Chương 13
“Và Thiên Chúa nói với Satan: ‘ Hãy nhìn vào Job của ta. Đây là người tốt mà ta đã gặp.’” Philip ngưng lại. Đây không phải là lời dịch mà là một lối kể chuyện. ‘Hãy nói cho ta nếu ông ấy không phải là người hoàn hảo và ngay thẳng, người kính sợ Thiên Chúa và không làm gì xấu.’ Vì thế Satan nói: ‘Dĩ nhiên ông ấy kính sợ ông. Ông đã cho ông ấy mọi sự. Hãy nhìn vào ông ấy. Bẩy con trai và ba con gái. Bẩy ngàn con cừu và ba ngàn con lạc đà, năm ngàn cặp bò và năm trăm lừa cái. Đó là lý do tại sao ông ấy lại là người tốt.’ Vì thế Thiên Chúa nói: ‘Được. Hãy lấy hết tất cả tài sản của ông ấy đi, và xem chuyện gì sẽ xẩy ra.’ Và Satan làm như vậy.”
Trong khi Philip giảng, tâm trí ông lẩn vẩn về lá thư ông mới nhận được sáng nay từ tổng giám mục thành Canterbury. Ông ấy chúc mừng về việc ông nhận được tượng Đức Mẹ khóc làm nhiều phép lạ. Philip không biết gì về tượng Đức Mẹ khóc và ông chắc chắn là ông không có. Tổng giám mục vui mừng vì Philip lại tiếp tục xây dựng nhà thờ chính tòa mới, mặc dù Philip chưa có kế hoạch tiếp tục. Ông chờ đợi một dấu hiệu từ Thiên Chúa trước khi bắt tay vào việc, và trong thời gian chờ đợi ông dâng thánh lễ chủ nhật trong một nhà thờ giáo xứ nhỏ. Sau cùng tổng giám mục Theobald khen sự khôn ngoan của Philip về việc chỉ định người thợ xây dựng chính, một người đã từng làm việc ở Saint-Denis. Dĩ nhiên Philip đã nghe về tu viện Saint-Denis và viện phụ nổi tiếng Suger, một giáo sĩ có thế lực mạnh nhất trong vương quốc Pháp; nhưng ông không biết gì về gian cung thánh mới ở đó và ông không chỉ định bất cứ người xây dựng chính nào. Philip nghĩ bức thư có lẽ viết cho một ai khác rồi gửi lộn cho ông.
“Bây giờ, Job sẽ nói gì khi ông mất hết tài sản và con cái ông đã chết hết? Ông có nguyền rủa Thiên Chúa không? Ông có thờ Satan không? Không, ông nói: ‘Tôi sinh ra trần truồng, và tôi sẽ chết trong trần truồng. Thiên Chúa đã ban cho và Thiên Chúa lấy đi – chúc tụng danh thánh Chúa.’ Đó là điều mà Job đã nói. Và Thiên Chúa nói với Satan: ‘Ta đã nói gì với ngươi?’ Và Satan nói: ‘Đúng, nhưng ông ấy vẫn còn khỏe mạnh, phải không?’ Một người có thể làm được mọi chuyện nếu họ có sức khỏe tốt.’ Và Thiên Chúa để cho Job phải đau khổ nhiều hơn nữa để Ngài chứng tỏ sự tin tưởng của Ngài đối với ông, vì thế Thiên Chúa nói: ‘Hãy lấy sức khỏe của ông ấy đi, rồi xem sự gì sẽ xẩy ra.’ Vì thế Satan làm cho Job bị bệnh hoạn, nở từ đầu cho đến bàn chân.”
Trong thời gian qua, việc giảng trong các nhà thờ đã được phổ biến. Trong thời thơ ấu của Philip chuyện đó ít khi xẩy ra. Viện phụ Peter đã chống lại và cho rằng việc đó muốn dụ dỗ các linh mục thỏa mãn với chính mình. Quan điểm xưa cho rằng cộng đoàn là những khán giả, âm thầm chứng kiến các nghi thức thánh, nghe tiếng Latin mà không hiểu và tin tưởng vào lời cầu nguyện của các linh mục. Nhưng quan điểm này đã thay đổi. Những tư tưởng tiến bộ ngày nay không còn cho rằng cộng đoàn là những khán giả lặng thinh của những nghi thức mầu nhiệm. Giáo hội được coi là một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của người dân. Giáo hội chứng kiến những bước quan trọng trong đời sống của họ, từ lễ rửa tội cho đến lễ cưới, từ khi đứa trẻ được sinh ra, đến việc được xức dầu khi bị bệnh nặng và được an táng trong lòng đất thánh. Giáo hội là chủ đất của họ, thẩm phán, chủ nhân trong công việc và khách hàng của họ. Càng ngày dân chúng càng được chờ đợi trở thành Ki Tô hữu mỗi ngày, không phải chỉ vào ngày chủ nhật. Theo quan điểm mới họ không những cần nghi thức mà còn cần giải thích, hướng dẫn, động viên, khích lệ.
“Bây giờ, tôi tin rằng Satan đã có cuộc nói chuyện với Thiên Chúa về Kingsbridge,” Philip nói. “Tôi tin rằng Thiên Chúa nói với Satan: ‘Hãy nhìn vào dân cư Kingsbridge. Họ không phải là những Ki Tô hữu tốt hay sao? Hãy nhìn họ đã vất vả cả tuần lễ trên cánh đồng và trong xưởng thợ, và rồi dùng cả ngày chủ nhật để xây dựng cho ta một ngôi nhà thờ mới. Hãy cho ta biết nếu họ không phải là người tốt!’ và Satan nói: ‘Họ tốt bởi vì họ đang có cuộc sống tốt. Ông đã cho họ mùa gặt tốt, thời tiết thuận lợi, khách hàng cho cửa tiệm của họ, và bảo vệ họ khỏi những lãnh chúa độc ác. Nhưng nếu ông lấy khỏi họ tất cả những điều này, họ sẽ theo tôi ngay.’ Vì thế Thiên Chúa nói: ‘Được, hãy đốt cháy hết đi, rồi xem họ phản ứng ra sao.’ Vì thế Satan sai William Hamleigh đốt cháy hội chợ len của chúng ta.”
Philip tìm được sự an ủi lớn lao từ câu truyện của Job. Giống như Job, Philip đã làm việc cực nhọc cả đời, với tất cả khả năng để chu toàn ý Thiên Chúa; và giống như Job, ông chỉ nhận được bất hạnh, thất bại và sỉ nhục. Nhưng mục đích của bài giảng là nâng cao tinh thần của cư dân tỉnh lị, và Philip có thể thấy nó không mang lại kết quả. Tuy nhiên, câu truyện chưa kết thúc.
“Và rồi Thiên Chúa nói với Satan: ‘Bây giờ hãy nhìn! Ngươi đã đốt cháy cả thị trấn, và họ vẫn còn xây cho ta ngôi nhà thờ chính tòa. Bây giờ ngươi có thể nói rằng họ không phải là người tốt nữa không?’ Nhưng Satan nói: ‘Nó quá dễ đối với họ. Hầu hết họ đều thoát khỏi hỏa hoạn. Và chẳng bao lâu sau họ lại có nhà cửa bằng gỗ. Hãy cho phép tôi được đem đến một thảm họa thực sự, rồi xem chuyện gì xẩy ra.’ Và Thiên Chúa thở dài rồi nói: ‘Ngươi muốn làm gì bây giờ?’ Và Satan nói: “Tôi muốn để mái nhà thờ mới sụp trên đầu họ.’ Và Satan đã làm như thế - như chúng ta đã biết.”
Nhìn quanh cộng đoàn tham dự, Philip thấy rất ít người đã không mất người thân trong vụ thảm họa đó. Kia là bà góa phụ Meg, người đã mất người chồng tốt và ba người con vạm vỡ, và từ đó bà đã chẳng nói gì và tóc bà bạc trắng ra. Những người khác mang theo những vết thương. Peter Pony đi khập khễnh vì chân ông bị đè bẹp: trước đây ông là người bắt ngựa, nhưng bây giờ ông làm yên ngựa cho em trai ông. Ít có một gia đình nào trong thị trấn không bị thiệt hại gì. Ngồi trên nền nhà phía trước là một người đàn ông đã bị liệt cả hai chân. Philip cau mày: ông ấy là ai? Ông ấy không bị thương trong biến cố mái nhà bị sụp đổ - Philip đã chẳng thấy ông trước đây. Rồi ông nhớ đã nghe kể về một người què đi ăn xin trong thị trấn và ngủ trong đống đổ nát của nhà thờ. Philip đã ra lệnh cho ông một chiếc giường trong nhà khách.
Tâm trí ông lang thang một lần nữa. Ông trở lại với bài giảng. “Bây giờ Job làm gì? Vợ ông nói với ông: ‘Hãy nguyền rủa Thiên Chúa, rồi chết.’ Nhưng ông có làm theo không? Ông không. Ông có mất niềm tin vào Thiên Chúa không? Ông không. Satan thất vọng. Và tôi nói cho quý vị” – Philip giơ tay lên để nhấn mạnh điều muốn nói – “Tôi nói cho quý vị, Satan sẽ thất vọng vì những cư dân của Kingsbridge! Bởi vì chúng ta tiếp tục kính sợ Thiên Chúa, cũng giống như Job đã làm trong tất cả khổ cực của ông.”
Ông ngưng lại một lần nữa để họ thấm hiểu lời ông, nhưng ông có thể nói ông đã thất bại trong việc nâng tinh thần họ lên. Những khuôn mặt ngẩng lên nhìn ông chăm chú, nhưng không được khích lệ. Thật ra ông không phải là nhà giảng thuyết tạo nên khí thế. Ông đứng vững trên mặt đất. Ông không thể thu hút cộng đoàn bằng sức mạnh khả năng, mà bằng nhân cách của ông. Sự thật là dân chúng trở nên trung thành với ông, nhưng không phải ngay lập tức: nó xẩy ra từ từ, qua thời gian, khi họ hiểu ông sống ra sao và ông đã đạt được gì. Công việc của ông thu hút dân chúng – hay đã thu hút dân chúng trong thời gian vừa qua – nhưng không phải lời nói của ông.
Tuy nhiên, phần tốt nhất của câu truyện sẽ đến. “Điều gì đã xẩy ra với Job, sau khi Satan đã làm những việc tệ hại nhất? Vâng, Thiên Chúa đã cho ông nhiều hơn những gì ông có – hai lần nhiều hơn! Nơi ông chăn thả bẩy ngàn con cừu bây giờ đã lên đến mười bốn ngàn. Ba ngàn con lạc đà ông đã mất được đền bù bằng sáu ngàn con. Và ông có thêm bẩy người con trai và ba con gái.”
Họ nhìn thờ ơ. Philip tiếp tục. “Và một ngày nào đó Kingsbridge sẽ lại thịnh vượng. Các quả phụ sẽ lấy chồng, các ông góa vợ sẽ tìm được vợ, và những người chết con sẽ mang thai; và đường phố chúng ta sẽ đầy người, và các cửa hàng sẽ xếp chồng bánh mì và rượu, da và đồ đồng, dây và giầy da; và một ngày chúng ta sẽ xây dựng lại nhà thờ chính tòa.”
Vấn đề là ông không chắc chắn những gì ông nói; vì thế ông không thể nói với sự thuyết phục. Nên không ngạc nhiên gì khi cộng đoàn không có phản ứng.
Ông nhìn xuống cuốn sách dày trước mặt ông, và dịch từ Latin sang tiếng Anh. “Và Job sống thêm một trăm bốn mươi năm nữa, và nhìn thấy con ông, cháu ông và chắt ông. Và ông chết thọ và sung mãn.” Ông đóng sách lại.
Có sự ồn ào ở đàng sau nhà thờ nhỏ. Philip cáu kỉnh nhìn lên. Ông biết rằng bài giảng của ông không có hiệu quả như ông chờ đợi, tuy nhiên ông muốn một vài phút yên lặng sau đó. Cửa nhà thờ mở và những người ngồi ở cuối nhà thờ nhìn ra. Philip nhìn thấy một đám đông bên ngoài – những người không ở trong nhà thờ có lẽ đã tụ họp ở đó, ông nghĩ. Chuyện gì vậy?
Nhiều khả năng có thể xẩy ra, Philip nghĩ – có thể là một cuộc đánh nhau, một cuộc hỏa hoạn, một người nào đó qua đời, một toán kỵ binh đang đến – nhưng ông hoàn toàn không ngờ đến việc thực sự đang xẩy ra. Trước hết hai linh mục khênh tượng một phụ nữ trên một tấm ván trải khăn thêu của bàn thờ. Thái độ nghiêm trang của họ tỏ ra bức tượng là một vị thánh hay có lẽ là Đức Mẹ. Hai người khác đi sau các linh mục, và họ gây ngạc nhiên lớn: một người là Aliena và người kia là Jack.
Philip nhìn Jack bằng cảm xúc lẫn lộn giữa thương mến và bực tức. Ông nghĩ cậu bé đó, ngày đầu tiên khi cậu đến đây, nhà thờ chính tòa đã bị cháy, và từ khi không có liên hệ với cậu ấy, mọi chuyện trở lại bình thường. Nhưng khi Jack bước vào ông cảm thấy hài lòng hơn là khó chịu. Mặc dù bao nhiêu chuyện rắc rối cậu đã gây ra, cậu làm cho đời sống hấp dẫn. Philip nhìn cậu. Jack không còn là một cậu bé. Cậu mới đi hai năm nhưng cậu dường như già đi mười tuổi, và đôi mắt cậu mệt mỏi và hiểu biết. Cậu đã đi đâu? Và làm thế nào cậu đã tìm được Aliena?
Đám rước tiến lên ở khu giữa nhà thờ. Philip quyết định không làm gì và chờ xem việc gì xẩy ra. Tiếng thì thầm phấn khích gữa đám đông khi dân chúng nhận ra Jack và Aliena. Rồi một âm thanh mới, đúng hơn là tiếng thì thầm kinh hoàng, và ai đó nói: “Bức tượng khóc!”
Những người khác lập lại nó như một lời kinh dài: “Tượng khóc! Tượng khóc!” Philip nhìn chăm chú vào bức tượng. Chắc chắn có nước chẩy từ mắt tượng. Ông chợt nhớ đến bức thư của tổng giám mục về tượng Mẹ khóc hay làm phép lạ. Vì thế đây là bức tượng đó. Nếu nước mắt là một phép lạ, sau này ông sẽ phán quyết. Ông có thể thấy đôi mắt hình như làm bằng đá, hay một loại thủy tinh, trong khi phần còn lại của bức tượng được làm bằng gỗ: có thể trong đó sẽ có lời giải đáp.
Các linh mục quay đầu lại và đặt kiệu xuống nền đất để tượng đối diện với cộng đoàn. Rồi Jack bắt đầu nói.
“Tượng Đức Mẹ khóc đến với tôi trong một đất nước xa xôi,” cậu bắt đầu. Philip bực mình vì cậu xen vào thánh lễ của ông nhưng ông quyết định không làm gì và để cho Jack nói. Một cách nào đó cậu cũng thu hút ông. “Một người Saracen đã được rửa tội cho tôi bức tượng này,” Jack tiếp tục. Cộng đoàn thì thầm vì ngạc nhiên: Saracens được biết đến trong những câu truyện là quân thù dã man, mặt đen, và chỉ có vài người biết rằng một vài người trong số họ đã trở thành Ki Tô hữu. “Lúc đầu tôi tự hỏi tại sao bức tượng lại được trao cho tôi. Tuy nhiên, tôi mang theo nó qua nhiều dặm đường.” Jack đã làm cộng đoàn say mê. Cậu ấy là một nhà giảng thuyết giỏi hơn tôi, Philip buồn bã nghĩ; sự hứng thú có thể cảm thấy được trong cộng đoàn. “Sau cùng tôi nhận ra rằng bức tượng muốn về nhà. Nhưng nhà của Đức Mẹ ở đâu? Sau cùng tôi chợt nhận ra: Đức Mẹ muốn về Kingsbridge.”
Cộng đoàn huyên náo vì ngạc nhiên. Philip nghi ngờ. Có một sự khác biệt giữa cách Thiên Chúa làm và cách Jack làm, và việc này có dấu hiệu của Jack. Nhưng Philip giữ yên lặng.
“Nhưng rồi tôi nghĩ: Tôi sẽ đem mẹ đi đâu? Đền thánh nào mẹ muốn ở Kingsbridge? Trong nhà thờ nào mẹ sẽ nghỉ ngơi vĩnh viễn?” Ánh mắt cậu lướt qua những bức tường trắng đơn sơ của nhà thờ giáo xứ như thể muốn nói: Nhà thờ này không phải là nơi mẹ ở. “Và như thể mẹ nói với tôi: ‘Jack, con sẽ làm cho mẹ một đền thánh và xây cho mẹ một nhà thờ.’”
Philip nhận ra Jack muốn gì. Bức tượng sẽ là ngọn lửa hun đốt lại sự nhiệt tâm của dân chúng trong việc xây dựng nhà thờ mới. Nó sẽ làm được điều mà bài giảng của Philip về Job đã thất bại. Nhưng Philip vẫn tự hỏi: Đó là ý của Thiên Chúa hay là ý muốn của Jack?
“Vì thế tôi hỏi mẹ: ‘Làm sao con xây dựng được vì con không có tiền.’ Và mẹ nói: ‘Mẹ sẽ cung cấp tiền bạc.’ Vâng, chúng tôi lên đường với sự chúc lành của tổng giám mục thành Canterbury.” Jack nhìn Philip khi cậu nói tên của tổng giám mục. Cậu ấy muốn nói gì với tôi, Philip nghĩ: cậu ấy muốn nói cậu ấy có sự hỗ trợ mạnh mẽ đàng sau cho việc này.
Jack quay mặt lại phía cộng đoàn. “Và dọc theo đường đi, từ Paris qua Normandy, qua biển và mọi con đường dẫn đến Kingsbridge, các Ki Tô hữu sùng đạo đã dâng cúng tiền bạc để xây dựng đền thánh cho tượng mẹ khóc.” Khi đó, Jack ra hiệu cho ai đó bên ngoài.
Một lúc sau hai người Saracens nghiêm trang bước vào nhà thờ, khênh trên vai một thùng bọc sắt.
Dân làng sợ hãi lùi lại. Ngay cả Philip cũng kinh ngạc. Ông biết, trong sách vở, rằng người Sarecens có da đen, nhưng ông chưa bao giờ gặp họ, và thực tế thật sửng sốt. Họ mặc áo sặc sỡ. Họ sãi bước qua cộng đoàn và quỳ gối trước tượng, cúi gầm mặt xuống đất.
Một sự yên lặng nín thở khi Jack mở hòm bằng một chìa khóa lớn và nhấc nắp hòm lên. Dân chúng ngẩng cao cổ để nhìn. Bất ngờ Jack đổ thùng ra. Một âm thanh như thác nước đổ, và một dòng tiền bạc đổ ra từ chiếc hòm, hàng trăm, hàng ngàn. Dân chúng tụ họp lại để xem: chưa ai đã nhìn thấy nhiều tiền như thế.
Jack nói to, át tiếng kêu la thán phục. “Tôi đã đem mẹ về nhà, và bây giờ tôi trao mẹ lại cho thợ xây dựng chính của nhà thờ chính tòa mới.” Rồi cậu quay lại, nhìn vào mắt Philip, và cúi đầu một chút như muốn nói: bây giờ tới phiên ông.
Philip ghét kiểu mánh khóe này nhưng cùng lúc ông cũng công nhận rằng cách cậu làm thật đáng khâm phục. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là Jack đã thành công. Dân chúng có thể trầm trồ về tượng mẹ khóc, nhưng chỉ Philip mới có quyền quyết định cho bức tượng được nghỉ ngơi trong nhà thờ chính tòa Kingsbridge, bên cạnh di tích thánh Adolphus hay không. Và ông vẫn chưa được thuyết phục.
Một vài dân làng bắt đầu hỏi chuyện người Sacacens. Philip bước xuống khỏi bục giảng và đến gần hơn để nghe. “Tôi đến từ một đất nước rất xa,” một người trong họ nói. Philip ngạc nhiên nghe ông ấy nói tiếng Anh giống như một ngư dân miền Dorset, nhưng hầu hết dân làng không biết rằng người Saracens có ngôn ngữ riêng của họ.
“Tên đất nước của ông là gì?” một người hỏi.
“Đất nước tôi tên là Châu Phi,” người Saracen trả lời. Ở Châu Phi có nhiều nước, dĩ nhiên, như Philip biết – mặc dù hầu hết dân làng không biết – và Philip tự hỏi người Saracen này đến từ đất nước nào. Nó sẽ thú vị biết mấy nếu nó là một nơi được nhắc đến trong Kinh Thánh như Ai Cập hoặc Ethiopia.
Một bé gái đưa ngón tay ra và chạm vào bàn tay đen của ông. Người Saracen mỉm cười với cô. Ngoại trừ mầu da, Philip nghĩ, ông ấy trông không khác gì mấy với những người khác. Thêm tự tin, bé gái nói: “Châu Phi trông như thế nào?”
“Có sa mạc to lớn và cây vả.”
“Cây vả như thế nào?”
“Nó… nó là một trái cây, trông giống như trái dâu và mùi vị giống như trái lê.”
Philip bất ngờ cảm thấy nghi ngờ khủng khiếp. Ông nói: “Hãy cho tôi biết, Saracan, ông sinh ra ở thành phố nào?”
“Damascus,” người đàn ông trả lời.
Sự nghi ngờ của Philip được xác nhận. Ông tức giận. Ông nắm lấy tay Jack và kéo cậu sang bên. Bằng giọng giận dữ ông nói thầm thì với cậu: “Cậu đang chơi trò gì đây?”
“Ông muốn nói gì?” Jack nói, cố làm như vô tội.
“Những người này không phải là người Saracens. Họ là những ngư dân từ Wareham với khuôn mặt và bàn tay đen.”
Jack dường như không bận tâm đến việc lừa dối của cậu đã bị khám phá. Cậu cười và nói: “Làm sao ông đoán được?”
“Tôi không nghĩ người đàn ông đó đã nhìn thấy cây vả, và Damascus không phải ở Châu Phi. Đâu là ý nghĩa của sự giả dối này?”
“Nó là một sự lừa dối vô hại,” Jack nói và nở nụ cười hấp dẫn.
“Không có lừa dối nào là vô hại,” Philip lạnh lùng nói.
“Đúng.” Jack thấy Philip giận dữ. Cậu nói nghiêm trang. “Nó phục vụ cùng một mục đích như một bức hình minh họa trên một trang Kinh Thánh. Nó không phải là sự thật, nó là một minh họa. Những ngư phủ Dorset tô đen chỉ phụ họa thêm cho sự kiện thật là tượng mẹ khóc đến từ miền đất Saracen.”
Hai linh mục và Aliena đã tách ra khỏi đám đông xung quanh bức tượng và tham gia cùng Jack và Philip. Philip không quan tâm đến họ và nói với Jack: “Cậu không sợ bức hình vẽ của một con rắn. Một minh họa không phải là một lời nói dối. Các người Saracens của cậu không phải là minh họa, họ là kẻ mạo danh.”
“Chúng tôi đã thu được nhiều tiền hơn khi chúng tôi có người Saracens,” Jack nói.
Philip nhìn vào đống tiền trên nền nhà. “Dân cư thị trấn có lẽ nghĩ nó đủ để xây toàn bộ ngôi nhà thờ chính tòa,” ông nói. “Tôi nghĩ rằng nó khoảng một trăm bảng Anh. Cậu biết nó không đủ trả tiền cho một năm xây dựng.”
“Tiền bạc cũng giống như người Saracens,” Jac nói. “Nó chỉ là biểu tượng. Ông biết ông cần tiền để bắt đầu xây dựng.”
Đúng như thế. Không gì có thể ngăn cản Philip xây dựng. Đức Mẹ là điều cần thiết mang lại sức sống cho Kingsbridge. Nó sẽ lôi cuốn nhiều người đến thị trấn – người hành hương, cũng như các học giả và cả người tò mò. Nó sẽ cho dân cư thị trấn một con tim mới. Nó sẽ được coi như một điềm tốt. Philip đã chờ đợi một dấu hiệu từ Thiên Chúa, và ông đã muốn tin rằng đây là một dấu hiệu. Nhưng ông không có cảm giác đây là dấu hiệu từ Thiên Chúa, mà là một sự đóng kịch của Jack.
Vị linh mục trẻ nói: “Tôi là Reynold và đây là Edward – chúng tôi làm việc cho tổng giám mục thành Canterbury. Ông sai chúng tôi hộ tống bức tượng mẹ khóc này.”
Philip nói: “Nếu ông được phép của tổng giám mục, tại sao ông cần đến hai người mạo danh Saracens để chứng thực cho Đức Mẹ?”
Edward xấu hổ. Reynold nói: “Đó là ý kiến của Jack, nhưng tôi thú thực tôi không thấy nó có hại gì. Một cách chắc chắn ông nghi ngờ về Đức Mẹ, phải không Philip?”
“Ông có thể gọi tôi là cha,” Philip nói lại. “Ngay cả khi ông làm việc cho tổng giám mục, ông vẫn không có quyền hạ mình xuống đối với bề trên của ông. Tôi sẽ không để bức tượng này trong khuôn viên nhà thờ Kingsbridge cho đến khi tôi biết chắc đó là một đồ thánh.”
“Một bức tượng bằng gỗ khóc,” Reynold nói. “Ông còn muốn bao nhiêu phép lạ nữa?”
“Sự kiện khóc chưa giải thích được. Điều đó không làm nó thành một phép lạ. Sự thay đổi nước thành đá cứng cũng không giải thích được, nhưng nó không phải là một phép lạ.”
“Tổng giám mục sẽ rất thất vọng nếu ông từ chối nhận Đức Mẹ. Ông ấy đã phải tranh đấu vì viện phụ Suger muốn giữ tượng này cho Saint-Denis.”
Philip biết ông bị dọa. Reynold trẻ tuổi này phải cố gắng hơn nữa nếu muốn dọa tôi, ông nghĩ. Ông nói dịu dàng: “Tôi hoàn toàn chắc chắn tổng giám mục sẽ không muốn tôi chấp nhận bức tượng mà không làm một số đòi hỏi thông thường để xác định sự hợp pháp của bức tượng.”
Một cái gì đó chuyển động dưới chân họ. Philip nhìn xống và thấy người què mà ông đã chú ý đến sáng nay. Người đàn ông bất hạnh này đang lê đôi chân tê liệt trên sàn nhà, cố đến gần bức tượng, nhưng luôn bị đám đông cản lối. Một cách tự động, Philip tránh sang một bên cho ông qua. Những người Saracens ngăn cản dân chúng chạm vào bức tượng, nhưng người què này trốn được khỏi sự chú ý của họ. Philip nhìn thấy bàn tay ông vươn ra. Bình thường Philip sẽ ngăn cản ai muốn chạm và thánh tích, nhưng ông chưa chấp nhận tượng này là thánh tích, nên ông không phản ứng gì. Người què chạm vào gấu áo bằng gỗ. Bất ngờ ông hét lên vui mừng: “Tôi cảm thấy nó!” ông la lên. “Tôi cảm thấy nó!”
Mọi người nhìn vào ông ấy.
“Tôi cảm thấy mạnh khỏe trở lại!” ông la lên.
Philip hoài nghi nhìn vào người đàn ông và biết những gì sẽ xẩy ra tiếp theo. Người đàn ông gập một chân, rồi chân thứ hai. Có tiếng kêu kinh ngạc từ đám đông đang theo dõi. Ông ấy đưa một tay ra và một người đỡ lấy. Với một chút cố gắng, người đàn ông đứng thẳng lên.
Đám đông kêu lên.
Một người la lớn: “Hãy thử đi đi!”
Vẫn còn giữ tay người giúp đỡ, người đàn ông bước một bước tập tễnh, rồi bước một bước nữa. Dân chúng quan sát trong yên lặng. Ở bước thứ ba ông vấp ngã, và dân chúng thở dài luyến tiếc. Nhưng ông ấy lấy lại thế cân bằng và tiếp tục đi.
Họ reo mừng.
Ông ấy đi xuống gian giữa và nhiều người theo ông. Sau vài bước, ông bắt đầu chạy. Tiếng cổ vũ vang lên khi ông ấy đi qua cửa nhà thờ vào trong ánh sáng mặt trời, hầu hết cả cộng đoàn đều theo ông ra.
Philip nhìn vào hai linh mục. Reynold kinh ngạc và nước mắt Erward rơi trên má ông. Rõ ràng họ không liên quan đến việc này. Philip quay sang Jack và nói giận dữ: “Làm sao cậu dám làm một trò bịp bợm như thế?”
“Trò bịp bợm?” Jack nói. “Trò bịp bợm nào?”
“Người đàn ông này mới chỉ đến đây vài ngày. Vào một hai ngày nữa ông ấy sẽ biến mất với túi đầy tiền của cậu. Tôi biết chuyện này được thực hiện như thế nào, Jack. Cậu không phải là người đầu tiên làm giả phép lạ, thật đáng tiếc. Chân ông ta chưa bao giờ bị què, phải không? Ông ấy là một ngư phủ khác của Wareham.”
Lời buộc tội được xác nhận qua cái nhìn tội lỗi của Jack.
Aliena nói: “Jack, em đã nói với anh là không nên làm chuyện đó.”
Hai linh mục như bị sét dánh. Họ đã bị kéo vào cuộc. Reynold giận dữ. “Jack, anh không có quyền làm thế!” ông lắp bắp.
Philip cảm thấy vừa buồn vừa tức giận. Trong tâm hồn ông hy vọng tượng mẹ sẽ được chứng minh hợp pháp, bởi vì ông thấy ông có thể dùng bức tượng này để làm sống lại tu viện và thị trấn. Nhưng nó đã không xẩy ra như vậy. Ông nhìn quanh nhà thờ nhỏ của giáo xứ. Chỉ còn một số ít người còn lại, vẫn nhìn chăm chú vào bức tượng. Ông nói với Jack: “Lần này cậu đã đi quá xa.”
“Những giọt nước mắt là thật – trong đó không có sự bịp bợm,” Jack nói. “Nhưng người què là một sai lầm, tôi nhận lỗi.”
“Nó còn tồi tệ hơn cả một sai lầm,” Philip giận dữ nói. “Khi dân chúng biết sự thật, họ sẽ không còn tin vào phép lạ nữa.”
“Tại sao họ phải biết sự thật?”
“Bởi vì tôi phải giải thích cho họ tại sao bức tượng không được để trong nhà thờ chính tòa. Dĩ nhiên bây giờ không có chuyện tôi chấp nhận bức tượng.”
Reynold nói: “Tôi nghĩ như thế là quá gấp –“
“Khi tôi cần ý kiến của ông, tôi sẽ hỏi ông,” Philip đáp lại.
Reynold im lặng nhưng Jack vẫn kiên trì. “Ông có chắc chắn rằng ông có quyền lấy Đức Mẹ ra khỏi dân chúng không? Hãy nhìn họ.” Cậu chỉ số người ít ỏi còn ở lại. Trong số họ có góa phụ Meg. Bà quỳ gối trước tượng với dòng nước mắt trên mặt. Jack không biết, nhưng Philip biết rằng Meg đã mất cả gia đình vì mái nhà thờ của Alfred đổ xuống. Cảm xúc của bà đánh động trái tim Philip và ông tự hỏi phải chăng Jack có lý. Tại sao lại lấy bức tượng đi khỏi dân chúng? Bởi vì nó không thành thực, ông nhắc nhở lòng mình một cách nghiêm khắc. Họ tin vào bức tượng bởi vì họ nhìn thấy một phép lạ giả tạo. Ông cứng rắn lại.
Jack quỳ xuống bên cạnh Meg và nói với bà. “Tại sao bà khóc?”
“Bà ấy câm,” Philip nói với cậu.
Rồi Meg nói: “Đức Mẹ đã đau khổ nhiều như tôi. Đức Mẹ hiểu tôi.”
Philip như bị sét đánh.
Jack nói: “Ông thấy không? Bức tượng làm giảm nỗi đau của bà – Ông đang nhìn gì?”
“Bà ấy câm,” Philip nói lại. “Từ hơn một năm nay bà ấy không thốt nên lời nào.”
“Đúng như vậy!” Aliena nói. “Meg đã bị câm sau khi chồng và con bà bị chết khi mái nhà thờ sập.”
“Người đàn bà này?” Jack nói. “Nhưng bà ấy vừa…”
Reynold nhìn ngơ ngác. “Ý anh muốn nói đó là một phép lạ?” ông nói. “Một phép lạ thực sự?”
Philip nhìn vào mặt Jack. Jack bị sốc nhất trong số họ. Không có xảo trá trong chuyện này. Philip bị đánh động mạnh. Ông đã nhìn thấy bàn tay của Thiên Chúa tạo nên phép lạ. Ông rùng mình. “Được, Jack,” ông nói bằng giọng run rẩy. “Mặc dù những gì cậu làm đã làm mất uy tín của Đức Mẹ, dường như Thiên Chúa vẫn dùng nó để tạo nên phép lạ.”
Jack không thốt nên lời.
Philip quay lưng lại và đi tới Meg. Ông cầm tay bà và nhẹ nhàng kéo bà đứng lên. “Thiên Chúa đã làm bà khỏe lại, Meg,” ông nói, giọng run run vì xúc động. “Bây giờ bà có thể bắt đầu đời sống mới.” Ông nhớ lại ông đã giảng về câu truyện của Job. Những lời Kinh Thánh trở lại với ông: “Vì thế Thiên Chúa chúc phúc cho Job nhiều hơn lúc đầu…” Ông đã nói với cư dân Kingsbridge rằng điều đó cũng trở thành sự thật với họ. Tôi tự hỏi, ông nghĩ, nhìn vào sự sung sướng trên khuôn mặt đầy nước mắt của bà, tôi tự hỏi đây có phải là sự bắt đầu không.
Có một sự náo động trong nhà họp khi Jack trình bầy thiết kế cho nhà thờ chính tòa mới.
Philip đã cảnh báo Jack về những rắc rối xẩy đến. Dĩ nhiên trước đó Philip đã nhìn thấy bản vẽ. Jack đã đem chúng đến nhà của tu viện trưởng vào một buổi sáng sớm, một bản sơ đồ mặt phẳng và một trực diện, được vẽ trên thạch cao trong khung gỗ. Họ cùng nhau quan sát nó trong ánh sáng buổi sớm mai và Philip đã nói: “Jack, đây sẽ là nhà thờ đẹp nhất ở nước Anh – nhưng chúng ta sẽ gặp khó khăn với các tu sĩ.”
Jack biết từ khi còn là tập sinh rằng Remigius và những người theo ông luôn luôn chống lại bất cứ kế hoạch nào Philip yêu thích, mặc dù đã tám năm rồi từ khi Philip thắng Remigius trong cuộc bầu cử. Họ ít khi nhận được sự đồng tình của số đông các tu sĩ, nhưng trong trường hợp này Philip không chắc chắn: đa số thuộc thành phần bảo thủ và họ sẽ sợ những thiết kế mang tính cách mạng. Tuy nhiên, phải cho họ xem thiết kế và cố gắng thuyết phục họ. Philip chắc chắn không thể đi trước và xây dựng nhà thờ mà không có sự đồng ý của đa số tu sĩ trong tu viện.
Ngày hôm sau Jack vào nhà họp và trình bầy kế hoạch của cậu. Các bản vẽ được dựng lên trên chiếc ghế dựa vào tường, và các tu sĩ tụ tập xung quanh để nhìn nó. Khi họ nhìn vào các chi tiết, tiếng thì thầm thảo luận đã nhanh chóng trở thành sự huyên náo. Qua giọng điệu cậu biết thiết kế của cậu không được chấp nhận, mà lại còn gây nên tức giận. Cậu chán nản. Tiếng ồn bắt đầu lớn hơn khi họ tranh luận với nhau, một vài người chống lại thiết kế và một vài người bảo vệ nó.
Sau một lúc Philip kêu gọi vào trật tự và họ yên lặng. Milius Bursar hỏi một câu đã được chuẩn bị trước. “Tại sao mái trần lại nhọn?”
“Đây là kỹ thuật mới được dùng đến ở Pháp,” Jack trả lời. “Tôi đã thấy nó ở nhiều nhà thờ. Mái vòm nhọn vững chãi hơn. Nó là cách cho phép tôi xây một nhà thờ cao như vậy. Nó có lẽ là gian giữa cao nhất ở nước Anh.”
Jack có thể nói họ thích ý tưởng đó.
Một người khác nói: “Cửa sổ quá lớn.”
“Bức tường dày không cần thiết,” Jack nói. “Chúng đã được chứng minh ở Pháp. Chính các cột trụ đỡ tòa nhà, đặc biệt với mái vòm khung sườn. Và ảnh hưởng của cửa sổ lớn thật là hấp dẫn. Ở Saint-Denis viện phụ đã đặt kính màu với các hình ảnh trong cửa sổ. Nhà thờ trở thành nơi đầy ánh sáng và không khí, thay vì ảm đạm và tối tăm.”
Nhiều tu sĩ gật đầu chấp thuận. Có lẽ họ không bảo thủ như cậu nghĩ.
Nhưng Andrew, người phụ trách phòng thánh, nói: “Hai năm trước anh đã là một tập sinh của chúng tôi. Anh đã bị phạt vì anh chống lại tu viện trưởng, và thay vì anh nhận hình phạt anh lại trốn đi. Bây giờ anh trở lại và muốn dạy chúng tôi phải xây nhà thờ ra sao.”
Trước khi Jack có thể nói, một trong số các tu sĩ trẻ chống lại: “Chuyện này không có liên quan gì đến việc đó! Chúng ta đang thảo luận về thiết kế, không phải về quá khứ của Jack.”
Nhiều tu sĩ cố gắng nói cùng lúc, một vài người la lên. Philip ra lệnh cho mọi người im lặng và yêu cầu Jack trả lời.
Jack đã nghĩ về chuyện đó và đã sẵn sàng. “Tôi đã làm một cuộc hành hương đến Santiago de Compostela như một việc đền tội, thưa cha Andrew, và tôi hy vọng việc đem tượng Mẹ khóc về được coi như sự bù đắp cho việc làm sai trái của tôi,” cậu nói ngoan ngoãn. “Tôi không được chọn là một tu sĩ, nhưng tôi hy vọng có thể phục vụ Thiên Chúa bằng cách khác – như người xây dựng của Chúa.”
Họ dường như chấp nhận điều đó.
Tuy nhiên, Andrew chưa chấm dứt. “Anh bao nhiêu tuổi?” ông nói, mặc dù ông chắc chắn biết câu trả lời.
“Hai mươi tuổi.”
“Đó là quá trẻ để trở thành một nhà xây dựng tổng thể chính.”
“Mọi người ở đây biết tôi. Tôi đã sống ở đây từ khi còn nhỏ.” Từ khi tôi đốt nhà thờ cũ của các ông, cậu nghĩ một cách tội lỗi. “Tôi đã học nghề với người xây dựng chính từ thuở ban đầu. Các ông đã nhìn thấy công trình khắc đá của tôi. Khi tôi còn là một tập sinh, tôi đã làm việc với Tu viện trưởng Phiilip và thợ xây Tom như là thư ký của công trình. Tôi khiêm nhường xin các ông xét xử tôi theo công việc của tôi chứ đừng theo tuổi tác của tôi.”
Đó là một bài phát biểu đã được chuẩn bị. Cậu nhìn thấy một tu sĩ cười khi cậu nói chữ khiêm nhường, và cậu nhận ra đó là một sơ hở nhỏ: tất cả họ biết trong tất cả phẩm chất cậu có, cậu không có sự khiêm nhường.
Andrew nhanh chóng lợi dụng sự sai lầm này của cậu. “Khiêm nhường?” ông nói, và mặt ông đỏ lên khi ông giả vờ làm ra vẻ giận dữ. “Anh đã quá khiêm nhường khi loan báo cho các thợ xây ở Paris ba tháng trước đây là anh đã được chỉ định làm thợ xây dựng chính ở đây.”
Một lần nữa các tu sĩ lại huyên náo vì phẫn nộ. Jack giằn sự thở dài xuống. Làm sao Andrew biết được chuyện ấy? Reynold hay Edward phải tiết lộ điều đó với ông. Cậu cố gắng xua nó đi. “Tôi chỉ muốn lôi cuốn một vài thợ thủ công đến Kingsbridge,” cậu nói khi tiếng ồn ào đã giảm. “Họ vẫn là những người thợ cần thiết, cho dù ai là người thợ xây dựng chính ở đây. Tôi không nghĩ sự đoán chừng của tôi gây thiệt hại gì,” Cậu cố gắng nở nụ cười. “Nhưng tôi xin lỗi vì tôi đã không khiêm tốn.” Cho đến bây giờ mọi chuyện không được suôn sẻ.
Milius Bursar đã đưa cậu ra khỏi rắc rối bằng cách hỏi một câu đã được chuẩn bị. “Cậu dự định làm như thế nào với gian cung thánh đã bị xụp đổ?”
“Tôi đã nghiên cứu nó cẩn thận,” Jack nói. “Nếu hôm nay tôi được chỉ định làm thợ xây dựng chính, tôi sẽ làm để nó có thể sử dụng lại được trong một năm. Hơn nữa, các ông có thể tiếp tục sử dụng nó trong khi tôi xây các gian ngang và gian giữa theo thiết kế mới. Sau cùng khi gian giữa đã hoàn thành, tôi đề nghị dỡ bỏ gian cung thánh và xây một gian mới phù hợp với phần còn lại của nhà thờ mới.”
Andrew nói: “Nhưng làm sao chúng tôi chắc chắn được là gian cung thánh cũ không đổ xuống lần nữa?”
“Sự sụp đổ là do mái vòm bằng đá của Alfred, nó không có trong kế hoạch ban đầu. Các bức tường không đủ mạnh để đỡ nó. Tôi đề nghị trở lại với thiết kế của Tom và làm một trần bằng gỗ.”
Có tiếng thì thầm vì ngạc nhiên. Câu hỏi tại sao mái nhà sụp đổ đã là đề tài tranh luận từ lâu nay. Andrew nói: “Nhưng Alfred đã tăng kích thước của các trụ tường để chống đỡ sức nặng gia tăng.”
Điều này cũng làm Jack thắc mắc, nhưng cậu nghĩ cậu đã tìm được câu trả lời. “Chúng vẫn chưa đủ mạnh, nhất là trên đỉnh. Nếu chúng ta nghiên cứu đống đổ nát, chúng ta có thể thấy rằng phần sụp đổ đầu tiên là phần có cửa sổ ở trên. Và ở đó đã không được củng cố thêm.”
Họ dường như hài lòng với điều đó. Jack cảm thấy khả năng trả lời tự tin của cậu đã cho cậu cơ hội đến gần với địa vị người xây dựng chính.
Remigius đứng dậy. Jack đã tự hỏi khi nào ông ấy sẽ lên tiếng. “Tôi muốn đọc một câu Kinh Thánh cho anh em trong nhà hội,” ông nói, đúng hơn là khoa trương. Ông nhìn Philip và Philip gật đầu đồng ý. Remigius đến bục giảng và mở cuốn Kinh Thánh lớn. Jack quan sát ông. Môi mỏng của ông di động một cách bồn chồn, mắt xanh của ông lồi ra một chút làm cho ông có vẻ như luôn căm phẫn. Ông là hình ảnh của sự oán giận. Nhiều năm trước đây ông đã tin rằng mình được chỉ định để thành người lãnh đạo, nhưng thực ra ông có cá tính quá yếu đuối, và bây giờ ông cam chịu sống trong thất vọng, gây rắc rối cho người tốt hơn ông. “Sách Xuất Hành,” ông xướng lên khi ông lần giở các trang giấy da. “Chương hai mươi. Câu mười bốn.” Jack tự hỏi không biết điều gì xảy ra. Remigius đọc: “Ngươi không được ngoại tình.” Ông đóng mạnh sách lại và trở lại chỗ ngồi.
Bằng giọng vương chút bực tức, Philip nói: “Có lẽ anh nên nói cho chúng tôi, anh Remigius, tại sao anh lại chọn đọc câu đó giữa cuộc thảo luận của chúng ta về việc xây dựng.”
Remigius chỉ ngón tay vào Jack. “Bởi vì người muốn trở thành thợ xây dựng chính của chúng ta lại đang sống trong tình trạng tội lỗi!” ông đe dọa.
Jack không tin nổi là ông ấy nói nghiêm trang. Cậu căm phẫn nói: “Sự thật là hôn nhân của chúng tôi chưa được chúc lành trong nhà thờ vì hoàn cảnh đặc biệt, nhưng chúng tôi sẽ lấy nhau sớm bao nhiêu như ông muốn.”
“Cậu không thể,” Remigius nói một cách đắc thắng. “Aliena đã cưới trong nhà thờ rồi.”
“Nhưng hôn nhân này không thành sự.”
“Tuy nhiên, cặp này đã cưới nhau trong nhà thờ.”
“Nhưng nếu ông không cho tôi lấy cô ta, làm sao tôi có thể tránh sống trong tình trạng tội lỗi?” Jack giận dữ nói.
“Thôi, đủ rồi!” Tiếng nói là của Philip. Jack nhìn ông. Ông có vẻ tức giận và nói: “Jack, có phải cậu đang sống trong tội lỗi với vợ của anh cậu không?”
Jack rất kinh ngạc. “Ông không biết chuyện đó sao?”
“Dĩ nhiên tôi không biết!” Philip hét lên. “Cậu nghĩ tôi có thể giữ yên lặng về nó nếu tôi biết ư?”
Tất cả yên lặng. Philip hét lên là chuyện không bình thường. Jack thấy cậu ở trong một rắc rối thật sự. Tình trạng hôn nhân bất hợp pháp của cậu chỉ là hình thức, nhưng các tu sĩ coi trọng về việc đó. Thật không may là Philip không biết cậu đang sống với Aliena làm cho vấn đề thành tồi tệ hơn. Remigius đã gây cho Philip sự bất ngờ và làm ông thành kẻ ngu ngốc. Bây giờ Philip sẽ phải cứng rắn để chứng tỏ rằng ông nghiêm ngặt.
Jack nói một cách khổ sở: “Nhưng ông không thể xây sai một kiểu nhà thờ chỉ để trừng phạt tôi.”
Remigius thích thú nói: “Cậu sẽ phải bỏ người phụ nữ đó.”
“Khốn nạn, Remigius,” Jack nói. “Cô ta có con với tôi – nó đã một tuổi.”
Remigius ngồi xuống với một cái nhìn hài lòng.
Philip nói: “Jack, nếu cậu nói như thế trong nhà hội, cậu sẽ phải đi ra.”
Jack biết cậu phải bình tĩnh nhưng cậu không thể. “Nhưng nó lố bịch!” cậu nói. “Ông nói là tôi phải bỏ vợ tôi và con chúng tôi! Đó không phải là luân lý, đó là bắt bẻ!”
Sự tức giận của Philip đã nguôi ngoai đi một chút, và Jack nhìn thấy nét đồng cảm quen thuộc trong đôi mắt xanh sáng của ông. Ông nói: “Jack, cậu tiếp cận luật của Thiên Chúa một cách thực dụng nhưng chúng tôi thích cứng rắn – đó là lý do tại sao chúng tôi là tu sĩ. Và chúng tôi không thể chỉ định cậu là người xây dựng chính trong khi cậu đang sống trong tình trạng hôn nhân bất chính.”
Jack nhớ lại một đoạn Kinh Thánh. “Chúa Giêsu nói: ‘Ai trong các ông vô tội, hãy ném đá người này trước đi.’”
Philip nói: “Vâng, nhưng Chúa Giê Su nói với người đàn bà ngoại tình: ‘Đi, và đừng phạm tội nữa.’” Ông quay về phía Remigius. “Tôi cho rằng anh sẽ không chống lại nữa, nếu tình trạng hôn nhân bất chính này được giải quyết.”
“Dĩ nhiên!” Remigius nói.
Bất chấp sự tức giận và đau khổ của cậu, Jack nhận thấy Philip đã qua mặt Remigius một cách gọn gàng. Ông đã đưa vấn đề hôn nhân bất chính thành câu hỏi quan trọng, qua đó đặt toàn bộ vấn đề về thiết kế mới qua bên cạnh. Nhưng Jack chưa sẵn sàng theo cách đó. Cậu nói: “Tôi không muốn rời cô ta!”
Philip nói: “Nó không kéo dài lâu.”
Jack im lặng. Điều đó làm cậu ngạc nhiên. “Ý ông muốn nói gì?”
“Cậu có thể cưới Aliena nếu hôn nhân trước của cô có thể được công nhận là vô hiệu.”
“Điều đó có thể thực hiện được không?”
“Nó sẽ nhanh chóng, nếu, như cậu nói, hôn nhân đó không thành sự.”
“Tôi sẽ phải làm gì?”
“Xin tòa án giáo hội. Thông thường nó sẽ là tòa án của giám mục Waleran, nhưng trong trường hợp này cậu có lẽ nên đi thẳng tới tổng giám mục thành Canterbury.”
“Và tổng giám mục có bắt buộc phải đồng ý không?”
“Khi nó đúng, vâng.”
Đó không phải là câu trả lời hoàn toàn rõ ràng, Jack nhận ra. “Nhưng trong thời gian đó chúng tôi có phải sống xa nhau không?”
“Nếu cậu muốn được chỉ định làm người xây dựng chính của nhà thờ chính tòa Kingsbridge – có.”
Jack nói: “Ông yêu cầu tôi chọn lựa giữa hai cái mà tôi yêu nhất trên trần gian này.”
Philip nói: “Không lâu đâu.”
Giọng nói của ông làm cậu nhìn lên: có một sự đồng cảm thực sự trong đó. Jack nhận ra Philip thực sự buồn khi phải quyết định việc này. Điều đó làm cậu bớt tức giận nhưng cậu lại buồn hơn. Cậu hỏi: “Bao lâu?”
“Chừng một năm.”
“Một năm!”
“Cậu không phải sống ở thành phố khác,” Philip nói. “Cậu vẫn có thể thấy Aliena và đứa bé.”
“Ông có biết là cô ấy đã đi đến Tây Ban Nha tìm tôi không?” Jack nói. “Ông có thể tưởng tượng điều đó không?” Nhưng các tu sĩ không có quan niệm về tình yêu. Cậu cay đắng nói: “Bây giờ tôi phải nói với cô ấy rằng chúng tôi phải sống xa nhau.”
Philip đứng lên và đặt một tay lên vai Jack. “Thời gian sẽ trôi qua nhanh hơn cậu nghĩ, tôi hứa với cậu,” ông nói. “Và cậu sẽ bận rộn – trong việc xây dựng nhà thờ chính tòa mới.”
II
Khu rừng đã phát triển và thay đổi trong tám năm qua. Jack đã nghĩ cậu sẽ chẳng bao giờ đi lạc trong lãnh địa mà cậu biết rõ như mu bàn tay cậu. Những con đường mòn cũ đã mọc đầy cỏ, những con đường mới được tạo ra do nai, heo rừng và ngựa hoang, những con suối thay đổi khúc quanh, những cây già đã gẫy đổ và những cây non đã cao hơn. Tất cả dường như nhỏ đi: khoảng cách như ngắn lại và đồi núi không quá dốc. Điều ngạc nhiên nhất là cậu thấy mình lạ lẫm ở đây. Khi một con nai nhỏ nhìn cậu, sợ hãi chạy qua khu rừng thưa, Jack không biết nó thuộc gia đình nào và mẹ nó ở đâu. Khi một đàn vịt bay lên, cậu không còn biết như xưa, không còn biết chúng bay lên từ mặt nước nào và tại sao. Và cậu lo lắng vì cậu không biết những người sống ngoài vòng pháp luật ở đâu.
Cậu đã cưỡi ngựa cả đoạn đường từ Kingsbridge tới đây, nhưng cậu đã xuống ngựa ngay khi cậu rời khỏi con đường chính, bởi vì cây mọc quá thấp trên đường mòn không cho phép cậu cưỡi ngựa qua. Trở lại nơi cậu đã trải qua thời niên thiếu làm cậu cảm thấy buồn vô cớ. Cậu đã chẳng bao giờ hiểu rõ được giá trị của đời sống đơn giản khi đó, bởi vì cậu chưa biết đời sống khác. Cậu thích nhất là dâu tây, và cậu biết rằng mỗi mùa hè, trong một vài ngày, có rất nhiều trái mọc trên rừng mà cậu có thể ăn bao nhiêu cậu muốn. Ngày nay mọi thứ không còn đơn giản: tình bạn khó khăn của cậu với Tu viện trưởng Philip; tình yêu thất vọng cậu dành cho Aliena; cao vọng xây nhà thờ chính tòa đẹp nhất trên thế giới; nhu cầu cháy bỏng muốn tìm ra sự thật về bố cậu.
Cậu tự hỏi mẹ cậu đã thay đổi như thế nào trong hai năm qua khi cậu đi xa. Cậu háo hức mong gặp lại bà. Dĩ nhiên cậu có thể đứng vững một mình, nhưng nó an tâm hơn khi có một người trong đời, một người luôn sẵn sàng chiến đấu cho cậu, và cậu đã mất cảm giác thoải mái đó.
Cậu đã mất cả ngày trời để đến được nơi cậu và mẹ cậu đã sống. Bây giờ buổi chiều mùa đông ngắn nên trời tối nhanh. Chẳng bao lâu sau cậu phải từ bỏ ý định đi tìm hang động cũ của họ, và tập trung vào việc tìm kiếm một chỗ có mái che để qua đêm. Trời sẽ lạnh. Tại sao tôi lo lắng? Cậu tự hỏi. Tôi đã quen trải qua nhiều đêm trong rừng.
Sau cùng bà tìm thấy cậu.
Cậu đang muốn bỏ cuộc. Con đường mòn qua những bụi cây mà cậu đi theo, có lẽ chỉ được dùng cho chồn và cáo, bất ngờ chấm dứt. Tốt nhất là lên quay về cùng con đường đó. Cậu quay ngựa lại và xém đạp lên bà.
“Con đã quên cách di chuyển âm thầm trong rừng,” bà nói. “Mẹ có thể nghe thấy tiếng động của con cách đây một dặm.”
Jack mỉm cười. Bà không có gì thay đổi. “Chào mẹ,” cậu nói. Cậu hôn lên má bà, rồi, trong sự xúc động cậu ôm bà.
Bà sờ vào mặt cậu. “Con gầy quá!”
Cậu nhìn bà. Bà đen đi và khỏe mạnh, tóc bà vẫn dày và đen, không có sợi tóc bạc nào. Mắt bà vẫn còn giữ màu vàng ròng và dường như nó vẫn có thể nhìn thấu cậu. Cậu nói: “Mẹ vẫn như ngày nào.”
“Con đã đi đâu?” bà hỏi.
“Tất cả con đường đến Compostela, và xa hơn nữa, tới Toledo.”
“Aliena đi tìm con –“
“Cô ấy đã tìm thấy con. Cảm ơn mẹ.”
“Mẹ rất vui.” Bà nhắm mắt lại như muốn nói một lời cầu nguyện tạ ơn. “Mẹ rất vui.”
Bà dẫn cậu đi qua rừng đến hang động, xa đó chưa đến một dặm: thật ra trí nhớ của cậu không tệ lắm. Bà đã đốt một lò sưởi và ba cây nến. Bà đưa cho cậu một ly rượu táo bà tự làm bằng táo và mật ong rừng, và họ nướng một vài hạt dẻ. Jack có thể nhớ những thứ mà người sống trong rừng không thể tự làm được, và cậu mang cho mẹ cậu dao, dây, xà bông và muối. Bà bắt đầu lột da một con thỏ. Cậu hỏi: “Mẹ có khỏe không?”
“Mẹ khỏe,” bà nói; rồi bà nhìn cậu và nhận ra cậu hỏi bà một cách nghiêm trang. “Mẹ buồn vì thợ xây Tom,” bà nói. “Nhưng ông đã chết và mẹ không quan tâm đến việc lấy người chồng khác.”
“Ngoài ra, mẹ có hạnh phúc ở đây không?”
“Có và không. Mẹ đã quen sống trong rừng. Mẹ thích một mình. Mẹ không quen để các linh mục nói mẹ phải cư xử làm sao. Nhưng mẹ nhớ con, và Martha, và Aliena; và mẹ muốn nhìn thấy cháu của mẹ nữa.” Bà mỉm cười. “Nhưng mẹ chẳng bao giờ có thể về sống lại ở Kingsbridge, nhất là sau khi đã nguyền rủa một hôn nhân trong nhà thờ. Tu viện trưởng sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho mẹ về việc đó. Tuy nhiên, nếu mẹ đã đem con và Aliena về lại với nhau thì mẹ đã thấy xứng đáng.” Từ nơi làm việc bà nhìn lên cậu với một nụ cười hài lòng. “Con có thích đời sống hôn nhân không?”
“Có,” Cậu nói ngập ngừng, “chúng con chưa cưới nhau. Dưới mắt giáo hội, Aliena vẫn còn kết hôn với Alfred.”
“Đừng quá ngu dại. Làm sao giáo hội biết được việc đó?”
“Vâng, họ biết họ đã làm lễ cưới cho ai, và họ sẽ không để con xây nhà thờ chính tòa mới trong khi con sống với vợ của một người khác.”
Mắt bà lóe lên giận dữ. “Vì thế con phải sống xa cô ấy?”
“Vâng. Cho đến khi hôn nhân của cô ấy được công nhận là vô hiệu.”
Bà mẹ đặt da thỏ sang một bên. Với con dao sắc trong bàn tay vấy máu bà tách thịt ra khỏi xương và bỏ từng miếng vào nồi nấu trên lửa. “Tu viện trưởng cũng đã làm điều đó với mẹ khi mẹ ở với Tom,” bà nói, trong khi bà cắt thịt. “Mẹ biết tại sao ông lại phát điên lên với những người yêu nhau, bởi vì ông không được phép yêu. Ông không cho người khác hưởng cái mà ông bị cấm. Dĩ nhiên, ông không thể làm gì được khi cặp hôn nhân được chính thức cưới trong nhà thờ. Còn ngoài ra, ông sẽ có cơ hội làm hỏng mọi thứ để làm cho mình cảm thấy tốt hơn.” Bà cắt đứt bàn chân con thỏ và ném nó vào thùng rác.
Jack gật đầu. Cậu đã chấp nhận những gì không tránh được, nhưng mỗi tối khi cậu chào từ giã Aliena và đi ra khỏi cửa nhà cô, cậu cảm thấy tức giận Philip và cậu hiểu sự oán giận dai dẳng của mẹ. “Nhưng nó chỉ kéo dài một thời gian ngắn thôi,” cậu nói.
“Còn Aliena cảm thấy như thế nào về việc này?”
Jack nhăn nhó. “Không tốt. Nhưng cô nghĩ nó là lỗi của cô vì cô đã cưới Alfred.”
“Vâng, nó là như thế. Và nó là lỗi của con vì con nhất quyết muốn xây nhà thờ.”
Cậu lấy làm tiếc vì bà không chia sẻ viễn tượng của cậu. “Mẹ à, xây những công trình khác không có giá trị. Nhà thờ lớn hơn, cao hơn và đẹp hơn, xây khó khăn hơn, có nhiều trang trí và công trình điêu khắc hơn bất cứ công trình xây dựng nào khác.”
“Và con không hài lòng với bất cứ việc gì khác.”
“Vâng, đúng như vậy.”
Bà lắc đầu. “Mẹ chẳng bao giờ biết từ đâu con đã có ý tưởng rằng con được sinh ra để làm những chuyện to lớn.” Bà bỏ phần còn lại của con thỏ vào nồi và làm sạch phần da, vì bà còn muốn sử dụng da nó. “Chắc chắn con đã không được thừa hưởng nó từ tổ tiên của con.”
Đó là lời gợi ý mà cậu đã chờ đợi. “Mẹ à, khi con ở nước ngoài, con đã biết thêm về tổ tiên của con.”
Bà ngưng cạo da và nhìn cậu: “Con muốn nói gì?”
“Con đã tìm được gia đình của bố con.”
“Trời ơi!” Bà bỏ rơi tấm da. “Làm sao con có thể tìm được? Họ ở đâu? Họ ra sao?”
“Đó là một thành phố ở Normandy, gọi là Cherbourg. Đó là nơi bố con xuất thân.”
“Làm sao con biết chắc chắn được về điều đó?”
“Con trông rất giống bố con đến nỗi họ tưởng con là hồn ma.”
Bà mẹ nặng nề ngồi xuống chiếc ghế. Jack hối hận đã làm bà bị sốc. Cậu không nghĩ thông tin của cậu lại làm bà bị khủng hoảng như vậy. Bà nói: “Người nhà… người nhà của bố con trông ra sao?”
“Bố của bố con đã qua đời, nhưng mẹ của bố con vẫn còn sống. Sau khi bà nội được thuyết phục rằng con không phải là hồn ma của bố con, bà rất tốt với con. Anh lớn của bố là một thợ mộc, có vợ và ba người con. Họ là anh em họ của con.” Cậu mỉm cười. “Nó không vui sao? Chúng ta có họ hàng thân thuộc.”
Những ý tưởng đó dường như làm bà khó chịu và buồn rầu. “Ồ, Jack, mẹ xin lỗi vì đã không nuôi con lớn lên trong một gia đình bình thường.”
“Con không nghĩ như vậy,” cậu nói nhẹ nhàng. Cậu bối rối khi mẹ cậu tỏ ra hối hận: nó không đúng với cá tính của bà. “Nhưng con vui vì con gặp họ hàng của con. Ngay cả nếu con không gặp lại họ nữa, nó vẫn tốt khi con biết có họ ở đó.”
Bà gật đầu buồn bã. “Mẹ hiểu.”
Jack hít một hơi thở sâu. “Họ nghĩ bố con đã chết đuối trong một cuộc đắm tàu hai mươi bốn năm về trước. Ông ở trên một con tàu tên là ‘Tàu Trắng’, bị chìm khi ra khỏi Barfleur. Người ta nghĩ mọi người trên tàu đều chết đuối. Hiển nhiên là bố con đã sống sót. Nhưng một cách nào đó họ chẳng biết điều đó, bởi vì ông chẳng bao giờ trở lại Cherbourg.”
“Ông đi tới Kingsbridge,” bà nói.
“Nhưng tại sao?”
Bà thở dài. “Ông bám vào một chiếc thùng và trôi dạt vào bờ biển gần một lâu đài,” bà kể. “Ông vào lâu đài báo cáo về việc đắm tàu. Có nhiều nam tước quyền thế ở trong lâu đài và ngạc vì sự xuất hiện của ông. Họ bỏ tù ông và đem ông đến nước Anh. Sau vài tuần hay vài tháng – ông đã bị lẩn thẩn – ông được đem đến Kingsbridge.”
“Ông có kể gì về việc đắm tàu không?”
“Ông chỉ nói rằng con tàu chìm xuống rất nhanh như thể nó bị đục thủng.”
“Dường như người ta muốn bịt miệng ông lại.”
Bà gật đầu. “Và rồi khi họ nhận ra họ không thể giữ ông mãi trong tù, họ giết ông.”
Jack quỳ xuống trước mặt bà và ép bà nhìn vào cậu. Bằng giọng nói run run vì xúc động cậu hỏi: “Nhưng họ là ai?”
“Trước đây con đã hỏi điều đó.”
“Và mẹ chưa trả lời con.”
“Bởi vì mẹ không muốn con lãng phí cả đời để trả thù cho cái chết của bố con.”
Bà vẫn coi cậu là một đứa bé, cậu cảm thấy, vì thế bà muốn dấu những thông tin không tốt cho cậu. Cậu cố gắng tỏ ra là một người lớn và bình tĩnh. “Con dự định dùng cả đời để xây nhà thờ chính tòa Kingsbridge và có con cái với Aliena. Nhưng con muốn biết ai đã treo cổ bố con. Và chỉ có những người đã làm chứng dối chống lại ông mới có thể trả lời được. Vì thế con muốn biết họ là ai.”
“Vào thời điểm đó, mẹ không biết tên họ.”
Cậu biết bà đang tìm cách lảng tránh và nó làm cậu tức giận. “Nhưng bây giờ mẹ biết!”
“Đúng, bây giờ mẹ biết,” bà nói trong nước mắt, và cậu nhận ra rằng chuyện này làm cho bà đau khổ cũng như cậu. “Và mẹ sẽ nói cho con biết, vì mẹ thấy con sẽ không bao giờ ngừng hỏi về việc này.” Bà hỉ mũi và lau nước mắt.
Jack hồi hộp chờ đợi.
“Có ba người: một tu sĩ, một linh mục và một hiệp sĩ.”
Jack nhìn bà. “Tên họ là gì?”
“Con muốn hỏi họ tại sao họ đã khai dối?”
“Vâng.”