Chương bảy ❖ I ❖
Tôi đã chờ tòa gọi gần tháng rưỡi. Công việc mà những người bị bắt phải làm đã gây ra ở tôi sự ngu độn đặc biệt kiểu nhà tù. Chúng tôi đã phải đóng những quyển kinh cầu nguyện. Từ đấy, hình thiên thần cầm cành dừa in nổi mầu vàng và dòng chữ đề “Thánh ca” lúc nào cũng làm tôi giận điên lên.
Một lần, trong lúc dạo chơi, có người nào đấy trong đám tù dúi vào tay tôi một mớ giấy: “Carnero, nếu cần, tôi sẵn sàng giúp đỡ anh. Bigden”. Tôi đã vò mẩu giấy trong lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi cho đến khi nát vụn mới thôi, và không trả lời gì.
Đêm đêm tôi không ngủ được. Những ý nghĩ không ngừng hành hạ tôi. Một kẻ thù ghê gớm nhất mà con người biết đang chống lại tôi, đó là sự định kiến. Chỉ có thể đánh bại nó bằng một cú đánh thật bất ngờ, thật sắc sảo. Phải lao vào đột kích nó với lòng tin hoàn toàn vào thắng lợi.
Trước hôm ra tòa, viên giám ngục Jige, một người khổng lồ đầu trọc với đôi tai to núng nính, đã ra ấn cho phép tôi nằm nghỉ trưa trên chiếc giường do chính tôi làm. Tôi nằm khểnh, hai chân gác cao hơn đầu.
Jige nhìn tôi với vẻ thông cảm.
- Chú mình ạ, ngày mai thì chú mình phải động não rối. Tớ cảm thấy rằng chú mình đã rơi vào bẫy, chẳng khác nào thỏ non rơi vào cái bẫy dùng để bắt cáo. Và xem ra chú mình chẳng có cái vẻ của một con người đã từng tàn hại gần hai tá người. Ngày mai khi người ta đưa chú mình lên ô-tô thì chớ có tìm cách chạy trốn. Tớ biết mới đây một người trong xà lim thứ chín đã đưa cho chú mình một mẩu giấy của Bigden lúc ở ngoài sân, và chú mình đã không trả lời gì cho người viết.
- Ông Jige thân mến, nếu có thể xin ông nói hộ với cái anh chàng Bigden mà tôi không quen biết ấy rằng hãy để cho tôi yên. Hãy bảo mọi người để cho tôi được yên tĩnh.
Tôi gác chân lên thật cao hơn nữa và giả vờ ngủ.
Jige đi ra ngoài, còn tôi thì lợi dụng những giờ phút cuối cùng ấy để ôn lại trong óc tất cả những lời lẽ mà ngày mai tôi sẽ nói trước tòa.
Khi người ta dẫn tôi lên tòa, trong lòng tôi vẫn chờ đợi được thấy một cái gì đấy to lớn, bất ngờ. Nhưng trong gian phòng lớn, nơi tụ tập không quá một trăm người, kể cả công chúng tò mò muốn biết người ta sẽ rán tôi trên ghế điện bằng thứ nước xốt nào, mọi việc vẫn diễn ra như thường ngày.
Tôi rất thích ông thẩm phán, vì ông ta giống như cha trưởng đạo Jeremiah của chúng tôi ở Ashworth, rắn chắc, hồng hào, nhưng hơi uể oải, hình như ông ta vừa ăn sáng quá no. Những người trong hội đồng xử án ngồi trên những ghế tựa đối diện với tôi. Những khuôn mặt của họ hòa vào nhau thành một vệt, và bây giờ tôi không sao nhớ lại được một trong những khuôn mặt ấy. Ông kiểm sát trưởng trông có vẻ nhỏ nhắn khi ông ta ngồi sau chiếc bàn và nghiêng mình trên những tập “Vụ án Carnero” mà tôi đã từng biết. Nhưng khi ông vươn thẳng mình để đứng dậy và nói với ông thẩm phán “Ô vâng” thì hóa ra lại là người dài ngoẵng và gầy, người ta còn thấy những cúc cài vàng trên các cổ tay áo của ông.
Tôi đã sẵn sàng chờ đợi một tình thế xấu nhất: người ta sẽ đổ lên đầu tôi mọi tội lỗi của tên Carnero khốn kiếp và một cố đạo Ignatius nào đó thực sự nhận lầm tôi thành một tên cướp ở Nam Mỹ, ấy là chưa kể đến bà Mercedes đáng kính, người đã nhận của tôi năm mươi peso.
Nhưng ông thẩm phán và những người trong hội đồng xử án không có khuynh hướng đi sâu vào những chuyện tội lỗi của Carnero. Họ quan tâm tới vụ án mạng của tiến sĩ Rolls nhiều hơn. Do đó người ta chỉ thuật lại tất cả những gì del Aronzo phát hiện được trong nhà Rolls, việc này phần nào đã làm cho hội đồng xử án và công chúng xôn xao lên một chút.
Ông chánh án uể oải rung chuông và nói, môi chẩu ra phía trước:
- Lô báo chí im lặng cho!
Ở góc phòng, sau một hàng rào nhỏ, có hai người ngồi cầm sổ trong tay. Đó chính là lô báo chí. Một phóng viên đang ghi sổ tay, còn người kia thì khoái trá gặm hòn tẩy và kéo ghế ầm cả phòng lên.
Tôi không lưu tâm đến Carnero nữa, tôi bắt đầu cắn móng tay, ra vẻ hoàn toàn không để ý gì tới viên thư ký lúc ấy đang đọc nhanh bản cáo trạng.
Cuối cùng giọng ông thẩm phán vang lên:
- Bị cáo, anh điếc hả?
- Không, thưa ngài thẩm phán, - tôi đứng dậy, trả lời.
- Anh có thừa nhận mình là kẻ có tội không?
Tôi trả lời bằng một giọng lịch sự và lễ độ nhất:
- Xin ngài thứ lỗi cho, thưa ngài thẩm phán, trước khi trả lời câu hỏi của ngài, tôi yêu cầu ngài ghi vào biên bản lời tuyên bố sau đây của tôi. Tên tôi là Samuel Pingle, người ở thành phố Ashworth. Tôi chưa hề quen biết tiến sĩ Rolls đã quá cố bao giờ, cũng chưa hề làm việc cho ông bao giờ. Trong đời mình, tôi chưa từng phạm một tội lỗi nào...
- Hãy trả lời thẳng vào câu hỏi của tôi, - ông thẩm phán nói với giọng nghiêm khắc.
- Xin lỗi ngài, thưa ngài thẩm phán, tôi đã hứa trả lời ngài sau khi kết thúc lời tuyên bố của tôi, - tôi phản đối lại cũng bằng một giọng nghiêm khắc y như thế - các ngài buộc tội tôi chỉ là vì người ta đã nhận lầm tôi thành một người khác. Đây là sai lầm của ông Greg, trong quá trình điều tra ông chỉ tập trung vào việc thu thập những tài liệu nhằm kết tội một tên cướp nào đó, chứ không phải tôi, Samuel Pingle, người đã nổi tiếng lẫy lừng khắp thành phố của các ngài...
Ông thẩm phán nhăn mặt:
- Anh nói “nổi tiếng” nghĩa là thế nào? Anh muốn chứng minh anh là Pingle chứ gì? Cái anh Pingle mà xác đã bị sóng quẳng lên bờ phải không?
Nhưng ở trường Dijan người ta đã dạy tôi những khái niệm về pháp lý không phải là vô ích. Ôi, những thầy giáo Auer và Slowly quí yêu của con! Chỉ đến bây giờ con mới hiểu rằng phải học tất cả mọi thứ và không có một thứ khoa học nào lại không đem lại lợi ích cho con người vào một lúc nào đấy.
- Vâng, thưa ngài thẩm phán và quí tòa! - tôi nói lớn, rướn thẳng người và giơ tay lên một cách gây ấn tượng; ở trường thầy Slowly vẫn thường đọc những đoạn văn trích lời phát biểu của Cicero kèm theo với động tác ấy. - Tôi trịnh trọng tuyên bố rằng tôi chính là Samuel Pingle, người đầu tiên đã biểu diễn trong rạp “Colosseum” tại đây tiết mục...
Nói đến đây tôi buông dấu lửng, đúng như ở trường thầy Auer vẫn khuyên chúng tôi làm “trước lúc giáng một đòn sấm sét”. Tôi nhìn thấy những cái miệng há hốc, những nụ cười mỉa mai nửa miệng, những cặp mắt nheo lại của mọi người xung quanh. Không được dừng lại lâu hơn nữa mà phải giáng xuống ngay.
-...tiết mục “Người nhẹ hơn không khí”.
Ở chỗ công chúng ngồi mọi người xôn xao lên. Người phóng viên kéo ghế kêu ken két. Ông thẩm phán rung chuông như điên dại.
- Tôi tuyên bố tạm ngừng! - cuối cùng ông cố thét lên cho mọi người nghe thấy.
Hội đồng xử án vào phòng họp kín. Một người trông lịch sự dễ ưa tới cạnh chỗ tôi ngồi và nói:
- Ông thẩm phán đã cho phép tôi ngồi nói chuyện với anh. Anh còn trẻ lắm, chưa đủ kinh nghiệm để gạt bỏ được một đống những lời buộc tội ấy đâu. Tôi là luật sư Godwin, tôi sẽ cãi giúp anh không ấy tiền. Anh ký giấy ủy nhiệm đi.
Qua thái độ kính trọng của mọi người xung quanh đối với Godwin, tôi hiểu rằng tôi không có lý do gì để từ chối và tôi đã ký vào mảnh giấy nhỏ. Godwin mang giấy đi.
Năm phút sau ông quay trở lại và ngồi vào sau một chiếc bàn phía trước mặt tôi, đối diện ngay với ông kiểm sát trưởng. Bên trái và phải ông Godwin còn có hai người khác nữa. Họ bắt đầu lôi trong cặp ra những sổ tra cứu, những bộ luật, vở, sổ tay, giấy tờ và chỉ một lát sau trên bàn của họ cũng đầy ắp như trên bàn ông kiểm sát trưởng.
Godwin quay về phía tôi.
- Tôi đã chăm chú nghe toàn bộ bản cáo trạng và những lời buộc tội. Đây rõ ràng là một sự nhầm lẫn nghiêm trọng, và, tôi cho rằng không chỉ đối với anh. Khi anh tuyên bố với tòa thì tôi đã cảm thấy tôi nghĩ đúng. Bây giờ cần phải thuyết phục hội đồng xử án. Sắp tới tôi và các bạn đồng nghiệp của tôi sẽ làm bằng được việc này. Anh không cần phải phí lời. Chỉ trả lời ông thẩm phán một cách vắn tắt thôi. Nếu tôi giơ tay phải lên vuốt tóc thì anh nói “đúng”, nếu giơ tay trái thì nói “không”. Cuộc đấu sắp tới không có gì ghê gớm đâu. Dũng cảm lên, anh Pingle ạ. Tòa chỉ nghỉ một lát uống nước rồi lại tiếp tục...
Không bao giờ tôi quên được những lời phát biểu của luật sư khi ông lập luận cho lời tuyên bố của tôi. Ồ, cái ông luật sư Godwin ấy mới thật là người có kinh nghiệm chứ!
Ông bước ra đứng giữa phòng, trước bàn chánh án với dáng điệu của một con người có thể dời non lấp biển. Ông bắt đầu bằng một giọng nhẹ nhàng, mệt mỏi:
- Trong cuộc sống có những trường hợp mà...
Gian phòng lặng ngắt, đến nỗi nghe rõ cả tiếng kêu leng keng của miếng kim loại dùng làm vật trang sức móc trên dây đồng hồ của Godwin, dường như những tiếng kêu ấy đang hòa cùng lời nói của ông. Trong lô báo chí đã chật ních người. Các phóng viên ghi chép lia lịa, không rời khỏi sổ. Các phóng viên nhiếp ảnh len đến chụp chỗ này chỗ nọ. Còn Godwin thì đã bắt đầu bốc lên. Ông dùng nhiều cử chỉ và biết dừng lại ở chỗ cần dừng, tưởng như ông đang chơi một nhạc cụ lớn nhiều dây vậy. Những vạt áo trào của ông bay lên bay xuống khi ông xoay nhẹ nửa vòng về phía công chúng để tranh thủ sự đồng tình. Những giọt mồ hôi lớn lăn trên má ông, còn cặp mắt thì sáng ngời lên. Ông ra hiệu bằng một động tác nghề nghiệp hết sức nhẹ nhàng, và một trong những người giúp việc đã đưa ngay cho ông một cuốn sổ tra cứu mở sẵn. Godwin vội cầm lấy cuốn sách, đọc lên một loạt điều luật, ném bịch cuốn sách xuống bàn, rồi nói với giọng ngày một cất cao. Bây giờ ông đã gầm lên như tiếng kèn của thần Archangel*:
- Cần phải quyết định ngay anh ta là ai...
Tay phải Godwin đưa lên thái dương. Tôi mải mê ngồi nghe và cứ mỗi lời luật sư nói ra lại làm tôi thêm tin chắc rằng người vô tội nhất trên Trái đất này là Samuel Pingle.
- Vâng, tòa phải quyết định ngay bây giờ... - Godwin nói hùng hồn, đưa tay phải lên túm lấy những búp tóc quăn ướt đẫm mồ hôi của mình và ném cái nhìn nóng bỏng, giận dữ về phía tôi.
- Đúng! Đúng! - nhớ tới lời dặn của luật sư, tôi lấy hết sức hét to lên.
Như vậy là tôi đã đóng vai người đệm đàn gõ hòa theo với người ca sĩ tốt giọng ấy.
Godwin nói hơn hai tiếng đồng hồ. Ông có quyền làm như vậy dựa vào những điều luật của bang này, ở đấy người ta đã kết án tôi.
- Tôi yêu cầu tòa kiểm tra lại lời khẳng định của người được tôi bào chữa, rằng anh ta chính là Samuel Pingle chứ không phải là ai khác, người mà hai năm trước đã từng biểu diễn ở rạp xiếc “Colosseum” của chúng ta. - Godwin kết thúc trong một bầu không khí bị kích thích ngày càng tăng của cả phòng. - Thưa các quí ông quí bà, xin hãy nhớ cho một điều! Trên thế giới này không ai có thể biểu diễn được tiết mục chết người ấy ngoài chàng thanh niên “nhẹ hơn không khí” này, anh ta là người duy nhất được chiếc máy phóng kỳ quái mà không người nào trong chúng ta có thể quên được phóng lên một lần. Sau anh ta, một vài người đã thử làm lại tiết mục này, nhưng tiếc thay, họ đều tỏ ra nặng hơn không khí... Và đây, nhà vô địch xuất sắc về nhảy tạo hình, ông Pingle một lần nữa đứng trước mặt các vị. Trên đầu ông đang đè nặng lời kết tội kinh khủng nhất - giết người. Máu của người chết thấm tận trời xanh kêu gọi báo thù. Tuy nhiên cần nói thêm, là Rolls đã chết mất xác... Nhưng ở đây thì đang vang lên tiếng kêu cứu của kẻ vô tội. Người thanh niên này không có tội...
- Không! Không! - tôi nói như muốn khóc nức nở, vì Godwin đang giơ tay trái lên bứt tóc ở trên đầu.
- Anh Pingle chỉ yêu cầu một việc - đó là cho anh cái khả năng chứng minh mình là Pingle.
Godwin đưa tay phải lên cầm nẹp áo và nói rành rọt, cân nhắc từng từ một.
- Tôi đề nghị tòa thỏa mãn yêu cầu của bị cáo.
Mệt mỏi rã rời, ông ngồi phịch xuống ghế. Tôi thấy rõ cả hơi nóng từ đầu ông bay lên. Tôi điên cuồng tha thiết được ôm hôn ông, nhưng tiếng chuông của ông thẩm phán đã ngăn tôi lại.
- Xuất phát từ việc...- ông thẩm phán bắt đầu bằng một câu như vậy, và tôi cảm thấy như không phải ông nói, mà đang nhai một vật gì đó. Lời nói của ông bện lại với nhau một cách rất kỳ quái thành những đường thêu tinh vi nhất, lúc thì độc ác giễu cợt Godwin, lúc lại đề cập đến số phận của người thanh niên đang nằm trong tay tòa án. Ông thẩm phán này cũng là một người khôn ngoan và biết cách ăn nói. Giọng ông đã bắt đầu vang lên sang sảng và có sức biểu hiện mạnh mẽ. Nghe ông nói, có lúc tôi như được đưa lên tới đỉnh điểm của niềm hy vọng, có lúc lại như bị tụt xuống vực thẳm của nỗi thất vọng. Nhưng khi giọng nói của ông thẩm phán đang vang lên những âm điệu bi thảm thì bỗng ông hạ giọng:
- Tôi quyết định: cho phép bị cáo được chứng minh cá nhân mình bằng cách biểu diễn lại trước tòa tiết mục nguy hiểm chết người trong chương trình của rạp xiếc.
❖ II ❖Phiên tòa xét xử vụ án của tôi hoãn lại trong mười ngày. Trong thời gian ấy tôi phải chuẩn bị biểu diễn.
Kể từ khi tôi bị ra tòa, cuộc sống trong tù của tôi đã thay đổi như có phép mầu nhiệm.
- Ô hô, chú mình đâu phải một con chim nhỏ tầm thường. - Jige nói, bước theo tôi vào trong xà lim rồi sập cửa lại. - Chú mình với Godwin sửa viên thẩm phán một trận nên thân... Tuyệt! Chắc chú mình đói rồi đấy nhỉ. Tôi đã bảo mang cơm trưa vào đây. Tên đầu bếp làm món pâté khá đấy. Luôn tiện, chú mình đặt món cho bữa chiều ngay đi...
Tôi mỉm cười cay đắng:
- Bác Jige thân mến, bác nhạo báng tôi đó sao?
Bác ta rất giận.
- Nhạo báng một nghệ sĩ ư? Nhạo một nhà vô địch ư? Tôi không có thói ấy. Tôi có hai con trai - cả hai đều là vận động viên. Khi xem buổi diễn đầu tiên của anh ở rạp “Colosseum” về, lúc nào bọn chúng cũng mơ tưởng tới “Người nhẹ hơn không khí”. Anh bạn ạ, lẽ nào cuộc đời không dậy anh biết kinh ngạc sao?
Người ta dọn lên một bữa cơm thịnh soạn. Tôi ăn ngấu nghiến như rắn yigshu nuốt chuột con.
Jige xem xét xà lim với vẻ không hài lòng.
- Bên cạnh có một chỗ bỏ trống rất tốt. Một người hết sức sắc sảo đã từng sống ở đây một nửa năm, anh ta đã tự bào chữa trước tòa, mặc dù đã bị bắt quả tang về tội nậy két ở kho ngân hàng. Tôi hy vọng rằng việc chuyển sang bên xà lim ấy sẽ đem lại cho chú mình niềm hạnh phúc thực sự...
Sau bữa cơm trưa tôi chuyển sang xà lim bên cạnh. Ở đây có bàn ghế rất đẹp, giường trải đệm, chậu rửa mặt bằng đá hoa. Chỉ còn thiếu những bức tranh lồng trong khung thiếp vàng nữa mà thôi.
Tôi thích thú ngồi vào chiếc ghế bành mềm và đề nghị:
- Bác Jige ạ, bác cứ xách tai để tôi tỉnh dậy nhé. Đã xảy ra chuyện gì thế bác?
Người giám ngục mỉm cười vui vẻ.
- Anh bạn ạ, đã xảy ra chuyện kinh thiên động địa. Thật may mắn cho anh. Bây giờ các báo chí sẽ chỉ nói tới anh thôi. Chà, “Người nhẹ hơn không khí” kia mà! Anh có sẵn lòng tiếp khách tới thăm không?
- Ông Godwin ư?
- Không kể các luật sư. Còn các nhà viết phóng sự? Phóng viên? Những kẻ bịa chuyện vui? Những nhà nhiếp ảnh? Những nhà quay phim thời sự? Chớ để họ quay phim anh mà không trả tiền. Hãy lấy khăn che mặt lại. Bây giờ bọn họ sẽ chìa tiền ra ngay…
Có thể cười những lời khuyên ấy của Jige, nhưng sự việc quả là nghiêm trọng. Tôi không còn nghi ngờ gì nữa, lời tuyên bố của tôi đã thực sự làm chấn động dư luận. Nhưng mười ngày nữa tôi đã phải nằm vào máy phóng. Đó chính là điều làm tôi ghê sợ.
Ngay sau đấy Godwin đến cùng với hai người khác.
- Thế nào, Pingle, anh đang gây ra một chuyện phức tạp phải không! - một trong ba người ấy chìa tay ra cho tôi ngay từ khi mới bước vào xà lim. Đó là ông giám đốc rạp xiếc “Colosseum”. Ông ta cứ băn khoăn mãi. - Chao ôi, anh đã làm tôi thiệt hại biết bao nhiêu khi bỗng nhiên cắt đứt các buổi diễn! Nhưng tôi đã nói: “Rồi anh ta sẽ trở lại”.
- Còn đây là bác sĩ Wilson, - Godwin giới thiệu với tôi một người khác, trông ông ta khô khan và nghiêm khắc, người bó chặt trong chiếc áo trào. - Bây giờ chúng ta sẽ không để phí thời giờ quý giá. Sự việc là như thế này. Chúng ta thì chẳng nghi ngờ gì ông Pingle là ông Pingle. Việc ông ta đã từng làm một cú nhảy nổi tiếng cũng đã rõ ràng. Bây giờ ông phải làm lại tiết mục ấy trước tòa...
- Tôi phải, - tôi thở dài, tự thừa nhận rằng mình gây ra một chuyện phức tạp thật.
Godwin hỏi:
- Ngài giám đốc, hình như máy phóng vẫn còn nguyên vẹn chứ?
Ông giám đốc gật đầu:
- Không suy chuyển.
- Thế còn ông Clips? - Tôi thốt lên.
Ông giám đốc cụp mắt nhìn xuống.
- Anh Pingle ạ, hiện nay xin khoan hỏi về ông ta. Có một số việc buộc ông...
Godwin xua tay về phía ông giám đốc.
- Xin ông đừng nói chuyện linh tinh nữa. Cần phải kiểm tra lại xem người anh Pingle có sẵn sàng nhảy không... Máy phóng của ông cho phép một quá tải là bao nhiêu?
- Không quá nửa pound. Thậm chí ít hơn...
Godwin vừa lau mồ hôi tay vừa lo lắng chạy đi chạy lại trong phòng.
- Đấy ông thấy chứ... Cần phải làm sao cho trọng lượng của “Người nhẹ hơn không khí” tương ứng với sức bật lò so của máy phóng. Ông Wilson, mời ông khám cho anh ta hộ. Pingle, cởi nên áo ra...
Tôi cởi quần áo. Cả ba người đều xem xét thân hình tôi từ đầu đến chân, họ sờ nắn các bắp thịt ở chân và tay.
Bác sĩ dùng thước dây đo dọc rồi lại đo ngang, ông nói lẩm bẩm điều gì đó, tính nhẩm trong óc rồi kết luận:
- Trọng lượng của anh ấy thiếu sáu pound...
- Thế thì máy phóng sẽ hất anh ta tới gác cuối cùng của rạp mất, - ông giám đốc nói với vẻ đăm chiêu. - Cần phải thay lò xo...
- Chúng ta sẽ vỗ béo anh ta, - ông giám đốc nói giọng quan trọng. - theo tôi. khẩu phần ăn là chất ngọt, đạm và một chút mỡ. Xoa bóp toàn thân mỗi ngày hai lần. Thường xuyên kiểm tra trọng lượng. Tập xà...
Cuối cùng ông giám đốc tuyên bố:
- Tôi đã thấy trước mọi việc và đã lo toan đâu đấy cả rồi.
Godwin cười thích thú:
- Thế thì tôi rất yên tâm. Cần phải tiến hành luyện tập ngay bây giờ...
“Đồng tiền làm nên mọi chuyện”, - câu cách ngôn Ấn-độ nói như thế. Tiền của ông giám đốc đã biến phòng giam tôi thành một tổ hợp chưa từng thấy, nó vừa là an dưỡng đường lại vừa là phòng luyện tập thể thao. Những người bị giam mang đến đây những cái cân chính xác và đặt xà. Tôi được mặc một bộ pijama rất ấm, ăn khỏe và cân mình. Sau đó người ta xoa bóp cho tôi; tôi nghỉ ngơi, luyện tập theo thời gian biểu và vui mừng nhận thấy rằng những bắp thịt của tôi đã nở nang và chắc nịch. Ngày nào ông Godwin, ông giám đốc và bác sĩ Wilson cũng đến thăm tôi.
Còn ở phía ngoài, sau bốn bức tường nhà tù, biển đời vẫn đang rì rầm vỗ sóng, và chỉ chỉnh thoảng âm hưởng của những đợt sóng mạnh mới dội đến tai tôi. Những người yêu thích nghệ thuật xiếc đã gửi hoa đến cho tôi. Phòng giam trở nên giống như một nhà kính trồng cây. Rất nhiều thư và điện đề tên tôi, nhưng Jige đã ra một chỉ thị nghiêm khắc cấm không được để thư từ làm phiền tôi, vả lại tôi cũng không có thì giờ đọc các thư từ ấy. Chỉ có một lần người xoa bóp vô tình để quên lại một tờ báo, và tôi đã đọc thấy những điều nói về tôi.
Ban biên tập đã đăng một chuyện có thật là hai năm trước một nhà tỷ phú nổi tiếng là Hopkhar đã mua lại của ban giám đốc rạp “Colosseum” toàn bộ chiếc máy của tiết mục nguy hiểm chết người “Người nhẹ hơn không khí” và đã mấy lần mời những người muốn làm lại kiểu nhảy của tôi. Nhưng chín người dũng cảm đã lần lượt chết vì lao đầu xuống đất bên cạnh thùng. Chính nhà tỷ phú, người ham mê những loại thể thao liều lĩnh, rất thích cái trò chơi giật gân ấy. Ông ta đang tìm kiếm người thứ mười.
Nhưng đã từ một năm nay, trên khắp mặt địa cầu này không tìm đâu ra con người dám nằm lên máy phóng. Tất nhiên, ông Hopkhar không bao giờ nghi ngờ rằng bị cáo chính là nhà vô địch mà trước đây đã có lần lao đầu vào đúng giữa thùng một cách rất tài nghệ.
Thế nhưng hiện nay ông ta vẫn hết sức vui mừng vì cuối cùng ông ta đã tìm thấy người dũng cảm thứ mười. Ông Hopkhar đã đóng mười nghìn dollar cho hội “Equiteble” để bảo hiểm cho kẻ dũng cảm. Ông Hopkhar không ngần ngại trong việc chi tiền. Ông nhận chi phí mọi khoản cho phiên tòa ở rạp “Colosseum” và chính ông sẽ bấm nút máy phóng để phóng người tự gọi mình là Pingle lên một trăm hai mươi ba phẩy ba foot trước mặt ông thẩm phán và hội đồng xử án. Người ta thông báo rằng cái thùng hết sức quan trọng ở phía dưới sẽ chứa một dung dịch muối biển do phòng thí nghiệm của công ty hóa học “Harvard Limited” chế tạo theo đơn đặt hàng đặc biệt, và trọng lượng riêng của dung dịch muối là 1.71 ở 45 o F.
❖ III ❖Tới ngày thứ mười một, theo quyết định của tòa án, người ta mở phiên tòa xét xử vụ án mạng Rolls ở trong rạp xiếc “Colosseum”.
Hopkhar dành cho hội đồng xử án chỗ ngồi ngay trên rìa vũ đài. Nhưng nhà tỷ phú, người đã thuê rạp xiếc của ông giám đốc ngày hôm ấy, hoàn toàn không muốn phí tiền vô ích chỉ vì sự thích thú cái trò chơi nguy hiểm giết người của mình. Ông chỉ cho tòa án thuê những chỗ ngồi trên vũ đài, còn ngoài ra không cho một chỗ nào nữa.
Do đó công chúng đã trả tiền gấp đôi gấp ba để được vào ngồi những chỗ ở khu vực dưới nhà và trên gác.
Khi tôi bước ra vũ đài trong chiếc áo giản dị của thủy thủ tàu “Buksus” mà một người bạn cùng tàu đã gửi vào tù cho, thì trong rạp lao xao những lời tán thưởng. Một số người đã vỗ tay. Những người ngồi trên gác thét:
- A-lô, Pingle. Dũng cảm lên!..
Ông thẩm phán rung chuông. Nhưng tiếng chuông mỏng mảnh đã chìm lấp đi trong khoảng không rộng lớn của rạp như tiếng một con ruồi vo ve trên cánh đồng bát ngát.
Tòa ngồi ở một chỗ tiện lợi, xung quanh tòa là những người ghi tốc ký, đánh máy chữ, nhân viên văn phòng và cảnh sát. Trên những lối đi tụ tập những phóng viên nhiếp ảnh và các nhà quay phim.
Ban giám đốc cho bật ánh sáng tất cả các đèn. Trong các lô báo chí người ta chen chúc nhau. Một vài chiếc máy điện báo in chữ đã sẵn sàng chuyển mọi tin tức phiên tòa về New York, Washington và ra ngoài đại dương. Rõ ràng là tất cả mọi phương tiện thông tin đã ở tư thế sẵn sàng.
Còn phía trước tòa là cái thùng đựng nước và cái nôi máy phóng mà tôi đã từng biết.
Ông thẩm phán tuyên bố:
- Phiên tòa xử lại vụ án bắt đầu. Bị cáo có khẳng định nguyện vọng muốn chứng minh mình là Samuel Pingle không?
Cả rạp “Colosseum” chết lặng đi chờ đợi câu trả lời của tôi.
- Có chứ thưa ngài thẩm phán, tôi đồng ý và sẵn sàng chứng minh cá nhân tôi ngay bây giờ. - tôi nói to và rắn rỏi.
Godwin đứng đậy:
- Tôi đề nghị tạm nghỉ. Bị cáo cần phải thay quần áo cho thích hợp. Anh ta không thể thực hiện được tiết mục trong bộ quần áo chật làm cản trở các động tác.
Trong rạp ồn ào lên.
- Tòa thỏa mãn yêu cầu của luật sư bào chữa và tuyên bố tạm nghỉ.
Cảnh sát đưa tôi vào sau cánh gà.
Thế là lại một lần nữa tôi đứng trong cái phòng thay quần áo mà trước đây tôi đã từng trèo qua cửa sổ của nó, để trốn đi. Sau khi leo qua cửa sổ nhà này, tôi đã phải trải qua một con đường rắc rối biết bao để lại được đưa tới đây một lần nữa qua cửa lớn!
Hiển nhiên là số phận đã giễu cợt tôi. Sự thể sẽ thế nào nhỉ, nếu tôi không lao vào thùng nước mà lại lao thẳng vào ông thẩm phán? Thế thì tôi sẽ đè gẫy cổ ông ta và đồng thời đè gẫy cả cổ mình nữa chứ sao...
Tôi nghĩ như vậy khi những người phụ trách hóa trang lặng lẽ thay cho tôi bộ quần áo chẽn bằng tơ của diễn viên xiếc dưới sự giám sát của những tên sen đầm. Họ đều biết rõ tôi, nhưng không dám nói một lời: bởi vì người ta đã cấm mọi người không được chuyện trò với tôi. Nhưng tôi là người đầu tiên phá tan sự im lặng.
- Ông Godwin, xin ông hãy nghe tôi nói, - tôi hướng về phía ông luật sư lúc ấy đang cùng ông giám đốc đứng xem tôi hóa trang, - hãy cho tôi gặp ông Hopkhar. Bởi vì ông ta là người sẽ bấm cái nút quyết định ấy. Tôi rất muốn biết ông ta định thả lò xo như thế nào.
Bỗng nhiên một nỗi sợ ghê gớm tràn ngập lòng tôi. Nhỡ đây là một việc đã được bố trí từ trước thì sao? Nhỡ cái ông Hopkhar nào đó thả lò xo quá mạnh thì sao. Nhỡ ông ta không biết điều khiển máy thì sao? Nhỡ tất cả bọn họ đều muốn tôi...
Không còn nhớ mình là ai nữa, tôi đứng phắt lên và thét:
- Tôi không muốn! Tôi không nhảy!
Một giọng giễu cợt vang lên:
- Ái chà! Ấn anh ta ngồi xuống ghế!
Tôi xoay người trong đôi cánh tay rắn chắc của Godwin và kêu lên:
- Được! Cứ việc mà ấn tôi xuống ghế?
Godwin ghé vào tai tôi:
- Ông Hopkhar muốn nói chuyện với anh đấy.
Tôi hết sức ngạc nhiên khi trông thấy nhà tỷ phú. Ông bước vào với dáng điệu đầy kiêu hãnh và tự chủ. Đó chính là Clips, ông ta ăn mặc không chê vào đâu được.
Một kim cương sáng lấp lánh trên chiếc kim găm cài ở cravate của ông. Clips nhìn tôi với vẻ nghiêm khắc, và bỗng nhiên, bằng một cử động không thể nào bắt chước được, ông nhướn hàng lông mày bên trái lên. Đó là ám hiệu bảo im lặng và thận trọng. Tôi hiểu rằng bây giờ không phải lúc cần biểu thị sự ngạc nhiên của mình trước cuộc gặp gỡ bất ngờ này. Ồ, đó là một nhà tỷ phú chính cống, nhưng tôi thấy rõ là trên mặt ông đã bôi son phấn để hóa trang. Clips sắm vai. Ông nói rít qua răng không được lễ độ lắm:
- Godwin, thằng bé đã thay quần áo xong chưa? Nhỏ năm giọt rum vào một mẩu đường cho hắn ăn. Trong tay tôi, hắn sẽ nhảy như thần cho coi.
Ông bắt tay tôi khích lệ:
- Chú mày chỉ được xoay hai vòng thôi nhé. Và đếm đến mười một. Đến mười hai thì chú mày đã ngồi trong thùng rồi. Nào, bây giờ thì ra trường đua. Hãy kệ lão thẩm phán ấy chuẩn bị cái ô. Chúng ta sẽ gây ra trên vũ đài một cơn bão trong một cốc nước...
Tôi mút hết mẩu đường rồi đứng dậy.
- Xong.
Clips nói:
- Thế mới tốt, hãy nhìn đời cho vui vẻ hơn, và chú mày sẽ phá kỷ lục của một tay Pingle nào đấy...
Tiếng dàn nhạc từ vũ đài vẳng đến. Ban giám đốc không ngần ngại gì trước mọi khoản chi phí và đã cho công chúng được thưởng thức âm nhạc trong thời gian tòa tạm nghỉ.
Clips ra lệnh:
- Đi thôi chú mày! Allez, đi đều hước!..
Bài “Hành khúc của các đấu sĩ” vang lên. Khi tôi bước ra vũ đài, tất cả các đèn chiếu đều tập trung rọi vào tôi. Tôi đi giữa hai hàng lính sen đầm thẳng tắp và những nhân viên phục vụ vũ đài. Thẳng phía trước tôi là hai chiếc máy quay phim cùng với những micro đặt trên một chiếc xe lăn. Tôi muốn đập tan ngay những chiếc máy đã có mặt ở đây một cách hết sức vô duyên ấy và muốn đánh cái bọn người cứ đi lại thoăn thoắt trên những chiếc xe lăn. Tôi nắm hai tay lại, rướn thẳng người lên... và bỗng nghe thấy giọng Clips nói ở phía sau:
- Con trai thân yêu của ta ơi, dũng cảm lên! Toàn thế giới đang trông vào con đó!
Ông ta khéo nói những điều ấy bằng cái giọng cao thượng của một người cha yêu quí con mình.
Vừa lúc ấy trong rạp ồn ào cả lên. Một bà ăn mặc sang trọng vừa xô đẩy những người lính sen đầm và những nhân viên phục vụ vũ đài vừa rên rỉ khóc lóc lao về phía tôi. Bà quỳ xuống đất, giơ hai tay về phía tôi rồi gào lên:
- Charlie thân yêu! Đừng từ bỏ con người này!
Tôi lùi lại một bước vì xúc động và sợ hãi nói:
- Xin bà tha lỗi cho...
Tôi tiếp tục đi lên, bước qua phía trước mặt người phụ nữ đang tự vò giật tóc mình vì đau thương điên loạn.
Clips vội thì thầm vào tai tôi hằng giọng nói ông vẫn thường dùng để động viên khích lệ:
- Đừng để tâm đến những chuyện vặt ấy, trên đời này thiếu gì những bà hay đa cảm! Phải cho họ thấy thế nào là nghệ thuật...
Thế là, một lần nữa, tôi lại đứng trên vũ đài. Và kia, cái bệ phóng. Xung quanh tôi là cả một đám đông muôn hình muôn vẻ đang ầm ĩ lên, họ khát khao chờ đợi một cảnh tượng đẫm máu cho xứng với đồng tiền của họ. Ông thẩm phán che đầu bằng một chiếc dù và chốc chốc lại kinh hãi đưa mắt nhìn thùng nước.
Tôi sáng suốt cân nhắc: “Không, tao không muốn, và sẽ không cho để làm trò tiêu khiển cho chúng mày. Tao không muốn chết như thuở xưa những người nô lệ đã chết trên vũ đài “Colosseum””.
Ông thẩm phán gọi về phía tôi:
- Bị cáo, người tự gọi mình là Pingle, tôi đề nghị anh hãy cho tòa thấy một bằng chứng xác thực...
Clips đến đứng ngay cạnh tôi và cúi chào bốn phía.
Dàn nhạc bắt đầu chơi bài “Ngủ đi nhé, mèo con của mẹ...”
Tôi nằm vào trong nôi.
"Lạy chúa, em ở đâu, hởi Edith? - đó là ý nghĩ cuối cùng của tôi.
- Chú ý!
- Xong!..
- Bay!..
"Uuuuuuuuuuu... Tiếng trống đánh và tiếng kêu thét của đám người hòa vào làm một. Rạp xiếc lộn nhào và sụp đổ qua đầu tôi. Chỉ một loáng sau tôi đã ngồi trong thùng nước, quay đầu lên và khạc nhổ như con chó xồm sặc nước.
Clips chìa tay cho tôi. Đám người gào thét đinh tai nhức óc. Ông thẩm phán lắc chuông, nhưng làm sao mà nghe thấy được.
Rạp “Colosseum” thì vẫn thế. Nhưng tôi đã không còn là tên cướp Carnero nữa, mà đã lại trở thành Samuel Pingle.
Godwin phát biểu. Ông nói rằng tôi đã xác minh bản thân mình một cách xuất sắc. Ông còn nói rằng tôi đã đến Mazatlán vao buổi trưa đúng như người đánh cá chở tôi chứng nhận. Ông nói rằng tiến sĩ Rolls bị giết vào lúc chín giờ sáng. Điều này được xác định bởi chiếc đồng hồ báo thức mầu đồng đỏ của tiến sĩ, vì nó bị rơi xuống sàn nhà trong lúc Rolls vật lộn với tên giết người và dừng lại ở lúc chín giờ. Ông kiểm sát trưởng tuyên bố trắng án, và tôi lập tức được tự do.
Nhưng suốt đời lòng tôi vẫn lắng đọng một cảm giác kỳ lạ. Từ đó tôi hết sức căm thù vũ đài rạp xiếc, dù ở đây người ta có trình diễn những tiết mục hay đến mấy đi nữa.
Đám đông hàng nghìn người đã đưa tiễn chiếc xe hơi trên đó có tôi, Godwin và Clips đến tận nhà tù.
Thế là cuối cùng chỉ còn lại mình tôi. Jige bước vào phòng giam.
Bác bắt chặt tay tôi và dịu dàng nói:
- Xin chúc mừng anh. Tôi có vinh hạnh được anh sai bảo điều gì chăng? Ngày mai trong tay anh sẽ có một số tiền lớn, khiến anh hơn hẳn bất kỳ lão Clips nào.
Tôi trả lời bác ta với vẻ đăm chiêu nhưng kiên quyết:
- Bác Jige thân mến, nếu bác là bạn tôi, và chắc chắn là như thế thì xin bác hãy thu xếp sao cho họ thả tôi ra ngay tối nay. Tôi không muốn đợi đến sáng.
- Đối với tôi, lời yêu cầu của một người như anh là sắc luật. Mọi việc trên đời này đều do bàn tay con người quyết định, - bác ta nói với vẻ quan trọng rồi bước ra, bỏ ngỏ cửa phòng giam.
Đến nửa đêm, người ta cho gọi tôi lên văn phòng nhà tù. Thư ký Ben ngồi trên chiếc ghế cao ở sau cái bàn nghiêng mặt hạ cố nhìn tôi với vẻ thiện ý, hai chân ông đang rung tít lên.
- Anh Pingle, bây giờ thì anh đã có thể đi bốn phương trời. Nói riêng với nhau, vụ án quả là ly kỳ. Giấy tờ của anh bị mất hết. Xác của ông Rolls xấu số không tìm được. Kẻ tòng phạm với anh cũng không thấy đâu. Đó là một sai lầm lớn, nhưng điều ấy vẫn không làm thay đổi cái kết quả cuối cùng. Anh đã nhảy như một con quỷ, và bây giờ, dựa vào pháp luật, anh có thể rời khỏi cái nhà tù đáng kính này của chúng tôi, và muốn đi đâu tùy ý...
- Vậy thì xin vĩnh biệt, thưa ông Ben, - tôi nói và đồng thời cởi áo tù ra.
Vừa thu nhặt những giấy tờ trên mặt bàn, Ben vừa nói lúng túng:
- Khi nào làm xong thủ tục chúng ta sẽ chia tay. Vậy là... Đây, quyết định của tòa án... - Ben nháy mắt láu lỉnh: - Ra anh cũng khéo lừa ông thẩm phán... Hãy thừa nhận đi, anh đã kịp thời che đậy được một số tiền chứ gì?
Chỉ cần tôi trả lời thiếu thận trọng một chút thì cái áo tù kẻ sọc lại rất có thể choàng vào người tôi một lần nữa, vì vậy tôi thở dài.
- Cười trên nỗi đau khổ của kẻ khác là có tội, - tôi nhắc lại một câu trong quyển kinh cầu nguyện mà tôi đã từng phải đóng ở trong tù và đưa mắt nhìn xuống với vẻ khổ não.
Điều ấy đã cứu tôi thoát khỏi cơn giận dữ. Thực ra, trong lòng tôi muốn ông cho thằng cha quỷ quyệt ấy một quả vẹo quai hàm, vì cuối cùng hắn vẫn định đưa tôi vào bẫy.
Jige nặng nề bước vào phòng.
- Đây là lệnh của trên. Ben, hãy trả lại tiền cho ông Pingle.
Ben như tỉnh người ra?
- À phải! Tiền công đóng sách của ông được mười chín dollar mười cent. Thưa ông Pingle, xin mời ông ký nhận cho...
Ben trao tiền cho tôi. Ông ta nói giễu:
- Ông hãy trở về hòn đảo của ông rồi xông cá thu lên mà ăn, chúc ông hạnh phúc. Ông làm chúng tôi lấn bấn vì ông như thế đã lắm rồi. À quên, ông đã cạo mặt ba lần trong tù. Phải lấy lại của ông ba mươi cent...
Tôi để lại trên một bàn một dollar. Ben vội chộp ngay lấy và dấu bản quyết định của tòa án đi.
Khi tôi vừa chụp chiếc mũ kepi lên đầu, hắn nói độc địa:
- Mong chóng gặp lại anh ở đây.
Tôi cũng đáp lại lời hắn không kém phần độc ác:
- Cho tôi gửi lời chào nồng nhiệt tới ông Greg và nói hộ rằng tôi hết sức khâm phục những phương pháp điều tra của ông ấy.
Khi tôi bước ra khỏi của, Jige bực dọc nói:
- Anh chớ phiền lòng vì những lời lẽ của Ben. Số phận đã làm cho hắn hễ nói là như cắn người ta, biết làm sao được. Anh nên đến một hotel nào đấy mà ngủ qua đêm, sáng ra hãy tới chỗ ông giám đốc rạp xiếc. Ở đấy thì bao giờ cũng có việc làm cho anh...
Nhưng tôi đã đi tìm nhà ga, hai chân mải miết bước đi trên các vỉa hè trơn ướt vì mưa đêm. Tôi muốn tìm trong cuộc đời một con đường riêng của mình.
Thế là sau khi đã lang thang khắp chốn, cuối cùng tôi đến bờ biển phía đông.
Tôi đã bắt đầu cảm thấy những ngọn gió mát của một đại dương thân thuộc. Tôi hết sức vui mừng nhận ấy chiếc tàu “Mèo xanh” chất nặng hàng đang đậu bên bến cảng.
Bác Sa răng trắng đứng trong cửa khoang ngó ra và nhận được tôi.
Ông thuyền trưởng, bấy giờ đang đứng hút thuốc trên boong, nheo mắt lại, vừa nhìn thấy tôi ông liền hồ hởi kêu lên:
- A-lô, a-lô, anh chàng vô dụng! Ta nhìn thấy tâm can chú mình rồi. Nào, lại đây! Nếu muốn về nhà thì hãy cầm lấy xẻng...
Người thuyền trưởng đoán đúng - tôi muốn trở về.