Chương sáu ❖ I ❖
Trên đường đi tôi đã học được những công việc nhà bếp và lúc đến Hong Kong nhờ sự giúp đỡ tận tình của anh bếp, tôi đã xin được việc làm trên tàu “Grievers”.
Tàu này thường làm những chuyến đi gấp sang San Francisco. Nhưng lại một lần nữa tôi gặp chuyện rủi. Khi tầu đã đi được ba ngày, trong lúc đưa món thịt rán vào phòng ăn cho khách ăn trưa, tôi vô ý đánh đổ nước xốt nóng vào áo gi-lê của một ông bộ trưởng Argentine. Điều này đã không xảy ra, nếu hôm trước, lúc ở dưới hầm tàu người ta không kể cho tôi nghe những chuyện kinh khủng về thủy lôi. Đúng lúc tôi đưa món thịt rán lên thì bỗng nghe có tiếng đánh ầm khiến tôi tưởng tàu “Grievers” đụng phải thủy lôi. Hóa ra đó chỉ là tiếng dàn nhạc chơi bài “Hành khúc Cairo”
Để trừng phạt, người ta đuổi tôi từ hiệu ăn xuống bếp làm công việc điều chỉnh van dẫn nước nóng vào các thùng rửa bát. Nhưng khi bờ California đã hiện lên ở phía chân trời thì người giúp việc thuyền trưởng thở dài và dịu dàng nói với tôi:
- Phải chia tay nhau rồi, Samuel ạ!
Và thế là chúng tôi từ biệt nhau.
San Francisco đã thân ái đón chào tôi. Tôi không có tài nghệ sĩ nên chẳng thấy cần thiết phải đến kinh đô điện ảnh Hollywood làm gì. Nhưng một nhà máy đồ hộp nổi đã sẵn lòng dung nạp tôi. “Buksus” là một con tàu - nhà máy lớn. Nó ra khơi khoảng hai tuần để săn một loại cá trích rất ngon, cả cá salmon lẫn cá hồi không thể nào so sánh với nó được. Người ta giao cho tôi phụ trách một trong sáu cái thùng khổng lồ chứa đầy cá sardine còn sống. Tàu “Buksus” ném những cá sardine sống xuống biển để nhử đàn cá trích đến gần tàu.
Cuộc đánh cá bắt đầu. Không một loại lưới nào có thể bắt được cá trích.
Chúng chỉ đuổi theo cá sardine. Do đó người ta thả từ trên boong tàu xuống sát mặt nước những chiếc cầu gỗ hẹp, và bố trí những người câu có kinh nghiệm đứng trên đó.
Cứ hai người phụ trách một cần câu, còn người thứ ba cầm vợt để vớt, cá tham mồi đớp vào những con sardine đã móc vào lưỡi câu. Những người câu kéo cá câu được lên rồi ném vào những thùng gỗ lớn, từ đấy cá lập tức được đưa chế biến. Chưa đầy một giờ sau cá đã được bỏ thêm gia vị và đưa xuống hầm lạnh sau khi đóng hộp.
Sau khi đã ném đủ mồi nhử xuống nước, tôi đứng cạnh thùng cá trích nhìn xuống.
Những người câu cá làm việc rất nhanh nhẹn. Chỉ trong chốc lát họ đã gỡ được cá câu, móc cá mồi vào lưỡi, thả cần rồi lại lập tức giật lên và tháo gỡ những con cả trích tham ăn ra khỏi lưỡi câu.
Những người câu cá được hưởng công khoán. Công việc của họ rất nặng và nguy hiểm. Đôi khi xuất hiện cá mập, chúng ăn nghiến ngấu những con cá sardine và làm đàn cá trích phải bỏ chạy. Lúc ấy người ta dùng súng bắn cá mập, thay đổi vị trí tàu và việc săn cá lại tiếp tục. Một tiếng thét vang lên:
- Ê ném cá mồi, mau! Về phía bên trái nhé!
Những cá mập, những thú dữ ghê gớm dưới nước, những con hổ biển thường không ngừng theo dõi “Buksus”. Chúng thận trọng không nhô lên trên mặt nước nữa. Lúc ấy việc câu cá càng nguy hiểm hơn, cá mập có thể đớp mất bàn chân người câu nếu anh ta mải nhìn và thang gỗ bị sóng táp nước lên.
Có lần chúng tôi nhìn thấy một con cá mập lớn. Nó nhấp nhô trên mặt đại dương lặng sóng trông như đã chết. Một thủy thủ trẻ nhưng từng trải là Tilboy khẳng định rằng nó vẫn sống, rằng hình như cá mập biết tự thôi miên và bập bềnh trên đại dương suốt ngày vào lúc im sóng gió. Chỉ có sự mát mẻ của chiều tối mới làm cho chúng tỉnh lại, lúc ấy chúng trở nên đặc biệt dữ tợn và ham mồi.
Đêm nào tôi cũng nằm mơ thấy chuyện câu cá và thức giấc luôn. Tôi thấy như Tilboy đang thét bên tai:
- Ê ném cá mồi mau! Về bên phải tầu nhé!..
Nếu tôi đứng làm việc ở bên trái boong, khi nghe thấy những lời ấy tôi phải chạy thật nhanh qua miệng thùng trên một tấm gỗ hẹp và trơn rồi dùng gầu xúc ném cá sardine xuống biển.
Tôi không thích cái trò chạy qua miệng thùng này. Tilboy làm mọi người sợ hãi vì câu chuyện về một thằng bé hầu bếp, biến đi đâu một trong chuyến đi lần trước. Người ta tưởng nó rớt xuống biển. Mãi tới khi trở về đến cảng, lúc trong thùng đã cạn hết cả sardine người ta mới tìm thấy thằng bé chết chìm dưới đáy thùng. Có lẽ nó đùa nghịch chạy trên tấm gỗ rồi lộn cổ xuống đấy.
Tôi đã quen với những sinh hoạt trên tàu “Buksus”, toàn thân tôi nồng nặc mùi cá sardine, tôi đã không bi say sóng trong lúc bão táp, và khi tàu chòng chành vì sóng lớn, tôi chạy đi chạy lại trên boong mà không cần cầm vào tay vịn.
Sau bốn đợt đánh cá, tàu “Buksus” quay trở về, đầy cá trích. Chúng tôi vẫn giữ hướng cũ về phía Todos Santos, nó nằm cạnh chí tuyến Cancer. Sau khi nhận được bức điện vui mừng về chuyến đi may mắn, có lẽ những ông chủ nhà máy nổi này đã tính toán ngay tiền lời lãi của mình trong các văn phòng. Trên boong, dưới bóng của những chiếc thùng rỗng các thủy thủ tàu “Buksus” lao vào đánh cờ và chơi xúc xắc. Có lẽ đây là lần đầu tiên tôi may mắn. Tôi chơi xúc xắc với Tilboy và tôi sóc năm lần liền, mỗi lần được hai điểm sáu. Vì cay cú, Tilboy đặt tiền gấp đôi, nhưng những số tiền ấy vẫn liên tiếp rơi vào túi tôi. Tilboy như phát điên lên, anh ta mượn xúc xắc của một thủy thủ khác, mặc dầu vậy, số đen vẫn bám chặt lấy anh a. Tilboy thua, phải cởi chiếc áo cánh rất đẹp trao cho tôi và mặc vào người chiếc áo cũ rách nát của tôi trong tiếng cười rộ của mọi người. Lòng tôi tràn ngập vui sướng vì thắng lợi, nhưng tôi cố giữ vẻ lạnh lùng.
Tilboy gầm lên:
- Được, sẽ chơi cho đến tận San Francisco! Tao sẽ gỡ lại dù có phải đem hồn đi cắm cho quỷ...
Anh ta đặt ngay cái ví nhỏ nhiều màu lên trên bàn xúc xắc và lại mất nốt cho tôi.
Con người không may gầm thét, máu dồn lên mặt đó dừ:
- Samuel, tao muốn biết mày đã bịp bợm ra sao!
- Hắn chơi rất trung thực, - những thủy thủ đứng xem quanh đấy lên tiếng ủng hộ tôi.
Người trực ban nhìn qua ống nhòm. Tàu “Buksus” kéo một hồi còi ngắn.
- Mũi Luke thần thánh kia rồi, - một người nào đó nói.
Tất cả mọi người đều quay đầu nhìn về phía boong bên phải. Chúng tôi đang đi ngang qua mũi phía nam California.
- Nào, đến lượt mày đấy, Samuel, - Tilboy nói và đưa cho tôi cái ống có xúc xắc bên trong.
Tôi giơ tay cầm ống…
Đúng lúc ấy boong tàu “Buksus” dựng đứng lên, một thanh gỗ từ phía chiếc thùng lớn bay về phía tôi, nhưng một đầu của nó bay theo đà đập vào giữa mặt Tilboy. Một người miệng há hốc, mắt trợn ngược bay vọt qua trước mặt tôi. Không hiểu sao tôi lại nắm chặt lấy ống xúc xắc rồi nhảy luôn xuống nước.
Tôi nghe thấy một tiếng kêu thất thanh đầy tuyệt vọng:
- Đâm vào mìn rồi!
Mũi tàu bị vỡ toang, phía lái bị nhấc bổng lên, chân vịt ở phía dưới nó vẫn quay tít, “Buksus” đang chìm nhanh xuống nước. Mọi người nhảy xuống biển từ phía lái và phía trái boong tầu. Một người nào đấy đã thả xuống một vài chiếc xuồng và cả một tá phao cấp cứu. Tôi bơi ra xa để khỏi bị cuốn vào luồng nước xoáy tạo ra ở phía dưới con tàu đang chìm. Khi nước ngập đến những nồi hơi thì một tiếng nổ kinh hồn vang lên và con tàu đang trùm lấp trong những cuộn hơi và khói bị bửa ra làm đôi. Trên sóng thấy nhấp nhô đủ thứ: người, gỗ, ghế, các loại mảnh vụn. Mọi người giành giật nhau ở cạnh những chiếc xuồng. Họ đánh nhau để giành lấy cho mình một chỗ. Vì đánh nhau, nhiều người bị đuối sức và chìm nghỉm. Tôi bơi ra xa, nằm ngửa trên mặt nước và tính kế thoát thân. Nếu không sợ cá mập xơi tái thì tôi có thể bơi dưỡng sức vào đến bờ. Thế là tôi bắt đầu bơi về phía tây.
Nước triều lên đã đưa tôi vào bờ và quẳng tôi lên một bãi cát mọc toàn những bụi xương rồng nhỏ ở cách San Jóse mười hải lý, gần cửa vịnh California.
Những người đánh cá tìm thấy tôi ở đây, họ cho tôi nằm cuốn tròn trong vải buồm và ngủ một giấc đẫy, họ chia xẻ cho tôi một bữa ăn giản dị và từ chối đồng tiền mà tôi biếu họ để tỏ lòng biết ơn sự đối xử tử tế. Họ nói tiếng Tây-ban-nha, và tôi chỉ hiểu mỗi một từ đã làm tôi sửng sốt, đó là “Mazatlán”.
Cuối cùng tôi mới vỡ lẽ rằng ở trên bờ đối diện là Mazatlán, một thành phố Mexico. Tôi đã phải tự nguyền rủa mình vì hiểu biết quá ít ỏi về địa lý. Mazatlán thực ra ở Mexico chứ không phải ở Úc châu. Thế là tôi nhớ ngay đến Rolls. Vì ông ta đang sống ở Mazatlán. Có lẽ hiện nay ở đấy còn có cả chú ông ta nữa, giáo sư Milrois… Ồ nhất định tôi phải tự mình kể mọi chuyện cho giáo sư biết!
Tôi nghĩ ngợi miên man khi nhìn thấy bóng dáng lờ mờ của Mazatlán ở phía xa.
Nếu gặp cả Vandock ở đấy thì sao? Hắn đã từng muốn đến chỗ Rolls... Dù sao Vandock cũng không phải là thằng tồi. Hắn đã nhận hết tội về mình, lại còn bố trí cho tôi chạy khỏi Rangoon một cách tôi không cần mất một xu nào. Đồng thời hắn lại chịu ơn tôi. bởi vì tôi đã giúp hắn lấy trộm rắn jirr ở công viên.
Như thế ở Mazatlán chắc có những người sẽ giúp đỡ tôi. Nói thực lòng không hiểu sao tôi lại trông chờ vào Vandock nhiều hơn cả. Tên lưu manh ấy sẽ bầy mưu tính kế cho tôi. Thực ra hãng đồ hộp rất có thể sẽ buộc tội toàn thủy thủ trên tàu “Buksus”, rằng việc tàu đâm phải mìn là do sự ngớ ngẩn của họ.
Dùng con thuyền hai buồm “Revilla” số phận danh nghĩa người đánh cá Quartaro và ba đứa con trai của ông đã quẳng tôi lên Mazatlán.
❖ II ❖Mặt trời Mexico ác nghiệt hơn mặt trời Rangoon Nó là thứ mặt trời nóng bỏng nhất trong các thứ mặt trời nhiệt đới. Nó thiêu đốt những dãy núi Sierra Madre đến nỗi hơi nóng bốc lên từ đáy ập vào Mazatlán như gấp một trăm lần so với những chiếc quạt làm nguội máy trên tàu “Buksus” phả hơi nóng vào người.
Những ngôi nhà nhỏ bằng đá trang lẩn dưới những bóng cây dừa, chuối, cam chạy dài từ ngoài vịnh vào thành từng nấc một trông đẹp như tranh vẽ. Nhiệm vụ trước mắt tôi là đi tìm tiến sĩ Rolls. Tôi không biết một chữ Tây-ban-nha nào. Kể ra cũng có thể nói tiếng Latin với một ông cố đạo nào đấy mặc áo dài đen và đội mũ rộng vành đang đạo mạo đi trên bờ biển, nhưng như thế sẽ gây nên sự tò mò không cần thiết của những người đi đường. Tôi cũng chẳng liều mạng hỏi những lão cảnh sát đi đất đang ngồi ngủ lim dim dưới bóng những cây dừa ở các ngã tư đường làm gì.
Tôi vào quán uống nước, mua một điều xì gà, rút chiếc ví nhỏ nhiều màu ra rồi trả cho người phụ nữ Mexico mắt đen một trong những đồng tiền mà tôi đã được của Tilboy.
Bà bán hàng vừa mỉm cười vừa nói. Bằng điệu bộ của bà tôi hiểu rằng bà không có tiền trả lại. Tôi phẩy tay nói:
- Thưa bà, tôi sẽ còn ghé vào hàng bà. Bây giờ ta sẽ thanh toán...
Ở vùng ven Mazatlán có một ngôi nhà hai tầng làm tôi rất thích. Nó nổi bật lên trên nền ra một vườn đầy hoa. Tôi dừng lại phía trước cửa vườn bằng sắt có những hình nổi và ngắm nghía những bông hồng lộng lẫy. Những tấm mành trên các cửa sổ đều buông kín. Bỗng nhiên một trong những tấm mành cửa sổ ở tầng hai vén lên. Một cánh tay đàn ông mở tung cửa sổ và cái giọng quen thuộc của Vandock thét, gọi tôi với vẻ hồ hởi:
- Chao ôi! Cậu đấy ư, Pingle thân mến?
Tất nhiên tôi vui sướng trả lời:
- Trời, tôi chứ còn ai nữa. Vandock đấy phải không?
- Mình đây. Vào đi nhanh lên, vặn quả đấm ở cửa ấy. Cứ đàng hoàng, ở đây không có chó đâu…
Rõ ràng Vandock ám chỉ tới câu chuyện bên cửa sổ phòng giáo sư trước đây. Tôi mạnh dạn bước vào trong vườn. Giọng Vandock vang lên từ phía trong cửa sổ:
- Pingle ạ. mình đang tắm nước lạnh. Ở cái thành phố khốn kiếp này trời nóng độc địa. Ông chủ mình đi có việc, khoảng hai ngày nữa mới về. Chúng mình tha hồ mà hàn huyên tâm sự. Cậu vào nhà đi, phòng mình ở bên trái ấy. Hãy đợi mình ở đấy và cứ tự nhiên như ở nhà. Xong ngay đây, rồi mình sẽ xuống. Và cậu cũng sẽ tắm.
Tôi làm y lời Vandock. Tôi tìm vào phòng Vandock và thoải mái ngả người trên chiếc ghế xích đu bằng mây. Trong nhà lặng lẽ và mát mẻ khiến tôi bất giác thiu thiu ngủ.
Một người nào đấy thận trọng mở cánh cửa phía sau tôi bước vào phòng.
- Thật vui sướng được gặp lại anh... - tôi mở đầu, nhưng lúc quay lại thì không phải Vandock.
Một viên cánh sát dí ngay nòng khẩu revolver vào mũi tôi.
- Phải, lâu nay mày không gặp chúng ông. Và cũng chưa được ngửi cái bông hoa kim hương này.
Tôi giật mình ngả người vào lưng ghế và chổng vó lên trời. Viên cảnh sát liền bắn một phát súng. Viên đạn trúng vào một vật bằng thủy tinh nào đó. Những mảnh vỡ bắn tung tóe khắp nơi. Bọn cảnh sát mặc nửa thường phục bẻ quặt tay tôi ở phía sau và chẹn cổ tôi ở phía trước!
- Gông tay tên cướp này lại! - viên chỉ huy ra lệnh. Bọn họ khóa nghiến vòng sắt và đẩy tôi nằm lăn dưới sàn.
Ngoài cuộc sống ra, tôi còn có gì nữa mà sợ, vì thế mới thét lên:
- Các người làm gì vậy, đồ quỷ tha ma bắt? Ở đây người ta tiếp đón những người du lịch theo kiểu này phải không?
Một cú đấm vào hàm dưới đã cắt đứt những lời lẽ ngoại giao tôi vừa nói. Bằng đầu lưỡi tôi cảm thấy được một chiếc răng đã bị lung lay. Bọn họ nhấc tôi lên rồi đặt đứng giữa phòng. Viên chỉ huy bệ vệ ngồi vào ghế xích đu.
- Carnero, mày lẻn vào đây bằng cách nào? - viên chỉ huy hỏi với giọng rất ôn tồn và đồng thời bắn luôn một phát súng ở phía trên tai bên trái tôi, khiến tôi phải ngước mắt nhìn lên lên trần.
- Thưa các ngài, nếu tôi bị điếc đặc hai tai thì sẽ không thể nào nghe rõ được những câu hỏi của các ngài, tôi nói lý lẽ nhưng vẫn sẵn sàng chờ đợi một phát thứ hai sắp bắn trên phía tai phải.
- Tên cướp, trả lời đi, mày vào đây bằng cách nào? - một lần nữa cái giọng ôn tồn lại cất lên. Và quả tôi đã không lầm. Phát súng tiếp theo bay vèo qua phía bên phải.
Nỗi căm giận đến điên cuồng dâng lên trong lòng tôi như cột thủy ngân vọt cao, như khi đưa hàn thử biểu ra ngoài ánh nắng.
- Cứ bắn đi quân khôn khiếp, có đến một trăm phát tao cũng không sợ! - tôi chửi chúng theo kiểu Tilboy vẫn thường dùng. - Tao rất thích cái lối làm quen của chúng mày. Hay đưa tao đến chỗ ngài lãnh sự…
Bọn cảnh sát cười rộ.
- Quân vờ vĩnh khéo nhỉ!
Viên cảnh sát trưởng vùng dậy đứng trước mặt tôi, nói:
- Nghe đây! Tao, cảnh sát trưởng Pedro Muranes del Aronzo buộc tội mày, tên cướp Carnero, mày chính là Dig Alvarez, lại cũng chính là Nick Tilboy, mày đã phạm vô số tội ác, cướp bóc và giết người, tội cuối cùng trong những tội ấy là vụ giết tiến sĩ Thomas Rolls trong ngôi nhà của ông, nơi hiện mày đang bị bắt giữ. Khám người hắn!
Nếu người ta có nhúng tôi vào nước sôi rồi lại nhúng vào nước lạnh và cứ làm lại như vậy, thì việc ấy cũng không làm tôi xúc động bằng cái tin về vụ án mạng Rolls.
- Nhưng tôi không hề biết tên Carnero nào hết... Tôi là Samuel Pingle, - tôi nói lẩm bẩm, chữ nọ lẫn chữ kia vì cái tin đột ngột. - Phải, tôi đã biết Tilboy...
- Câm ngay, thằng đểu, không tao sẽ hạ lệnh đánh mày, - viên chỉ huy nói nhỏ. - Trên người mày là bộ quần áo của Carnero. Đây, cái ví nhiều mầu của hắn mà bất cứ người mật thám nào, từ El Paso đến Dosterro, cũng biết. Thế mà mày vẫn dám chối mày là mày à?
- Trời ơi! Lẽ nào Rolls, cháu giáo sư Milrois, bị giết ư? - tôi nói thì thầm, người tê dại đi vì kinh hoàng.
Bọn họ dẫn tôi đi, và tôi còn nghe thấy:
- Quân giết người, bây giờ mày tự sẽ nhìn thấy tất cả.
❖ III ❖Phòng của tiến sĩ Rolls, rõ ràng là nơi đã diễn ra vụ án, làm tôi sợ run lên. Sàn nhà lênh láng máu, máu vấy cả lên những bức tường. Cuộc vật lộn quyết liệt đã xảy ra giữa Rolls và tên giết người. Ghế, những ngăn để ấm chén, bàn để sách - tất cả đều đảo lộn và đổ vỡ lổng chổng. Bình đựng nước lăn lóc trên sàn, nút bị bật ra và nước đổ mất một nửa. Lẫn trong vũng nước là chiếc đồng hồ báo thức bằng đồng với kính vỡ. Tôi thấy trên bệ cửa sổ một chiếc búa đẫm máu và con dao cạo sắc mảnh.
- Tao sẽ thuật lại cho mày biết đã hành hung ở đây ra sao, - del Aronzo hầm hầm nói với tôi, - và mày chỉ còn có một việc là thừa nhận tao nói đúng. Tiến sĩ ngồi đọc sách trước cái bàn nhỏ. Mày lẻn vào từ phía sau và đập búa vào đầu ông, nhưng mày không tính được ông ông Rolls khỏe hơn mày. Ông tóm lấy mày. Mày bồi ông ta một búa nữa, ông buông mày ra rồi bỏ chạy, còn mày thì chạy theo để bồi tiếp. Và đây, con dao cạo này đã kết thúc một việc...
Tôi nói:
- Hãy cho tôi xem xác tiến sĩ Rolls bất hạnh.
- Ái chà, lõi nhỉ! - del Aronzo nghiến răng kèn kẹt. - Nhưng dù sao đó cũng là tính cách của mày. Giết người rồi dìm xuống nước để bịt đầu mối. Đi thôi. Dắt thằng đểu ấy đi!
Chúng tôi xuống dưới theo một cầu thang hẹp ở phía sau, trên các bậc thang còn thấy rõ những giọt máu.
- Đó, chính mày đã kéo thi thể ông Rolls qua đây, - del Aronzo nói, đẩy tôi xuống phía dưới và không cho tôi suy nghĩ. - Mày đã nghỉ lại ở ngưỡng cửa vì cái công việc nặng nhọc này và...
Del Aronzo mở toang cửa vào khu vườn nhiệt đới tuyệt đẹp. Cây cối đang nở hoa và tỏa hương thơm ngát. Thật kinh hãi biết bao khi nghĩ rằng một tội lỗi ghê tởm đã thực hiện trong cái thiên đường này.
Trên con đường nhỏ trải cát biển và vỏ ốc hến thấy rõ ràng những dấu vết mà kẻ giết người đã để lại khi kéo xác Rolls đi qua.
- Chà! - del Aronzo mừng rỡ thốt lên và cúi nhặt một chiếc cúc trắng bằng xà cừ. - Đây lại là một bằng chứng có thừa nữa, thế mới biết tại sao ở cầu thang chúng ta thấy ít vệt máu, còn ở đây thì hoàn toàn không thấy gì. Mày đã để thi thể chảy cạn máu ở trong phòng rồi lấy áo choàng trắng bọc lại, có lẽ thi thể bọc trong hai ba cái áo, rồi mày kéo lết đi theo những con đường này.
Đó là những việc hết sức khủng khiếp và chẳng có liên quan đến tôi một chút nào. Những xúc động ban đầu của cơn ác mộng đã dịu đi và tôi đã bắt đầu lấy lại được sự bình tĩnh vốn có. Tôi hỏi:
- Thưa ông cảnh sát trưởng, vậy tên giết người chạy về hướng nào?
- Chớ vội, Carnero, - del Aronzo trả lời với giọng nhẹ nhàng.
Từ con đường lớn có một con đường nhỏ dẫn đến bờ một cái vực dựng đứng. Ở phía dưới sóng vỗ rì rầm.
- Ở đây phải sâu tới chín mươi foot và những con mập non thích chỗ này lắm, - del Aronzo đăm chiêu nói với tôi. - Hãy nghiêng mình trước nơi an nghỉ ngàn thu của người mày giết rồi đi vào tù. Ở trong ấy mày sẽ có đủ thì giờ cầu nguyện chúa cứu vớt cái linh hồn tội lỗi của mày.
Tôi nói trịnh trọng:
- Thưa ông, xin ông một phút. Đây hoàn toàn là một sự hiểu lầm và lầm lẫn. Tôi là Samuel Pingle, một công nhân coi sóc thùng cá trên tàu “Buksus” bị đắm ở gần mũi Luke cách đây ba ngày.
- Hay lắm, nói tiếp đi. - Del Aronzo cười mỉa.
- Tôi vào đây để tìm người hầu của tiến sĩ Rolls là Vandock, người quen cũ của tôi.
- Còn chính bản thân ông Rolls thì mày không quan tâm tới chứ gì? - del Aronzo hỏi.
- Có chứ, tôi có quan tâm.
- Lạy chúa, đây là đầu tiên mày nói thật. Vì việc này, các thiên thần sẽ tha cho mày một phần trăm tội của mày. Nhưng chín mươi chín phần trăm còn lại cũng đủ để hành hạ mày dưới địa ngục cho tới ngày tận thế. Và mày lại còn ba hoa những gì về công lao của ông nữa thế? Dù chính mày là người đã hầu hạ ông tiến sĩ... còn mày có tên là gì cũng thế thôi…
- Nhưng cho dù thế đi nữa?.. - tôi thét to rồi im lặng. Kể lại ngay bây giờ cho viên cảnh sát nghe toàn bộ những sự kiện đã khiến tôi tới cái chỗ xảy ra vụ giết người bi thảm này là vô ích. - Thưa ông, xin ông cứ việc đưa tôi vào tù. - cuối cùng thốt ra, - và hãy báo ngay cho ngài lãnh sự biết. Tôi cần gặp ông ấy.
- Nhất định tao sẽ báo cho ngài lãnh sự biết, - del Aronzo đồng ý. - Còn theo ý kiến tao thì phải treo cổ mày lên ngay lập tức bằng một cái dây dài rồi thả xuống vực này. Nhưng đó vẫn chỉ là một hình phạt nhẹ nhất so với tất cả những tội lỗi của mày. Đi! Đưa hắn đi!
Bọn cảnh sát vây quanh tôi, lên cò súng rồi dẫn tôi tới nhà ngục.
❖ IV ❖Tôi đã sống hai ngày trong cái hang chuột bằng đá ẩm ướt, nơi người ta tống tôi vào. Người ta cho tôi ăn một thứ cháo loãng lõng bõng những quả đậu và xương xẩu thừa cặn của một loại thú mà khi sống nó vừa có vẩy lại vừa có lông mao. Những ông già nằm trên rơm ngay cạnh đấy lúc nào cũng buồn bực nguyền rủa vì bất kỳ một chuyện vặt vãnh nào. Họ làm tôi không tài nào tập trung suy nghĩ được. Tôi điên tiết lên và thét vào mặt họ. Thật là ngạc nhiên, ngờ đâu họ lại câm bặt.
Ngày thứ ba người ta đưa tôi tới chỗ del Aronzo. Ông ta ngồi trong phòng làm việc tràn ngập ánh sáng của mặt trời Mexico. Một người cao vóc đang hút tẩu thuốc đứng cạnh cửa sổ. Phòng sang quá khiến tôi phải lim dim mắt.
Tôi nghe thấy giọng del Aronzo nói:
- Hắn đấy, thưa ông Robinson. Trước mặt ông là tên Carnero nổi tiếng, hành hung của hắn vang động khắp nơi, từ mũi Cape Horn đến Alaska. Hắn lại sắp giả vờ không hiểu một tiếng Tây-ban-nha nào cho coi.
- Tôi hiểu tiếng Trung-quốc và tiếng Ấn-độ, - tôi mở mắt ra, nói. Tôi hướng về phía người có vóc cao và cúi chào: - Thưa, ngài là quan lãnh sự ạ?
- Phải, tôi đây, - ông Robinson trả lời cộc lốc. - Có lẽ anh nên kể lại một cách ngắn gọn những sự việc đã xảy ra, được chứ? Anh ngồi xuống và cứ bình tĩnh mà nói…
- Xin cảm ơn ngài, - tôi cúi chào lần nữa rồi ngồi xuống chiếc ghế có đệm rơm.
Ta bắt đầu câu chuyện từ lúc đến Calcutta, tôi mô tả lại công viên rắn, bệnh dịch hạch ở Nabukhatra, tòa án, và khi để đến Mắt Bò đực thì cổ tôi như nghẹn lại.
Del Aronzo nói:
- Kể hết đi, Carnero.
Tôi im lặng. Ông Robinson chăm chú nhìn tôi.
- Tiếp tục đi... Thế anh đã làm gì ở Phi châu.
Nhưng del Aronzo đăm chiêu hút mẩu xì gà và trả lời:
- Hắn sẽ không để ngài đợi lâu đâu, rồi hắn sẽ kể một câu chuyện khiến ngài phải sẵn sàng tháo gông khỏi tay hắn. Nhưng, thưa ngài Robinson, ngài chớ nên tin vào những lời đường mật của hắn. Hắn biết thôi miên và đã năm lần chạy thoát khỏi xà lim một nơi có ba lính canh gác trước hôm đem hắn đi xử tử.
- Được nói chuyện với một con người đặc sắc như vậy thì càng thú vị chứ sao, - Robinson nói, đoạn hướng về phía tôi: - Người ta buộc tội anh đã giết một công dân Mỹ là tiến sĩ Thomas Rolls, anh đã xin vào hầu hạ người ấy dưới một trong những cái tên giả. Người ta bắt được anh phạm tội quả tang…
- Thôi thế là đủ lắm rồi, thưa ngài Robinson! - del Aronzo thét lên vì bực tức. - Cứ để hắn đấy cho chúng tôi, rồi hắn sẽ bị trừng trị xứng với tội của hắn.
- Không, ông Aronzo thân mến, - ông Robinson bình tĩnh trả lời. - Lẽ công bằng nhất là anh ta phải được xét xử theo luật pháp của đất nước chúng tôi…
Tôi cho rằng mình có thể nói xen vào câu chuyện:
- Thưa ngài Robinson, trong hoàn cảnh của tôi hiện nay, tôi không muốn gì hơn là được rơi vào tay chính quyền văn minh của một quốc gia tự do. Ở trường học tôi đã nắm được những điều cơ bản về luật pháp và tôi hy vọng rằng một tòa án không thiên vị sẽ biện hộ cho tôi.
Nhưng cả Robinson lẫn del Aronzo đều không nghe tôi nói. Họ đang thảo luận với nhau những chi tiết về thủ tục chuyển giao tôi cho những cơ quan tư pháp của Mỹ.
Người ta đã nhận được một bức điện từ Mexico gửi đi với nội dung đồng ý trao lại phạm nhân. Ba giờ nữa một chiếc thủy phi cơ sẽ đến và đưa tôi đi khỏi Mazatlán.
Tôi sẽ không kể lại làm gì cuộc hành trình đầy phiền não ấy và những ngày đầu tiên nằm trong một nhà tù xây dựng theo những yêu cầu của khoa học tội phạm và của nền kỹ thuật kiến trúc. Tôi đã phần nào quen với tình cảnh của một con người mặc áo kẻ sọc có đính số to tướng “1011”. Đó là số tù dùng thay cho cái tên mà cha mẹ đã đặt cho tôi ở Ashworth.
Tôi đã bị hỏi cung một vài lần. Ông Greg, một nhân viên dự thẩm, nghe tôi kể lại mọi chuyện, còn người ghi tốc ký nhỏ nhắn, tóc quăn, đeo kính kẹp mũi thì kiên nhẫn ngồi ghi chép lại.
Cuối cùng, có một lần, khi tôi bước vào phòng làm việc của viên dự thẩm, ông ta nói với tôi với vẻ hết sức sôi nổi:
- Bây giờ thì chúng ta đi tới kết luận nhé!
Lần trước tôi kết thúc bản anh hùng ca của tôi ở đoạn del Aronzo dí nòng súng revolver vào mũi tôi.
- Tôi rất vui mừng, thưa ông Greg, - tôi tán thành và kinh ngạc nhìn những quyển dày cộp dưới một đầu đề chung - “Vụ án Carnero”. Những quyển ấy đặt trước mặt Greg, và ông ta đang lật mạnh từng trang.
- Vậy thì anh đã khẳng định anh là Samuel Pingle ở Ashworth. - viên dự thẩm nói, ngáp một cách ngọt ngào. - Xin cho phép tôi được lật ngược vấn đề và phủ nhận toàn bộ những câu chuyện thần thoại A-rập của anh. Trong khi sử dụng những khả năng không hạn chế về quyền xét xử của chúng tôi. Tôi đã theo dõi số phận của một anh Pingle nào đó đã từng làm việc trong những đồn điền của ông Pollock ở Punjab. Về sau, anh Pingle này đã bị kết án ở Rangoon về tội ăn cắp ba chục con trăn trong vườn bách thú của vương quốc.
- Hoàn toàn sai! - tôi thét lên. Không phải trăn, mà rắn jirr! Và không phải tôi mà là Vandock lấy cắp!
- Không được ngắt lời ông Greg, - người ghi tốc ký tóc quăn cảnh cáo tôi. - Ông không thích bị người khác ngắt lời. Nếu không sẽ chỉ khổ cho anh.
Ông Greg ngáp, ngước mắt nhìn lên trần rồi nói tiếp:
- Cũng chính anh Pingle này đã có âm mưu tội lỗi là làm bỏng ngài bộ trưởng Argentine trong nhà ăn trên tàu thủy. Anh ta đã đến Hong Kong để trốn tránh chính quyền. Anh đã biết ít nhiều về những hành tung của tên Pingle lưu manh này, và anh đã kể lại cho tôi nghe tất cả những tình tiết ấy, nhưng một cách nhẹ hơn...
Tôi chỉ còn biết mỉm cười cay đắng.
- Không được cười, - người ghi tốc ký tóc quăn lại nói. - ông Greg không thích ai cười, nếu không sẽ chỉ khổ cho anh thôi.
Tôi nói khò khè như không thở được nữa:
- Khổ là khổ thế nào?
Greg không tức giận. Ông ngước mắt lên như đang đọc những hàng chữ ghi trên trần mà chỉ mình ông nhìn thấy.
Ông nói chậm rãi, khoan thai:
- Và người ta đã tìm thấy xác Samuel Pingle ở gần hải đăng của mũi Luke, đầu vỡ nát, sóng xô vào bờ đêm ngày mười một tháng tư...
- A, ông nhạo báng tôi phải không? - tôi chồm dậy khỏi ghế.
Greg dán mắt nhìn tôi.
- Anh bạn thân mến ạ, dự thẩm viên Greg này đã khám phá ra ba trăm tinh tám vụ giết người, hai trăm vụ cướp bóc, đã tìm ra tung tích năm nghìn tên bịp bợm và một khi nó đã đi đến những kết luận... - đến đây Greg cầm lấy một trong những cuốn sách lên dứ dứ trước mắt tôi và nói thêm với một giọng dịu dàng: - nó không cười nhạo đâu. Nó đang khóc vì thấy sao tâm hồn của một con người lại có thể sa đọa thấy hèn đến thế. Nó có đầy đủ chứng cớ về tất cả những chuyện này… Đây! - Nói đoạn Greg chìa cho tôi xem một mẩu giấy hình vuông: - Đó... Người ta đã tìm thấy nó ở túi trong chiếc áo cánh của tử thi mà sóng biển quăng lên bờ.
Tấm bằng tốt nghiệp trường Dijan! Đó là tấm bằng của tôi, nó đã nhầu nát vì bị thấm nước biển, nhưng nó đã được khôi phục lại cẩn thận trong phòng thí nghiệm thẩm vấn hình sự. Vàng trên đầu sư tử đã phai hết, còn trên mõm sư tử thì thấy có những vết nhăn kéo dài, khiến nó có dáng hiền lành như một ông nghiện rượu già.
Tôi chỉ còn biết ngồi vỗ trán. Bởi vì khi trao đổi áo cánh với anh chàng Tilboy ấy, do mải chơi, tôi quên bẵng mất mảnh bằng nhét ở túi trong.
Lòng hồi hộp, tôi bắt đầu kể lại chuyện tôi cùng với Tilboy chơi xúc xắc trên tàu “Buksus” như thế nào. Greg phẩy tay.
- Có thế thôi, được rồi đấy, anh bạn tự gọi mình là Pingle à. Hãy nghe những kết luận của tôi đây. Anh đã làm việc cho tiến sĩ Rolls. Anh đã giết ông ta, gói ghém những tài sản quý giá lại rồi chuẩn bị chuồn. Nhưng bọn tòng phạm với anh đã đến muộn, chúng chưa kịp đến để giúp anh tẩu tán những của đoạt được. Del Aronzo phát hiện được anh trước khi bè lũ của anh đến. Anh lo lắng, anh ra khỏi nhà để đón bọn tay chân mà anh chờ đợi. Người ta thấy anh trên bờ biển. Đây là những chứng cớ của ngài Ignatius Velorose đáng kính, con người đã biết anh từ hồi ở Venezuela, nơi người đã rửa tội cho anh trước hôm anh bị đem đi hành quyết... Đây, những bằng chứng của bà bán nước quả Mercedes Glisania, người mà anh, vốn vẫn có tính hào phóng, đã tặng cho năm mươi peso... Bà ta đã nom thấy cái ví nhỏ của anh. Và đây nữa, những bằng chứng của cảnh sát Juan Lores, người đã theo dõi anh từ xa...
- Chà, thưa ông Greg, cái logic của ông làm tôi xúc động, - tôi trả lời một cách nghiêm trang. Ông biết không, ví dụ như tôi hoàn toàn không ngờ rằng tôi lại quen biết cha đạo Ignatius. Vậy thì, cuối cùng ông muốn gì?
- Chúng tôi sẽ điều tra đến cùng, - Greg nói vẻ quan trọng. Chúng tôi quan tâm tới tội lỗi sau cùng của anh. Chúng tôi đã khám phá ra rất cả. Ai bị giết - biết rồi. Bị giết ở đâu - biết. Bằng cách ấy, như thế nào, tại sao, khi nào - đều biết hết. Và thế là anh sẽ bị đưa ra tòa. Người ta sẽ không treo cổ anh như ở Mexico, mà cho anh ngồi ghế điện. Và ở đấy anh sẽ không ra khỏi nước mà vẫn khô ráo đâu. Sao, hử? Im lặng à? Tôi hiểu. Người nào cũng lo lắng mỗi khi tôi nhắc tới ông Beebra, người điều khiển những khí cụ điện ở Sing Sing. Này, hút đi...
Với vẻ rất lịch sự, Greg đưa cho tôi bao thuốc lá. Tôi hút và trầm ngâm suy nghĩ. Thế là, tôi, mặc dù hết sức chân thực, vẫn không thuyết phục nổi ai tin rằng, tôi là Pingle, chứ không phải là tên cướp Carnero nào đấy. Bằng được tìm thấy trong túi áo của tôi khi khám xác Tilboy. Bởi vậy, vòng tròn đã khép lại. Tất cả những gì tôi có thể nói để biện hộ cho mình thì hình như đều không đáng tin đối với viên dự thẩm ấy, con người hiện đang yên lặng hút thuốc với vẻ hiền lành nhất, và để trả lời tôi ông ta chỉ hoặc nhún vai, hoặc mỉm cười mai mỉa. Tôi không có ấy một xu để thuê luật sư, nhờ ông ta cũng thu thập một đống những tài liệu chứng minh cho rằng tôi là Pingle. Cần phải thu thập những chứng chỉ, bắt đầu từ Ashworth và Dijan, tìm kiếm cả người đốt lò trên tàu “Mèo xanh”.
Lúc ấy bộ mặt tinh quái và giọng nói ngọt ngào của Vandock hiện lên rất rõ trong óc tôi. Tôi còn nhớ lại được cả cái cảm giác khi tôi chẹn ấy có hắn trong công viên rắn.
Tôi nắm chặt hai tay lại, nhìn chằm chằm vào cặp mắt lồi trắng dã của Greg và nói dằn từng tiếng:
- Hãy đưa tôi ra tòa, tôi sẽ tự bào chữa lấy.
Cặp mắt của Greg ngước nhìn lên trần như đang cầu nguyện.
- Anh bạn của tôi ạ, cứ việc mà bào chữa, nhưng anh sẽ không thoát đâu.
Tôi rót nước trong bình ra và nốc cạn một cốc đầy.
Sự bình tĩnh trở lại ngay tức khắc, bởi vì đầu óc tôi bỗng nhiên như bừng tỉnh.
Giống như một tia chớp lòa rạch ngang bầu trời, một ý nghĩ vụt lóe lên trong đầu tôi, ý nghĩ ấy quá đơn giản, khiến tôi phải ngạc nhiên là tại sao nó không đến với tôi sớm hơn.