Milius Bursa luôn luôn phải xa tu viện, tham quan các trang trại cừu, đếm cừu và bao lông cừu. Một tu viện sống động và kinh tế phát tiển trong một thành phố nhà thờ chính tòa sung túc sẽ thu hút các học giả, cũng giống như một đội quân chinh phục thu hút binh lính. Philip chờ mong ngày đó tới. Nhưng nó sẽ chẳng bao giờ tới nếu Philip không tìm ra cách làm tăng sinh lực cho Kingsbridge.

“Năm nay mùa đông dịu,” Alfred nói vào một buổi sáng sau lễ Giáng Sinh. “Chúng ta có thể bắt đầu sớm hơn bình thường.”

Điều đó làm Philip suy nghĩ. Mái trần vòm sẽ được xây vào mùa hè. Khi nó hoàn thành, gian cung thánh có thể sử dụng được, và Kingsbridge sẽ không còn là thị trấn không nhà thờ chính tòa. Gian cung thánh là phần quan trọng nhất của nhà thờ: bàn thờ cao và di tích thánh được giữ ở phía cuối hướng đông, được gọi là chính điện, và hầu hết các giờ kinh được cử hành ở gian cung thánh, nơi các tu sĩ ngồi. Chỉ vào các ngày chủ nhật và lễ trọng, cả nhà thờ mới được dùng đến. Một khi gian cung thánh được thánh hiến, cả khu xây dựng sẽ thành nhà thờ, mặc dù nó chưa hoàn hảo.

Đáng tiếc là họ phải chờ thêm một năm nữa cho đến ngày đó. Alfred đã hứa hoàn thành mái vòm vào cuối mùa xây dựng năm nay, và mùa xây dựng thường kết thúc vào tháng mười một, tùy theo thời tiết. Nhưng khi Alfred nói cậu có thể bắt đầu sớm hơn, Philip tự hỏi không biết cậu có thể hoàn thành nó sớm hơn không. Mọi người sẽ ngạc nhiên nếu nhà thờ có thể mở cửa lại vào mùa hè năm nay. Nó là một cử chỉ mà ông đang tìm kiếm: một cái gì đó làm kinh ngạc cả miền, và chuyển đi một thông điệp rằng Kingsbridge không chịu khuất phục.

“Ông có thể hoàn thành vào dịp lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống không?” Philip hào hứng hỏi.

Alfred hít hơi thở qua kẽ răng, nét mặt cậu tỏ vẻ nghi ngờ. “Mái vòm là phần khó nhất và đòi hỏi tay nghề cao nhất,” cậu nói. “Nó không được hấp tấp và chúng ta không để người học nghề làm được.”

Bố của cậu sẽ trả lời được hay không, Philip cáu kỉnh nghĩ. Ông nói: “Giả sử tôi có thể cung cấp thêm cho cậu nhân công, giả sử các tu sĩ hỗ trợ thêm. Điều đó có giúp được gì nhiều không?

“Một ít. Điều chúng ta cần thêm là thợ hồ, thực như vậy.”

“Tôi có thể cung ứng cho ông thêm một hoặc hai,” Philip vội vàng nói. Một mùa đông ôn hòa cũng có nghĩa là lông cừu có thể xén sớm hơn, nên ông hy vọng có thể bán len sớm hơn bình thường.

“Tôi không biết.” Alfred vẫn còn bi quan.

“Giả sử tôi treo phần thưởng cho các thợ xây thì sao?” Philip nói. “Thêm một tuần lương nếu mái vòm hoàn thành vào dịp lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống.”

“Tôi chưa bao giờ nghe về chuyện ấy,” Alfred nói. Cậu trông như thể đã được đề nghị một điều không thích hợp.

“Tuyệt, mọi chuyện đều bắt đầu bằng lần đầu tiên,” Philip gắt gỏng nói. Sự thận trọng của Alfred làm ông bực mình. “Ông nghĩ sao?”

“Tôi không thể nói được hay không cho việc này,” Alfred cứng đầu nói. “Tôi sẽ nói chuyện với các nhân công của tôi.”

“Hôm nay?” Philip sốt ruột nói.

“Hôm nay.”

Philip phải hài lòng về chuyện đó.

William Hamleigh và các hiệp sĩ của ông đến dinh thự giám mục, đi sau một xe bò chở đầy bao len. Mùa cắt lông cừu đã bắt đầu. Giống như William, Waleran đã mua len từ các trang trại với giá của năm trước và chờ đợi sẽ bán nó với giá cao hơn. Không ai trong họ gặp rắc rối khi ép những người thuê đất bán len cho họ: một vài nông dân đã chống lại, và họ bị đuổi và trang trại của họ bị đốt cháy, nên sau đó không còn cuộc nổi loạn nào.

Khi William đi ngang qua cổng, ông ngước nhìn lên đồi. Bức tường thành còi cọc của lâu đài giám mục đã ngừng xây từ bẩy năm qua, nằm trên ngọn đồi như một sự nhắc nhở thường xuyên về việc Waleran đã bị Tu viện trưởng Philip qua mặt. Ngay sau khi Waleran thu lợi được từ việc kinh doanh len, có lẽ ông sẽ tiếp tục xây dựng. Trong thời vua Henry xưa, một giám mục không cần sự phòng thủ, mà chỉ cần một hàng rào gỗ đàng sau một con mương xung quanh dinh thự. Bây giờ, sau năm năm nội chiến, ngay cả những người không phải là giám mục hay bá tước cũng xây cho mình lâu đài hoành tráng.

Mọi chuyện xẩy ra thuận lợi cho Waleran, William chua chát nghĩ khi cậu xuống ngựa. Waleran luôn luôn trung thành với Giám mục Henry thành Winchester và vì thế ông trở thành một trong những người thân cận nhất của Henry. Qua năm tháng Waleran đã giầu lên nhờ nguồn tài sản và đặc quyền ổn định, và ông đã hai lần thăm viếng Roma.

William đã không có được may mắn đó, vì thế cậu chua chát. Mặc dù đã nhiều lần thay đổi phía đồng minh theo Waleran, và mặc dù đã cung ứng một đoàn quân hùng mạnh cho cả hai phía trong cuộc nội chiến, cậu vẫn chưa được công nhận là bá tước của Shiring. Trong cuộc tạm ngừng chiến, cậu đã suy nghĩ về chuyện này và trở nên tức giận đến nỗi cậu quyết định gặp Waleran.

Cậu lên cầu thang vào sảnh đường, cùng đi có Walter và các hiệp sĩ theo sau. Người quản lý gác cổng đứng bên trong cửa được trang bị vũ khí, một dấu hiệu khác của thời đại. Giám mục Waleran ngồi trên một ghế lớn giữa phòng như thường lệ, với cánh tay và bàn chân xương xẩu ở mọi góc như thể nó không được xếp ngay ngắn. Baldwin, bây giờ là tổng đại diện, đứng bên cạnh ông và chờ mệnh lệnh. Waleran đang nhìn chăm chú vào lò sưởi, chìm trong suy tư, nhưng ông nhìn lên khi William đến gần.

William cảm thấy sự khó chịu quen thuộc khi ông chào Waleran và ngồi xuống. Bàn tay gầy mềm mại, mái tóc đen mỏng, làn da trắng nhạt và đôi mắt nham hiểm nhợt nhạt của ông làm William nổi da gà. Waleran có mọi thứ mà William ghét: thủ đoạn, thể chất yếu, kiêu ngạo và khôn ngoan.

William có thể nói rằng Waleran cũng cảm thấy cậu giống như thế. Waleran đã chẳng che dấu được sự chán ghét khi William bước vào. Ông ngồi thẳng và khoanh tay, môi cong một chút và cau mày, tất cả như thể ông đang khó chịu vì không tiêu được.

Một lúc lâu họ nói về chiến tranh. Đó là một cuộc nói chuyện gượng gạo và nặng nề, và William thở phào khi nó bị đứt quãng bởi một sứ giả mang đến một lá thư trong một cuộn giấy da và niêm ấn bằng sáp. Waleran sai người sứ giả xuống bếp kiếm gì đó ăn. Ông không mở thư.

William lợi dụng cơ hội để thay đổi câu chuyện. “Tôi đến đây không phải để trao đổi tin tức về cuộc chiến. Tôi đến đây để nói rằng tôi đã hết kiên nhẫn.”

Waleran nhíu mày, không nói gì. Im lặng là câu trả lời của ông cho những chủ đề khó chịu.

William tiếp tục: “Kể từ khi bố tôi qua đời đến nay đã được ba năm, nhưng Vua Stephen vẫn chưa công nhận tôi là bá tước của Shiring. Đó là một thái quá.”

“Tôi hoàn toàn đồng ý với ông,” Waleran nói chậm rãi. Ông đùa giỡn với lá thư, kiểm tra con dấu và nghịch với dải băng.

“Vậy thì tốt,” William nói, “bởi vì ông cũng không liên quan về nó.”

“William yêu quý của tôi, tôi không thể phong ông làm bá tước được.”

William đã biết Waleran sẽ có thái độ này, và cậu đã quyết định không chấp nhận nó. “Anh trai của nhà vua sẽ nghe ông.”

“Nhưng tôi có thể nói gì với ông ấy? Tôi sẽ nói rằng William Hamleigh đã phục vụ nhà vua tốt sao? Nếu điều đó là đúng, nhà vua đã biết rõ, và nếu nó không đúng, nhà vua cũng biết nữa.”

William không thể đối đáp lý lẽ với Waleran nên cậu lơ đi lập luận đó. “Ông còn nợ tôi điều đó, Waleran Bigod.”

Waleran hơi nổi giận. Ông cầm lá thư chỉ vào William. “Tôi không nợ ông gì cả. Ông luôn luôn phục vụ cho mục đích riêng của ông, ngay cả khi ông làm những gì tôi muốn. Không có nợ nần gì về ân nghĩa giữa chúng ta.”

“Tôi đã nói với ông, tôi không thể chờ thêm được.”

“Ông muốn làm gì?” Waleran nói với sự khinh miệt trong giọng nói của ông.

“Tốt, trước hết chính tôi sẽ đi gặp Giám mục Henry.”

“Rồi sau đó?”

“Tôi sẽ nói với ông ấy rằng ông đã không lắng nghe yêu cầu của tôi và hệ quả là tôi sẽ đổi phía đồng minh sang nữ hoàng Maud.” William hài lòng vì nhìn thấy nét mặt Waleran thay đổi: ông xanh xao hơn và có một chút ngạc nhiên.

“Lại đổi một lần nữa?” Waleran nói nghi ngờ.

“Chỉ hơn ông một lần,” William lì lợm.

Sự thờ ơ kênh kiệu của Waleran bị lung lay, nhưng không nhiều. Waleran đã được hưởng lợi nhiều vì ông có thể đưa William và các hiệp sĩ của cậu ấy theo phía nào mà Giám mục Henry ưa chuộng hơn vào lúc đó: nếu William bất ngờ trở thành độc lập, nó sẽ là một đòn giáng mạnh vào ông – nhưng nó không phải là đòn chí tử. William nghiên cứu khuôn mặt Waleran khi cậu nghiền ngẫm mối đe dọa này. William có thể đọc được suy nghĩ của ông: một đàng ông ấy muốn giữ William trung thành, mặt khác ông tự hỏi cậu ấy có giá trị bao nhiêu.

Để nới rộng thời gian, Waleran tháo con dấu của lá thư ra và mở nó. Khi ông đọc, một sự tức giận hiện trên bờ má trắng bạch của ông. “Ông chết tiệt này,” ông rít lên.

“Cái gì vậy?” William hỏi.

Waleran đưa lá thư ra.

William cầm lấy và nhìn chằm chằm vào hàng chữ trên lá thư: “Kính gửi… Đức cha… thánh thiện… nhân từ…” Waleran giật nó lại, không còn kiên nhẫn với việc đọc chậm chạp của William. “Lá thư của Tu viện trưởng Philip,” ông nói. “Ông ấy thông báo cho tôi là gian cung thánh của nhà thờ chính tòa mới sẽ hoàn thành vào lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, và ông ấy còn xin tôi cử hành nghi thức trong ngày đó.”

William ngạc nhiên. “Làm thế nào ông ấy có thể làm được chuyện đó? Tôi nghĩ ông ấy đã sa thải nửa số công nhân xây dựng.”

Waleran lắc đầu. “Ngay cả bất cứ chuyện gì xẩy ra, ông ấy luôn luôn có thể vượt lên được.” Ông trầm ngâm nhìn William. “Ông ấy ghét ông lắm, dĩ nhiên. Ông ấy nghĩ ông là quỷ hiện hình.”

William tự hỏi không biết Waleran đang có ý định gì. “Vậy thì làm gì?” cậu nói.

“Nó sẽ là một đòn đánh vào Philip nếu ông được công nhận là bá tước vào ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống.”

“Ông đã không làm điều đó cho tôi, nhưng ông làm điều đó để trả thù Philip,” William nói một cách hờn dỗi, nhưng trong thực tế cậu đang cảm thấy hy vọng.

“Tôi không thể làm gì cho ông,” Waleran nói. “Nhưng tôi sẽ nói với Giám mục Henry.” Ông nhìn William một cách chờ đợi.

William ngần ngại. Sau cùng, bất đắc dĩ, cậu lẩm bẩm: “Cảm ơn ông.”

Mùa xuân năm đó lạnh và ảm đạm, và trời mưa vào buổi sáng ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Aliena thức giấc trong đêm với một cơn đau lưng, và nó vẫn làm phiền cô với những cơn đau đến rồi đi. Cô ngồi trong gian nhà bếp lạnh lẽo, bện tóc cho Martha trước khi đi nhà thờ, trong khi Alfred ăn một bữa điểm tâm lớn với bánh mì trắng, pho mát mềm và bia mạnh. Một cơn đau đâm mạnh trên lưng làm cô ngưng lại. Cô rùng mình đứng lên. Martha nhận ra và nói: “Chuyện gì thế?”

“Đau lưng,” Aliena nói ngắn gọn. Cô không muốn tranh luận về nó, bởi vì nguyên nhân chắc chắn là do ngủ trên nền nhà trong phòng sau có gió lùa, và không ai biết về điều đó, ngay cả Martha.

Martha đứng dậy và lấy một hòn đá nóng từ trong lò sưởi. Aliena ngồi xuống. Martha quấn hòn đá trong một miếng da cũ, và chườm nó trên lưng Aliena. Cô cảm thấy thoải mái ngay. Martha bắt đầu kết tóc cho Aliena. Mái tóc đen rậm rạp, xoăn quấn đã mọc trở lại sau khi bị cháy xém. Aliena cảm thấy được xoa dịu.

Cô và Martha đã trở nên hoàn toàn thân thiện kể từ khi Ellen đi khỏi. Martha thật đáng thương, cô đã mất mẹ ruột và bây giờ lại mất thêm mẹ kế. Aliena cảm thấy cô không xứng đáng là người mẹ thay thế. Ngoài ra cô chỉ hơn Martha mười tuổi. Cô chỉ đóng vai người chị, thật vậy. Thật ngạc nhiên, người mà Martha nhớ nhất lại là anh ghẻ của cô, Jack.

Nhưng mọi người đều nhớ cậu.

Aliena tự hỏi giờ này cậu ở đâu. Có thể cậu ở thật gần, làm việc cho một nhà thờ chính tòa ở Gloucester hay Salisbury. Nhiều khả năng cậu đã đến Normandy. Nhưng có thể cậu ở vùng xa hơn: Paris, Roma, Jerusalem hay Ai Cập. Nhớ lại những câu truyện mà người hành hương đã kể về những nơi xa xôi như vậy, cô tưởng tượng Jack ở trong sa mạc cát trắng, khắc đá cho một pháo đài của dân sa mạc Xa Ra Xen dưới ánh nắng chói chang. Bây giờ cậu nghĩ gì về cô?

Dòng tư tưởng của cô bị gián đoạn bởi tiếng động của tiếng vó ngựa bên ngoài, và một lúc sau em cô, Richard, bước vào, dắt theo con ngựa. Cậu và con ngựa ướt sũng và đầy bùn. Aliena lấy một ít nước nóng từ trong đống lửa cho cậu rửa mặt và chân tay, và Martha dắt ngựa vào sân sau. Aliena đặt bánh và thịt bò lạnh trên bàn nhà bếp và rót cho cậu ly bia.

Alfred nói: “Có tin tức gì mới về chiến tranh không?”

Richard lau khô mặt bằng một tấm dẻ và ngồi xuống ăn sáng. “Chúng ta bị bại trận ở Wilton,” cậu nói.

“Stephen có bị bắt không?”

“Không, ông đã trốn thoát, giống như Maud đã trốn khỏi Oxford. Bây giờ Stephen ở Winchester và Maud ở Bristol, và cả hai băng bó vết thương và củng cố lại vùng đất họ đang kiểm soát.”

Tin tức dường như không có gì mới, Aliena nghĩ. Một hay hai bên đã có vài chiến thắng nhỏ hay thất bại vài trận nhỏ, nhưng chẳng có triển vọng gì về sự chấm dứt chiến tranh.

Richard nhìn vào Aliena và nói: “Chị mập ra.”

Cô gật đầu và không nói gì. Cô đã có thai được tám tháng, nhưng không ai biết. May mắn là trời còn lạnh nên cô vẫn có thể mặc quần áo mùa đông rộng thùng thình, che dấu hình dáng của cô. Trong vài tuần nữa đứa bé sẽ được sinh ra, và sự thật sẽ được biểu lộ. Cô vẫn chưa biết cô sẽ làm gì.

Chuông đổ, triệu tập dân cư thị trấn đến dự lễ. Alfred đi giày và nhìn vào Aliena chờ đợi.

“Em không nghĩ em có thể đi được,” cô nói. “Em cảm thấy mệt.”

Cậu nhún vai thờ ơ và quay sang em vợ. “Cậu phải đi, Richard. Mọi người sẽ có mặt ở đó – hôm nay là thánh lễ đầu tiên trong nhà thờ mới.”

Richard ngạc nhiên. “Anh đã xây xong trần rồi à? Tôi nghĩ nó cần hết năm nay.”

“Chúng tôi đã làm gấp. Tu viện trưởng Philip thưởng cho các công nhân thêm một tuần lương nếu họ có thể hoàn thành vào hôm nay. Thật ngạc nhiên, họ đã làm việc nhanh như thế nào. Mặc dù thế, chúng tôi vừa hoàn thành nó – chúng tôi vừa lấy giàn khung xuống sáng nay.”

“Tôi phải xem nó,” Richard nói. Cậu nhồi nốt miếng bánh và thịt cuối cùng vào miệng và đứng lên.

Martha nói với Aliena: „Chị muốn em ở lại với chị không?“

„Không, cảm ơn. Chị khỏe rồi. Em đi đi. Chị muốn nằm nghỉ.“

Họ mặc áo choàng và đi ra. Aliena đi vào phòng trong, mang theo hòn đá nóng bọc trong da. Cô nằm trên giường của Alfred với hòn đá dưới lưng. Từ ngày lấy Alfred cô đã trở nên lờ phờ. Trước đó cô đã lo việc nhà và là người buôn len bận rộn nhất vùng; bây giờ cô không phải làm việc gì khác, nhưng ngay việc nhà cũng đã làm cô mệt mỏi.

Cô nằm đó cảm thấy tiếc cho mình, ước mong có thể đi vào giấc ngủ. Bất ngờ cô cảm thấy một dòng nước ấm nhỏ trên đùi phía trong của cô. Cô kinh hoàng. Nó giống như là cô đi tiểu, nhưng không phải, và một lúc sau dòng nước nhỏ trở thành trận lụt. Cô ngồi bật dậy. Cô biết chuyện gì xẩy ra. Túi ối của cô đã vỡ. Đứa bé đang ra.

Cô sợ hãi. Cô cần sự giúp đỡ. Cô gọi người hàng xóm: „Mildred! Mildred, hãy đến đây!“ Rồi cô chợt nhớ rằng không ai có nhà – tất cả đã tới nhà thờ.

Dòng nước chẩy chậm lại, nhưng giường của Alfred đã ướt. Cậu ấy sẽ nổi giận, cô nghĩ một cách sợ hãi; và rồi cô nhớ rằng đàng nào cậu cũng giận, bởi vì cậu biết đứa bé không phải là con cậu, và cô nghĩ: Trời ơi! Tôi phải làm gì đây?

Cơn đau lưng lại trở lại, và cô nhận ra đó là cái được gọi là đau đẻ. Cô quên Alfred. Cô sắp sinh con. Cô quá sợ hãi khi phải sinh con một mình. Cô cần người nào đó giúp cô. Cô quyết định đi đến nhà thờ.

Cô vung chân ra khỏi giường. Một cơn co thắt khác lại đến, cô dừng lại, nhăn mặt vì đau cho đến khi cơn co thắt qua đi. Rồi cô ra khỏi giường và rời nhà.

Tâm trí cô rối tung lên khi cô lảo đảo trên con đường lầy lội. Khi cô đến cổng tu viện cơn đau đến một lần nữa, và cô dựa vào tường, cắn răn cho đến khi nó qua đi. Rồi cô đi vào sân tu viện.

Hầu hết dân chúng trong thị trấn tập họp trong đường hầm cao của gian cung thánh và trong hai đường hầm thấp ở hai gian phụ. Bàn thờ nằm ở phía đầu xa. Nhà thờ lớn có một cái nhìn lạ: trần nhà tròn bằng đá sẽ có một mái bằng gỗ hình tam giác trên nó, nhưng bây giờ trông nó như không được bảo vệ, giống như một người đầu hói không đội mũ. Cộng đoàn đứng quay lưng lại phía Aliena.

Khi cô lảo đảo về phía nhà thờ, Giám mục Waleran Bigod đứng lên nói. Như trong cơn ác mộng, cô thấy William Hamleigh đứng bên cạnh ông. Lời của Giám mục Waleran đâm qua nỗi đau của cô. „… với niềm vui lớn lao và niềm tự hào tôi thông báo cho quý vị rằng Vua Stephen đã xác nhận ngài William là bá tước của Shiring.“

Mặc dù đau đớn và sợ hãi Aliena kinh hoàng nghe lời đó. Trong sáu năm qua, kể từ ngày khủng khiếp khi họ gặp bố họ trong nhà tù ở Winchester, cô đã dành cả cuộc đời để chiếm lại tài sản của gia đình. Cô và Richard đã vượt qua cướp giật và hiếp dâm, hỏa hoạn và nội chiến. Nhiều lần phần thưởng dường như đã ở trong tầm tay. Nhưng bây giờ họ đã mất nó.

Cộng đồng thầm thì giận dữ. Họ đã đau khổ dưới bàn tay của William và họ vẫn sống trong sợ hãi về cậu ấy. Họ không vui khi thấy cậu ấy được vinh danh bởi nhà vua, người chính ra phải bảo vệ họ. Aliena nhìn xung quanh tìm Richard, xem cậu nhận cú đánh này ra sao; nhưng cô không thể định được chỗ cậu đứng.

Tu viện trưởng Philip đứng dậy, khuôn mặt như bị sét đánh, và bắt đầu bài thánh ca. Cộng đồng gượng gạo hát theo. Aliena dựa vào một cây cột, khi một cơn đau khác lại đến. Cô đứng ở phía sau đám đông và không ai chú ý đến cô. Một cách nào đó tin xấu này đã làm cô dịu lại. Tôi chỉ đang chuẩn bị có một đứa con, cô nghĩ; chuyện sinh con xảy ra mỗi ngày. Tôi phải tìm ra Martha hay Richard, và họ sẽ lo lắng mọi chuyện.

Khi cơn đau đã qua cô chen lấn qua đám đông, tìm kiếm Martha. Có một nhóm phụ nữ ở trong đường hầm của gian phụ phía bắc và cô đi vào đó. Dân chúng tò mò nhìn cô, nhưng sự quan tâm của họ chuyển hướng vào một chuyện khác: một tiếng động lạ nghe như sấm vang vọng từ xa. Lúc đầu tiếng ầm ầm không trấn át được tiếng hát, nhưng nó lớn hơn, lớn hơn và tiếng hát chết nghẹn.

Aliena đến được chỗ của phụ nữ. Họ đang lo lắng nhìn quanh xem tiếng ồn từ đâu phát ra. Aliena nắm vai một người trong số họ và nói: „Bà có thấy Martha, em chồng tôi ở đâu không?“

Người đàn bà nhìn cô và Aliena nhận ra bà là vợ của người thuộc da, Hilda. „Tôi nghĩ Martha ở phía bên kia,“ Hilda nói; rồi tiếng ầm ầm trở nên chói tai và bà nhìn đi chỗ khác.

Aliena dõi mắt theo cái nhìn của bà. Ở giữa nhà thờ mọi người nhìn lên về hướng đầu bức tường. Dân chúng ở hai gian bên nghểnh cổ nhìn qua mái vòm của lối đi. Một người nào đó hét lên. Aliena nhìn thấy vết nứt trong tường phía xa, chạy dọc theo giữa hai cửa sổ phía trên. Khi cô nhìn lên, nhiều miếng tường rơi từ trên cao xuống đám đông ở giữa nhà thờ. Tiếng la hét và kêu cứu vang lên, và mọi người tìm cách chạy trốn.

Mặt đất dưới chân cô lay động. Ngay cả khi cô cố tìm cách ra khỏi nhà thờ cô đã nhận thức được rằng bức tường trên cao đã giãn ra trên đỉnh và mái vòm nứt ra. Bà vợ người thợ da, Hilda, ngã trước mặt cô, và Aliena vấp vào bà và ngã xuống trên bà. Một trận mưa đá nhỏ bắn tung tóe trên cô khi cô thử đứng lên. Rồi mái nhà thấp của lối đi bị nứt và đổ xuống, một cái gì đó đập lên đầu cô và mọi thứ thành đen tối trước mắt cô.

Philip bắt đầu thánh lễ với niềm hãnh diện và tạ ơn. Trong cuộc chạy đua với thời gian, mái vòm đã hoàn thành như dự định. Trong thực tế, chỉ có ba trong bốn gian của khu cung thánh được xây mái, còn gian thứ tư phải chờ đến khi hai gian ngang hoàn thành và bức tường của khu cung thánh được nối với tường của gian ngang. Tuy nhiên, ba gian đã đủ. Tất cả dụng cụ xây dựng đã được cất đi: công cụ, cọc bằng đá và gỗ, giàn giáo và hàng rào, đống gạch đá và rác. Gian cung thánh được dọn sạch sẽ. Các tu sĩ đã sơn trắng các bức tường và theo truyền thống vẽ những hàng đỏ trên hồ, vì thế mà đường hồ trông gọn gàng hơn nó thực sự là. Bàn thờ và ngai giám mục đã được đem từ nhà nguyện dưới hầm lên. Tuy nhiên, xương thánh trong mộ hòm bằng đá vẫn còn ở đó: việc di chuyển xương thánh lên là một nghi thức long trọng, cao điểm của thánh lễ hôm nay. Khi thánh lễ bắt đầu, với giám mục trên ngai, với các tu sĩ trong áo dòng mới đứng theo hàng sau bàn thờ và dân chúng trong gian giữa và hai gian bên cạnh nhà thờ, Philip tạ ơn Thiên Chúa đã cho ông hoàn thành giai đoạn đầu tiên quan trọng trong việc xây dựng lại nhà thờ chính tòa.

Khi Waleran thông báo về việc William được xác nhận là bá tước, Philip đã bực mình. Giám mục đã chọn thời điểm này để phá hủy sự chiến thắng của Philip và nhắc nhở cư dân thị trấn rằng họ vẫn còn ở trong lòng khoan dung của lãnh chúa man rợ của họ. Philip đang trù tính về một sự đáp trả thích hợp khi tiếng ầm ầm vang lên.

Nó giống như một cơn ác mộng mà đôi khi ông có: Ông đi trên một giàn giáo rất cao và cảm thấy hoàn toàn chắc chắn cho đến một lúc ông nhận ra một nốt dây cột các xà ngang bị lỏng. Nó không nghiêm trọng lắm, nhưng khi ông cúi xuống cột nó lại, tấm ván dưới chân ông nghiêng đi, không nhiều lắm nhưng đủ để ông vấp ngã, và rồi, trong nháy mắt, ông rơi xuống xuyên qua khoảng trống của gian cung thánh nhà thờ, rơi nhanh kinh khủng, và ông biết ông sắp chết.

Lúc đầu tiếng ầm ầm là một điều khó hiểu. Có lúc ông nghĩ đó là sấm, rồi tiếng sấm mỗi lúc mỗi lớn hơn, và dân chúng ngừng hát. Philip vẫn nghĩ nó là một hiện tượng lạ có thể tìm được nguyên nhân ngay mà hậu quả xấu nhất của nó là làm gián đoạn thánh lễ. Rồi ông nhìn lên.

Trong gian thứ ba mà giàn giáo mới được tháo xuống sáng hôm nay, vết nứt đã xuất hiện trong tường, trên phía khu có cửa sổ phía cao. Chúng xuất hiện bất ngờ và nhanh chóng từ cửa sổ này đến cửa sổ khác giống như con rắn. Phản ứng đầu tiên của Philip là thất vọng: ông đã vui mừng vì gian cung thánh đã hoàn thành, nhưng bây giờ ông phải sửa lại, và những ai đã bị ấn tượng bởi công việc của thợ xây sẽ nói: „Càng vội vàng, càng chậm.“ Sau đó đầu bức tường dường như nghiêng ra ngoài, và ông kinh hoàng nhận ra rằng nó không chỉ đơn thuần làm gián đoạn thánh lễ mà nó còn là một thảm họa.

Vết nứt xuất hiện trên mái vòm. Một hòn đá lớn tách ra khỏi tường và rơi từ từ trong không trung. Dân chúng la hét và tìm cách chạy trốn. Trước khi Philip có thể nhìn xem có ai bị thương nặng không, nhiều hòn đá khắc bắt đầu rơi. Đám đông hoảng loạn, xô đẩy nhau và đạp lên nhau khi họ cố tránh các viên đá rơi. Philip tự nhiên nghĩ có thể nó là một cuộc tấn công của William Hamleigh; rồi ông nhìn thấy William ở trước đám đông, đang hoảng loạn chen lấn đám đông để trốn thoát, và ông nhận ra rằng William không tự làm điều đó cho cậu.

Hầu hết mọi người đang di chuyển để chạy ra khỏi nhà thờ theo đầu mở ở phía tây. Nhưng chính phần phía tây của nhà thờ, gian thứ ba, lại sụp đổ. Trong gian thứ hai, nơi Philip đứng, dường như mái vòm đứng vững; và đàng sau ông, trong gian thứ nhất, nơi các tu sĩ đứng, trông có vẻ vững vàng, vì nó được hỗ trợ bởi mặt tiền phía đông.

Ông nhìn thấy bé Jonathan với Johnny Eightpence, cả hai túm lại ở phía xa của gian phụ phía bắc. Ở đó an toàn hơn mọi chỗ khác, Philip quyết định; rồi ông nhận ra rằng ông phải cố đưa phần còn lại của đàn chiên của ông vào nơi an toàn. „Đi theo hướng này!“ ông hét lên. „Mọi người! Đi theo hướng này!“ ông hét lớn mặc dù họ có nghe thấy hay không. Không ai để ý đến.

Trong gian thứ ba, đỉnh của bức tường sụp đổ, rớt ra phía ngoài, và toàn bộ mái vòm sập xuống, đá lớn đá nhỏ bay trong không trung giống như cơn mưa đá chết người và rớt xuống trên đám đông. Philip lao về phía trước và nắm tay một người đàn ông. „Quay lại!“ ông hét lớn và đẩy ông ấy về hướng cửa đông. Người đàn ông hoảng sợ nhìn thấy các tu sĩ túm lại phía bức tường xa và vội vàng đến đó. Philip cũng làm như vậy với hai phụ nữ. Những người khác biết được ý ông, họ đi theo hai người đàn bà mà không cần ra lệnh. Những người khác làm theo, và chẳng bao lâu những người đứng trên đầu cùng đổ dồn về phía bức tường phía đông. Nhìn lên một lúc, Philip hoảng sợ vì gian thứ hai sẽ tiếp tục đổ: cùng một vết nứt ngoằn ngoèo xuyên qua khu có cửa sổ và làm vỡ mái vòm ngay trên đầu ông. Ông tiếp tục hướng dẫn mọi người tới chỗ an toàn ở cuối phía đông, biết rằng mỗi người ông di chuyển có thể một mạng sống được cứu. Một cơn mưa vữa vụn rơi trên đầu trọc của ông, và rồi những viên đá rơi xuống. Dân chúng phân tán ra. Một số người trốn ở hai bên gian ngang; một số người người tụ tập ở bức tường phía đông, trong đó có Giám mục Waleran; một số khác vẫn cố thoát ra khỏi hướng tây, bò lên đống đá đổ nát và thân thể người ở gian thứ ba. Một hòn đá rơi trúng vai Philip. Nó không trúng thẳng nhưng gây đau đớn. Ông lấy tay che đầu và nhìn quanh. Một mình ông ở giữa gian thứ hai; những người khác đã ở bên ngoài khu nguy hiểm. Ông đã làm những gì ông có thể. Ông chạy về hướng đông.

Ở đó ông quay lại và nhìn lên. Khu cửa sổ của gian thứ hai sụp đổ, và mái vòm rơi xuống gian cung thánh, giống hệt như những gì đã xẩy ra ở gian thứ ba; nhưng có lẽ có ít nạn nhân hơn, vì dân chúng đã có cơ hội trốn đi và vì mái của gian hai bên dường như đứng vững, trong khi ở gian thứ ba chúng đã sụp đổ. Mỗi người trong đám đông ở ở đầu cuối hướng đông lùi lại, đẩy về phía bức tường, và mọi khuôn mặt quay lên, chăm chú vào mái vòm để xem sự sụp đổ có lan sang gian thứ nhất không. Sự sụp đổ của bức tường dường như ít ồn ào hơn, nhưng một giải sương mù bụi và đá nhỏ đầy trong không khí và trong một lúc lâu không ai có thể thấy gì. Philip nín thở. Bụi đã lắng xuống và ông lại có thể nhìn thấy mái vòm. Nó bị gẫy ở ngay cạnh của gian thứ nhất; nhưng bây giờ dường như nó đứng vững.

Bụi đã ngưng. Mọi sự trở nên yên lặng. Philip nhìn kinh ngạc vào đống đổ nát của nhà thờ. Chỉ có gian đầu tiên còn nguyên vẹn. Bức tường của gian thứ hai còn đứng vững từ độ cao của đường hành lang bên trên, nhưng trong gian thứ ba và bốn chỉ có hai gian phụ là còn tồn tại và chúng gây ra thiệt hại nghiêm trọng. Nền nhà thờ là một đống gạch đá và rải rác thân thể của những người đã chết hay bị thương. Bẩy năm làm việc và hàng trăm bảng Anh đã bị phá hủy, và hàng chục người bị chết, có thể hàng trăm, tất cả trong một vài khoảnh khắc kinh hoàng. Philip đau đớn vì bao công lao đã thành vô ích, vì bao người đã chết, và vì bao nhiêu cô nhi và quả phụ còn lại; và mắt ông đẫm lệ.

Một giọng nói khắc nghiệt nói vào tai ông: „Đây là kết quả sự kiêu ngạo của ông, Philip!“

Ông quay lại và thấy Giám mục Waleran với áo choàng đen của ông đầy bụi, đang nhìn ông đắc thắng. Philip cảm thấy như ông bị đâm. Đứng nhìn một thảm họa như thế này là một sự đau lòng, nhưng bị đổ lỗi cho nó là một sự không thể chịu nổi. Ông muốn nói: Tôi chỉ muốn làm tốt nhất những gì tôi có thể! Nhưng lời nói không thoát ra: cổ ông như nghẹn lại và ông không nói ra lời.

Mắt ông tập trung vào Johnny Eightpence và bé Jonathan xuất hiện từ chỗ trú ở gian bên, và bất ngờ ông nhớ đến trách nhiệm của ông. Còn có nhiều thời gian để sau đó xem ai là người có lỗi. Ngay bây giờ có nhiều người bị thương và nhiều người bị mắc kẹt trong đống đổ nát. Ông phải tổ chức việc cứu hộ. Ông nhìn Giám mục Waleran và nói: „Hãy tránh ra!“ Giám mục giật mình và Philip đi lên bàn thờ.

„Xin lắng nghe tôi!“ ông nói lớn. „Chúng ta phải chăm sóc người bị thương, cứu những người đang mắc kẹt, chôn cất người chết và cầu nguyện cho linh hồn họ. Tôi muốn chỉ định ba người phụ trách để điều hành việc này.“ Ông nhìn các khuôn mặt quanh ông, dò xét xem ai còn sống sót và khỏe mạnh. Ông khám phá ra Alfred. „Thợ xây Alfred phụ trách việc thu dọn đống đổ nát và cứu những người còn mắc kẹt, và tôi muốn tất cả các thợ xây và thợ mộc cùng cộng tác với ông ấy.“ Nhìn vào các tu sĩ, ông nhẹ người khi thấy người đáng tin cẩn của ông, Milius, không bị thương. „Milius Bursa phụ trách di chuyển người chết và bị thương ra khỏi nhà thờ, và ông ấy cần sự giúp đỡ của những người trẻ khỏe mạnh. Randolph, thầy phụ trách phòng bệnh, sẽ chăm sóc những người bị thương một khi họ được đưa ra khỏi đống đổ nát này, và những người lớn tuổi, đặc biệt các bà già có thể giúp thầy ấy. Được rồi – chúng ta hãy bắt đầu.“ Ông nhẩy xuống khỏi bàn thờ. Dân chúng bắt đầu ồn ào, ra lệnh và hỏi nhau.

Philip đi tới Alfred, người đang run và sợ hãi. Nếu ai phải chịu trách nhiệm về việc này, thì người đó là cậu, người thợ xây dựng chính, nhưng bây giờ không phải là lúc để trách cứ. Philip nói: „Chia người của ông thành từng nhóm và chỉ định cho họ những khu vực riêng để làm việc.“

Alfred nhìn lơ đãng rồi cậu tỉnh lại. „Vâng. Đúng. Chúng ta sẽ bắt đầu ở đầu phía tây và đem đống đổ nát ra ngoài sân.“

„Tốt.“ Philip để cậu lại và chen qua đám đông đến Milius. Ông nghe Milius nói: „Hãy đem những người bị thương ra khỏi nhà thờ và đặt họ trên cỏ. Đem những người đã chết ra phía bắc.“ Ông biết ông luôn luôn có thể tin tưởng Milius và ông đi chỗ khác.“ Ông thấy thầy phụ trách phòng bệnh Randolph đang trèo lên đống đổ nát. Philip vội vàng đi về phía ông. Bên ngoài nhà thờ, ở cuối đầu phía tây, một đám người tụ họp. Họ là những người đã ra ngoài kịp thời trước khi mái vòm sập và không bị thương. „Hãy dùng những người này,“ Philip nói với Randolph. „Hãy sai những người này vào phòng bệnh lấy dụng cụ và đồ cứu thương. Sai một số người vào bếp lấy nước nóng. Hỏi thầy quản lý rượu nho mạnh cho nhưng người cần hồi sinh. Để ý đặt những người chết và bị thương theo trật tự và xa nhau để những người giúp đỡ không bị vấp vào thân thể họ.

Ông nhìn quanh. Những người sống sót đã bắt tay vào việc. Những người trú ẩn ở bức tường phía đông đã theo Philip vượt qua đống đổ nát và đã bắt tay vào việc di chuyển những người bị nạn. Một hoặc hai người bị thương chỉ vì choáng váng đã tự mình đứng lên được. Philip thấy một bà già ngồi trên sàn nhà, mắt nhìn ngơ ngác. Ông nhận ra bà là Maud Silver, góa phụ của ông thợ bạc. Ông giúp bà đứng lên và đưa bà ra khỏi đống đổ nát. „Chuyện gì đã xẩy ra?“ bà hỏi, không nhìn vào ông. „Tôi không biết chuyện gì xẩy ra.“

„Tôi cũng không biết, Maud,“ ông nói.

Khi ông quay về để giúp người khác nữa, lời của giám mục Wleran lại vang trong đầu ông: Đây là kết quả sự kiêu ngạo của ông, Philip. Lời buộc tội đã đến với ông nhanh chóng vì ông nghĩ nó có thể là sự thật. Ông luôn thúc đẩy nhiều hơn, tốt hơn, nhanh hơn. Ông đã thúc đẩy Alfred hoàn thành mái vòm cũng giống như ông đã thúc đẩy hội chợ len và thúc đẩy lấy mỏ đá ở Shiring. Trong mỗi trường hợp kết quả luôn là một thảm họa: những người khai thác đá bị chết, Kingsbridge bị đốt cháy và bây giờ đến việc này. Ông nhận ra rõ ràng rằng tham vọng của ông có lỗi trong đó. Tốt hơn, các tu sĩ nên sống một cuộc sống từ bỏ, chấp nhận đau khổ và thất bại của thế giới này như bài học của kiên nhẫn.

Khi Philip giúp đem những người bị thương rên rỉ và những người chết bất động ra khỏi nhà thờ, ông quyết tâm trong tương lai sẽ trao cho Thiên Chúa tham vọng và sự thúc đẩy của ông: còn ông, Philip, sẽ thụ động chấp nhận những gì xẩy ra. Nếu Chúa muốn một nhà thờ chính tòa, Chúa phải cung cấp một mỏ đá; nếu thị trấn cháy, nó phải được coi như dấu hiệu Chúa không muốn một hội chợ lông; và bây giờ nhà thờ đã đổ xuống, Philip không muốn xây nó lại.

Khi ông đạt được quyết định này, ông thấy William Hamleigh.

Bá tước mới của Shiring đang ngồi trên nền nhà ở gian thứ ba, gần gian phụ phía bắc, mặt tái mét và run rẩy vì đau, với một bàn chân bị mắc kẹt dưới hòn đá to. Philip tự hỏi, khi ông giúp đẩy hòn đá đi, tại sao Thiên Chúa lại để nhiều người tốt phải chết nhưng lại dung thứ một con vật như William.

William rên rỉ về sự đau đớn nơi chân cậu, ngoài ra cậu không hề hấn gì. Họ giúp cậu đứng lên. Cậu dựa vào vai một người to con và bắt đầu nhẩy đi. Rồi một đứa bé khóc.

Mọi người đều nghe thấy. Không thấy đứa bé nào. Mọi người nhìn quanh bối rối. Tiếng khóc vang lên lần nữa, và Philip nhận ra nó vang ra từ dưới một đống đá lớn ở gian phụ. „Qua đây!“ ông gọi. Ông gặp ánh mắt Alfred và ra hiệu cho cậu ấy. „Có một đứa bé vẫn sống bên dưới kia,“ ông nói.

Tất cả lắng nghe tiếng khóc. Nó nghe như tiếng trẻ thơ, chưa được một tháng tuổi. „Ông đúng,“ Alfred nói. „Hãy đẩy những hòn đá lớn này đi.“ Cậu và các người giúp việc di chuyển đống đổ nát đã che đậy mái vòm của gian thứ ba. Philip cùng tham gia. Ông không thể nghĩ ra người phụ nữ nào trong thị trấn đã sinh con trong vài tuần qua. Dĩ nhiên, việc một đứa bé sinh ra không được ông chú ý lắm: mặc dù thị trấn đã nhỏ đi trong năm qua, nhưng nó vẫn đủ lớn đối với ông và ông bỏ lỡ những sự kiện phổ biến như thế này.

Tiếng khóc đột ngột dừng lại. Mọi ngươi đứng yên và nghe ngóng, nhưng nó không khóc lại. Bằng thái độ dứt khoát họ tiếp tục di chuyển các viên đá. Nó là một công việc nguy hiểm, vì khi di chuyển hòn đá này nó có thể gây cho hòn đá khác rơi xuống. Đó là lý do tại sao Philip đã giao cho Alfred nhiệm vụ này. Tuy nhiên Alfred đã không cẩn thận đủ như Philip mong ước, và dường như cậu để cho mọi người làm những gì họ muốn, kéo đá đi mà không có kế hoạch tổng thể nào: „Hãy đợi!“

Tất cả mọi người ngưng lại. Philip nhận ra Alfred vẫn còn quá sốc để điều hành công việc. Ông sẽ phải tự ra tay. Ông nói: „Nếu có người nào đó vẫn sống ở dưới, một cái gì đó phải bảo vệ họ; và nếu chúng ta di chuyển đống đá, họ có thể mất sự bảo vệ và bị chết vì chúng ta. Hãy làm cẩn thận!“ Ông chỉ vào đám thợ xây đang đứng chung nhau. „Ba anh hãy trèo lên đống đá và lấy những viên đá trên đỉnh xuống. Thay vì tự đem nó đi, hãy trao mỗi viên đá cho chúng tôi và chúng tôi sẽ đem nó đi.“

Họ bắt tay vào việc theo kế hoạch của Philip. Nó dường như vừa nhanh hơn, vừa an toàn hơn.

Bây giờ đứa bé đã ngưng khóc, họ không biết chính xác họ đang đứng ở đâu, vì thế họ dọn một khu rộng lớn, cả chiều rộng của một gian. Một số đống gạch đổ là do mái vòm rơi xuống, nhưng mái của lối đi đã bị sụp một phần, vì thế mà có cả gỗ, phiến đá mái, đá và vữa.

Philip làm không mệt mỏi. Ông muốn cứu sống đứa bé. Ông biết hàng chục người đã chết, nhưng một cách nào đó đứa bé dường như quan trọng hơn. Nếu nó được cứu, ông cảm thấy tương lai vẫn còn hy vọng. Khi ông đẩy đá, ông bị ho và hầu như mù vì bụi, ông cầu nguyện nhiệt thành cho em bé được sống.

Sau cùng ông có thể nhìn thấy, trên đống đổ nát, bức tường bên ngoài của gian phụ và một phần của cửa sổ thấp. Dường như có một khoảng trống đàng sau đống. Có lẽ một người nào đó vẫn sống ở đó. Một thợ xây trèo lên đống đá và nhìn xuống lỗ hổng. „Giê Su!“ ông ấy kêu lên.

Lần này Philip tha thứ cho việc phạm thượng dám kêu tên Chúa. „Đứa bé có được an lành không?“ ông hỏi.

„Tôi chưa biết,“ người thợ xây nói.

Philip muốn hỏi xem người thợ xây đã thấy gì, hay tốt hơn, tự mình nhìn xem, nhưng người thợ xây yêu cầu những người khác nhanh tay di chuyển các hòn đá khác. Vì thế Philip tiếp tục làm việc trong cơn sốt của sự tò mò.

Đứa bé trần truồng và mới sinh. Làn da trắng của nó dính đầy máu và bụi, nhưng ông có thể nhìn thấy đầu nó có tóc màu cà rốt. Nhìn kỹ hơn, Philip nhận ra nó là một bé trai. Nó nằm trên ngực người phụ nữ và bú vú cô. Đứa bé vẫn sống, ông nhìn thấy, và tim ông nhẩy mừng. Ông nhìn vào người phụ nữ. Cô cũng còn sống nữa. Cô gặp ánh mắt ông và cho ông một nụ cười mệt mỏi, hạnh phúc.

Đó là Aliena.

Aliena chẳng bao giờ trở lại nhà Alfred.

Cậu ấy nói với mọi người rằng đứa bé không phải là con cậu và chỉ vào tóc đỏ của đứa bé để chứng minh, cùng màu với tóc của Jack; ngoài việc không cho họ vào nhà, cậu không gây thiệt hại gì cho đứa bé hoặc cho Aliena.

Aliena trở về căn nhà một phòng trong khu nghèo với em trai cô. Cô nhẹ người vì sự trả thù của Alfred rất nhẹ. Cô vui mừng vì không còn phải ngủ trên nền nhà dưới chân giường của cậu như một con chó. Nhưng chủ yếu cô sung sướng và tự hào về đứa bé đáng yêu của cô. Đứa bé có tóc đỏ và mắt xanh và làn da hoàn toàn trắng, và nó nhắc nhở cô sống động về Jack.

Không ai biết tại sao nhà thờ lại sụp đổ. Tuy nhiên có nhiều giả thuyết. Một số người nói Alfred không có khả năng là thợ xây dựng chính. Một số khác đổ tội cho Philip vì đã thúc dục phải hoàn thành mái vòm vào dịp lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Một vài người thợ nói rằng giàn khung đã được lấy đi trước khi vữa khô hẳn. Một thợ xây già nói những bức tường không được xây để chịu đựng trọng lượng của một mái vòm đá.

Bảy mươi chín người chết, kể cả những người sau đó chết vì bị thương. Mọi người nói số nạn nhân sẽ còn cao hơn nếu Tu viện trưởng Philip không dồn một số đông người về bức tường phía đông. Nghĩa trang tu viện đã đầy vì cuộc hỏa hoạn của hội chợ len năm trước, nên hầu hết những người chết được chôn ở nhà thờ xứ. Một số đông người nói nhà thờ chính tòa bị một lời nguyền.

Alfred đem tất cả thợ xây của cậu đến Shiring, nơi cậu sẽ xây những nhà đá cho dân thị trấn giầu có. Những thợ xây khác cũng từ giã Kingsbridge. Không ai bị cho nghỉ việc, và mặc dù Philip tiếp tục trả lương, nhưng không có gì cho họ làm ngoài việc thu dọn đống đổ nát, nên sau vài tuần họ đã bỏ đi. Không còn người thiện nguyện đến làm việc vào chủ nhật, chợ chỉ còn vài quầy bán hàng rải rác, và Malaci đã thu xếp gia đình và tài sản lên một chiếc xe lớn kéo bởi bốn con bò đực và rời thị trấn, tìm kiếm đồng cỏ xanh tươi hơn.

Richard cho một người nông dân thuê con ngựa đen của cậu, rồi cậu và Aliena sống trên số tiền thu được. Nếu không có sự hỗ trợ của Alfred cậu không thể tiếp tục sự nghiệp hiệp sĩ, tuy nhiên bây giờ nó không còn giá trị gì vì William đã trở thành bá tước. Aliena vẫn còn cảm thấy bị ràng buộc bởi lời thề với bố cô, nhưng bây giờ dường như cô không còn làm được gì để hoàn thành nó. Richard chìm trong chán nản. Cậu dậy trễ, ngồi suốt ngày dưới ánh mặt trời và tiêu cả buổi tối trong quán bia.

Martha vẫn sống một mình trong căn nhà lớn với người giúp việc già. Tuy nhiên cô ở cả ngày với Aliena: cô thích giúp đỡ đứa bé, nhất là nó trông rất giống Jack, người mà cô ngưỡng mộ. Cô muốn Aliena đặt tên cho nó là Jack, nhưng Aliena vẫn chần chừ vì một lý do nào đó mà chính cô cũng không hiểu nổi.

Cả mùa hè Aliena tràn đầy hãnh diện và niềm vui của một người mẹ. Nhưng khi mùa gặt đến, thời tiết lạnh hơn và buổi tối ngắn hơn, cô cảm thấy thất vọng.

Bất cứ khi nào cô nghĩ về tương lai, Jack lại hiện về trong tâm trí cô. Cậu đã đi xa, cô không biết cậu đi đâu và có lẽ cậu sẽ chẳng bao giờ quay về, nhưng cậu vẫn ở bên cô, ảnh hưởng đến tư tưởng của cô, vẫn tràn đầy sức sống và nghị lực, rõ ràng và sống động như thể cô mới gặp cậu ngày hôm qua. Cô dự định chuyển đến một thị trấn khác, giả đò là một góa phụ; cô cố thuyết phục Richard kiếm sống bằng cách nào đó; còn cô dự định làm dệt, hay giặt giũ, hay trở thành một người phục vụ cho một người giầu có trong thị trấn, những người vẫn còn đủ tiền để thuê người làm. Nhưng trong mỗi dự định cô đều tưởng tượng trong đầu nụ c?