Chương tám ❖ I ❖
Đã gần ba năm, kể từ khi từ biệt thành phố quê hương Ashworth thân yêu, tôi vẫn không tìm được chỗ đứng dưới ánh mặt trời. Sau một chuyến đi vòng quanh thế giới tôi lại trở về đây bên những bờ bến đầy sương mù che phủ. Tổ quốc đã đón chào tôi không lấy gì làm niềm nở. Tôi không muốn kết thúc cuộc đời ở vị trí của một người thợ than. Lòng tôi vẫn chưa hết hy vọng. Nhưng tôi không có việc gì làm ở cái thành phố lớn này, nơi mà tôi đã lên bờ.
Mùa thu đang lén tới gần. Một hôm vào ban đêm, ở một công viên nhỏ, tôi phải ngồi lưng tựa lưng với một tên lưu manh cho ấm người.
Tên lưu manh ấy triết lý:
- Cuộc đời của một thằng lưu manh còn tồi tệ hơn cái chết. Trên đời này tao không có một người thân thích nào. Vì vậy, đối với tao, đi đâu cũng thế thôi. Chà chú mày ạ, trong đời mình, tao đã phạm biết bao sai lầm! Và bây giờ có hối hận thì cũng muộn rồi.
Tôi hỏi:
- Nào có gì ngăn cản anh sống cho tử tế? Hay có lẽ do tính anh không muốn sống hòa vào với mọi người?
Hắn trả lời:
- Trước hết là sự bần cùng và thất nghiệp. Đó, tớ cứ ngồi như thế này và đợi tới nửa đêm. Cách đây không xa, sau đường hầm có một toa xe không. Lát nữa hai thằng bạn tớ sẽ tới đây báo cho biết, nên lên tàu tốc hành chở than từ phía nào thì tiện hơn. Sau một ngày một đêm tàu sẽ đưa chúng ta tới Wesley...
Quê hương thân yêu đang vẫy gọi tôi. Và tôi đã quyết định. Những hành khách lậu thuế đã khôn khéo đánh lừa những con “bò đực” - bọn người canh gác những toa không hàng và những toa sàn dùng để chở than. Mò mẫm dưới bùn, bốn người chúng tôi lẻn tới các toa không. Sau đó tôi nằm co quắp như con chó hoang trên một toa sàn hôi thối. Mùi bùn hăng hắc xông vào mũi. Cái khát cháy cổ hành hạ tôi. Những thân hình rách rưới thảm thương nằm tụm lại một chỗ trên sàn xe, và tất cả chúng tôi đều quặp chặt lấy nhau thành một khối. Bất thình lình tàu giật lên như nổi cơn tức giận. Đầu tôi đập vào một cái đinh bulon. Tôi khát nước không chịu được. Ngửa mặt lên trời, tôi há miệng đón những giọt nước mưa thưa thớt rơi xuống.
Một người nào đấy nằm trên bụng tôi làu bàu với giọng bực tức:
- Sao mày cứ cựa quậy mãi thế?
Còn người nằm bên cạnh tôi thì hiền lành hơn, nhưng hắn đạp chân vào sườn tôi một cái rất đau rồi ngáy khò khò.
Tầu trườn đi trong không gian, trong bóng đêm, trong cô tịch, nó thận trọng tăng dần tốc độ.
Tôi sống cả ngày trong đường hào cạnh đường sắt để chờ đêm đến và một toa xe không. Cuối cùng tôi đã lên được một toa sàn để đi tới Wesley. Nhưng tôi phải rời khỏi toa trước khi tàu đến đó. Trước mặt tôi còn lại một đoạn đường dài. Bây giờ tôi phải đi bộ đến Wesley. Rồi từ đó tôi sẽ đi về Ashworth, tôi sẽ được thấy lại cha và Edith.
Nhưng cứ mỗi bước tôi đi là một bước những ý nghĩ đen tối đến dày vò tôi. Tôi có quyền trở về không? Bởi vì trong những bức thư mà thỉnh thoảng tôi gửi về cho Edith và cha từ Miến-điện đã chót tả quá hay về hoàn cảnh mới của mình, tôi viết rằng tôi sắp trở thành một phụ tá trong phòng thí nghiệm công nghiệp, tôi đã phóng đại tô màu và khoác lác để tạm yên lòng ông cụ và cô gái đáng thương. Tất nhiên là họ tin vào những lá thư của tôi. Tôi đã gây cho họ những ảo tưởng và hy vọng hão huyền như vậy để làm gì nhỉ? Bây giờ thì sao? Tôi vẫn là một kẻ hành khất và vô gia cư như trước. Sao tôi lại nghe lời Clips kia chứ? Lẽ ra tôi phải lao xuống sàn trải cát của vũ đài hoặc lao vào bàn ông thẩm phán cho bể đầu ra, và thế là hết chuyện. Lòng ngổn ngang trăm mối tơ vò, tôi ghìm bước. Cuối cùng tôi dừng hẳn lại, thu nhặt những hòn đá trên đường nhét vào đầy cái túi cũ đựng đồ hành lý, vắt nó lên sau vai rồi đi tiếp với những bước chân nặng nề.
Cái kênh đào rất sâu ở Wesley đây rồi.
❖ II ❖Tôi nhớ rằng tôi đã đứng rất lâu trên bờ kênh, lòng tràn đầy khổ đau và tủi cực.
Chà tôi cứ ở lại thành phố có tốt hơn không: tôi có thể ngủ đêm ở đấy, nếu không ở dưới các bụi cây của công viên Victoria thì cũng có thể nằm trong các hố rác ở Goldhill.
Chỉ cần hồi tưởng lại rằng, từ trên bầu trời đầy mây, cái đêm sâu thẳm của một ngày cuối thu đã chụp xuống, trong khi từ phương bắc những đợt gió lạnh đã bắt đầu thổi về và trong không khí như sắp có mưa bụi, thì bất kể một kẻ lang thang không nhà không cửa nào cũng phải thấy rùng mình ớn ngợp và cố khép cái manh áo đã dày dạn gió sương của mình lại cho chặt hơn nữa.
Trong óc tôi hiện lên một ý tưởng rất rõ ràng: “Không, tôi sẽ không trở về nữa. Hãy để cho nước kênh chôn vùi ta cùng với những nỗi niềm tủi cực.”
Nhưng thực hiện được bước quyết định ấy nào có dễ. Nghĩ tới cái đêm tối vĩnh cửu lạnh lẽo và cô đơn tôi bất giác đưa tay cài tất cả các khuy áo lại. Tuy vậy, tất cả cũng chỉ còn lại có hai cái. Rồi tôi nghĩ tới chuyện ăn, nhưng tôi không thể nhớ được tôi đã ăn bữa nóng cuối cùng vào lúc nào.
- Anh bạn trẻ, xin anh tha lỗi cho, - tôi nghe thấy một giọng nói lịch sự vang lên ở ngay cạnh và quay lại.
Đứng cạnh tôi, bên hàng chấn song sắt của kênh đào là một người chưa già lắm, râu cằm cạo nhẵn nhụi, ăn mặc không chải chuốt và đội một chiếc mũ hơi nhầu nát. Ông đăm chiêu nhổ nước miếng xuống làn nước đục đang phản chiếu những bóng cây rung rinh mọc ở phía bờ đối diện và những ánh lửa lập lòe. Cặp mắt sâu thẳm của con người ấy ánh lên vẻ khôi hài buồn thảm. Hai tay ông nắm chặt hòn gạch nặng đặt trên thành lan can bằng đá granito và mỉm cười nhìn tôi.
- Xin lỗi anh, - ông nhắc lại. - Tôi xin anh làm ơn giúp cho hai việc.
Ông nói rất lịch sự, và tôi cho rằng mình phải trả lời cho lễ độ.
- Thưa ông, tôi sẵn sàng giúp đỡ ông.
- Hừm... - ông ta ho. - Anh có mẩu dây thừng nào thật chắc có thể chịu được sức nặng của viên gạch này không?
Trong chiếc túi đi đường mà tôi đã mang theo từ khi rời khỏi tàu “Mèo xanh”, trong cái túi vẫn còn đượm mùi hầm tàu và những chỗ ngủ đêm và đã không còn cái vẻ đẹp lúc đầu nữa ấy vẫn còn lại những mẩu dây con đã cũ.
Tôi trả lời:
- Rất tiếc là tôi không có dây thừng. - Tôi muốn giúp ông ta nên nói thêm: - Nhưng nếu ông vừa lòng với những mẩu dây này, thì dây, chúng còn chắc lắm. Trước đây tôi vẫn dùng để bẫy chim câu đấy.
Mặc dù lúc ấy tôi hoàn toàn không muốn mở túi ra vì lẽ dễ hiểu, nhưng tôi vẫn cố quẳng cái túi từ trên vai xuống. Con người ấy cười mỉm, giữ tay tôi lại.
- Cám ơn anh, tôi nghĩ lại rồi. Hừm... Tôi nghĩ rằng chỉ cần cho viên gạch vào trong chỗ áo ngực rồi cài chặt cúc lại cũng được. Nói chung chẳng cần lấy dây thừng buộc gạch vào cổ làm gì, đúng thế không.
Tôi lo lắng hỏi nhỏ:
- Ông định làm gì?
- Tôi chắc anh cũng đoán được - ông ta bĩu môi cười. - Trèo lên trên lan can rồi lao xuống cái địa ngục này. Hòn gạch sẽ giúp tôi chìm nhanh xuống đáy.
- À ra thế... - tôi ngạc nhiên trước sự cởi mở như vậy.
- Hừm... Thế anh cho rằng trước mặt anh là một nhà thủy văn đang quan tâm đến độ sâu của cái công trình này vì một mục đích khoa học à?
Ông ta nói làu bàu như đang cáu tiết lên, và tôi thấy rùng mình.
- Đừng nên thế ông ạ!
Nhưng ông đã nhìn tôi với vẻ hết sức miệt thị khiến tôi phải lùi lại. Còn ông thì rít lên qua kẽ răng.
- Hừm... Có lẽ anh là một giáo chủ trong nhà thờ. Anh dạy mọi người tránh điều ác và làm điều thiện chắc? Hay có lẽ anh là kẻ tuyên truyền của hội cung cấp tăm xỉa răng cho những người thất nghiệp? Không à? Hừm... Tôi đoán được rồi. Anh là con trai của một nhà triệu phú và hôm nay, để đi tìm thú phiêu lưu mạo hiểm, anh đã thay cái áo đuôi tôm và đôi găng trắng bằng bộ đồ rách rưới này. Chà, anh bạn ạ, nếu anh ở vào hoàn cảnh tôi thì có lẽ anh đã chẳng can tôi, mà còn tháo nốt cả những dây đeo quần còn lại của mình ra để buộc hòn gạch vào cổ tôi, rồi chúc tôi ngủ say và hứa hoàn thành nốt điều đề nghị thứ hai của tôi...
Vì hết sức kinh ngạc nên tôi đã không cắt ngang những lời nói chứa chất đầy tính châm biếm cay độc và lòng uất hận của ông. Thời gian gần đây tôi đã quen với những kiểu lời lẽ đó. Bằng động tác hết sức mạnh mẽ của một con người đã kiên quyết làm mọi chuyện, người lạ mặt nhét hòn gạch vào trong ngực áo và bất thình lình nhắc lại bằng một giọng nhỏ nhẹ, đơn giản:
- Phải, điều yêu cầu thứ hai. Khi từ dưới đáy sâu mười lăm foot tôi bắt đầu sủi bọt lên, có thể bọn cảnh sát sẽ xuất hiện. Chúng thường đi môtô trên con đường này. Tôi van anh nói với chúng rằng, không có chuyện gì xảy ra hết. Nếu không bọn chúng sẽ dùng câu liêm để mò. Chúng chẳng hơi đâu mà vớt tôi lên, nhưng có thể sẽ làm lòi mắt tôi ra. Có thể lắm chứ. Nhưng tôi muốn được trình diện ở thế giới bên kia với một bộ dạng thật tươm tất và cặp mắt thì nhất thiết phải còn nguyên vẹn. Anh hứa giúp tôi chứ? Vậy thì...
Tôi thét lên:
- Khoan! Nghe tôi nói đã!..
Nhưng người ấy đã bám hai tay vào lan can và chuẩn bị nhảy qua nó xuống nước.
Ông nhìn chăm chăm vào mặt tôi:
- Nói đi, nhanh lên, tôi không có thì giờ chờ đợi.
Tôi nghẹn thở vì lo sợ. Tôi hoàn toàn không muốn để con người nhỏ bé ấy chết chìm và sủi tăm lên từ dưới đáy nước sâu mười lăm foot.
- Ô thưa ông... - tôi hoảng hốt nói lắp bắp. - Mong ông tin tôi, chính tôi đã nhiều lần rơi vào những tình cảnh khủng khiếp. Những nỗi tủi cực cay đắng đã rình mò tôi như những viên đạn rình mò gà gô vậy. Nhưng tôi vẫn còn hy vọng...
Ông ta cười.
- Anh là một diễn viên hài kịch. Có lẽ cuộc đời cũng mới chỉ cho anh mấy tát tai nhẹ. Chưa đến lúc nó giáng cho anh một “quả” vẹo quai hàm và nảy đom đóm mắt đấy thôi. Sao? Hàm vẫn còn lành hả? Hừm... Anh muốn nói gì? Đề nghị tôi đừng nhẩy phải không?
Ký ức xưa về vũ đài chợt hiện ra trong tâm trí tôi, và tôi ra trả lời quả quyết:
- Vâng.
Có lẽ khi nói thế, thì bản thân tôi đã muốn cứu mình thoát khỏi nỗi thất vọng riêng. Dù sao chính tôi đã chọn con kênh đào hẻo lánh cách xa đường xe chạy với mục đích y hệt như của con người kỳ lạ này. Cái túi đựng toàn đã sỏi chắc nịch sẽ kéo tôi xuống đáy nhanh hơn hòn gạch, và tôi có thể cuộc một trăm ăn một rằng tôi sẽ là người đến đích đầu tiên trên quãng sâu mười lăm foot ấy.
Người lạ mặt nói với vẻ đăm chiêu:
- Nhưng chúng ta còn có thể trông đợi vào điều gì?
Vội chộp lấy những tia hy vọng le lói, tôi nói lúng túng:
- Chúng ta sẽ tới Wesley và thử đến xin ngủ nhờ ở chỗ Hội cứu vớt những tâm hồn tội lỗi.
Để trả lời tôi ông ta nghiến răng kèn kẹt:
- Hừm... Anh bạn trẻ ơi, thế anh không nghĩ ra được kế gì hay hơn ư? - Lại vẫn cái giọng châm biếm như trước vang lên. - Đứng xếp hàng đợi đến hai giờ sáng ở trong sân cùng với những “tâm hồn tội lỗi” khác như chúng ta chăng? Rồi sau đó thì xô đẩy nhau rúc vào cái ổ chó để các mụ già quí tộc bắt chúng ta hát bài tụng Jesus và nghe lão thầy tu truyền đạo với đề tài “Hãy lấy điều thiện để đáp lại điều ác” chăng? Không, xin cám ơn...
- Tuy nhiên chúng ta cũng sẽ được một đĩa xúp yến mạch và một chỗ nằm ở dưới mái, - tôi phản đối ông ta với một thái độ bướng bỉnh kỳ lạ. Có lẽ thái độ ấy đã giúp tôi từ bỏ ý nghĩ về một việc không thể tránh khỏi là nhảy xuống nước cùng với túi đựng sỏi.
Con người ấy nheo mắt và cau mặt lại, ngắm nghía tôi từ đầu đến chân.
- Có lẽ chúng ta đừng đến Wesley, mà đến lâu đài Oldmount tuyệt đẹp chăng? Chúng ta sẽ đến bên các cửa sổ phòng ngủ của ông chủ lâu đài tốt bụng và kêu cầu: “Lạy ông, thưa ông chủ muôn ngàn lần tôn kính. Xin ông lắng nghe đôi lời cầu khẩn!” Ông chủ lâu đài sẽ ra ngoài ban công, hoặc mở cánh cửa thông hơi và thò cái đầu đội mũ ngủ ra ngoài. Ông nói: “Chào các chư vị. Tôi phải làm gì để đáp lại buổi viếng thăm của các chư vị?” Bấy giờ chúng ta sẽ kính cẩn cúi rạp mình xuống: “Từ sáng hôm qua đến giờ chúng con chưa được miếng nào vào bụng và chúng con không có xó xỉnh nào để ngủ qua đêm”. Tất nhiên rất có thể ông chủ lâu đài sẽ trả lời: “Thế thì ta biết làm thế nào?” Và chúng ta lại khẩn khoản: “Dẫu sao ông lớn cũng có thể bố thí cho chúng con chút gì chăng? Chúng con đã từng nghe nói tới lòng từ thiện vô bờ bến của người. Chỉ cần ông lớn bố thí cho chút cơm thừa canh cặn giản dị của bữa chiều cũng đã làm chúng con lấy làm thỏa mãn. Và cả chiếc áo choàng ngày lễ của ông lớn nữa, chúng con sẽ dùng làm chăn. Sớm mai chúng con sẽ bán lại nó cho người buôn đồ cũ và chúng con sẽ sống sung sướng trong cả tuần...”
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Ông chủ từ tâm của lâu đài Oldmount ấy ư? Chẳng lẽ ông đã trở về rồi sao?
- Anh nói về ai vậy? - ông ta phẩy tay. - Bọn họ đều như nhau cả thôi... Thật buồn cười... Trước khi anh kịp mở mồm kêu xin thì tên gác cổng lâu đài đã xơi cho chúng ta vài quả tống như thế này này... - ông ta thét lên như bị rắn cắn: - Mà tôi thì không muốn thế, hiểu chưa! Vĩnh biệt!
Ông ta bắt đầu leo qua lan can.
- Khoan đã! - Tôi vừa thì thào vừa thở hổn hển. Ở lại một mình trên cái thế giới này quả là kinh khủng, và tôi cũng đã quyết định. Hai tay run rẩy, tôi thắt chặt dây túi sẵn sàng bước vào chuyện du lịch cuối cùng. - Chờ tôi chút nữa, - tôi suýt bật khóc lên. - Chúng ta cùng đi... Tôi với ông...
Ông ta há hốc miệng vì kinh ngạc và rút chân đã trèo qua lan can trở về chỗ hõm đẫm sương bên bờ kênh.
- Chúng ta không hề ký giao kèo về khoản này, - ông mỉm cười buồn bã. - Anh biết không, việc này sẽ chẳng ra gì đâu, và còn hết sức tai hại nữa. Chà, tôi hiểu lắm chứ, cứ mặc tôi đi một mình. Anh còn trẻ, thế mà đã trốn tránh đấu tranh ư? Không được, xin cứ để tôi đi một mình.
Ông ta lại vắt chân qua lan can.
Nghẹn ngào nước mắt, tôi lo lắng lẩm bẩm:
- Không được. Tôi không để ông đi một mình đâu!..
Con người ấy ngồi trên lan can, quay lưng về phía kênh và đăm chiêu vuốt sống mũi.
- Hừm... Bây giờ trông anh có vẻ hống hách như trước đây anh đã từng là kẻ giữ dấu ấn của vương quốc vậy. Nếu tôi không thể cho phép anh đi cùng xuống đấy thì, - ông chỉ tay xuống mặt nước đen ngòm, - tôi đành ở lại đây với anh. Ông lấy viên gạch trong ngực áo ra đặt lên trên lan can. - Bây giờ đến lượt anh. Anh bạn trẻ ạ, tôi không thích cái của chứa trong túi kia, - ông nói thêm với vẻ thân ái.
Tôi đỏ bừng mặt, mồm lẩm nhẩm những điều chẳng ra đâu vào đâu.
Nhưng con người ấy đã khích lệ:
- Đừng ngại. Trên đời này chuyện gì mà chẳng có thể xảy ra. - ông ta nheo mắt và cười hiền hậu. - phải thế không anh bạn? Quẳng đá xuống nước, còn chúng ta thì ở lại chứ?
Ông giúp tôi vứt sỏi xuống nước và cuối cùng liệng luôn cả hòn gạch của mình.
- Ta cùng đi chứ? - tôi hỏi lại đồng thời hất cái túi rỗng ra sau vai.
- Nếu anh muốn như vậy.
Quả là tôi đã quá mệt mỏi vì cuộc sống đơn độc, bởi vì cuộc gặp gỡ kỳ lạ này đã kéo tôi ra khỏi những ý nghĩ khủng khiếp và đem lại cho lòng tôi chút ít hy vọng lờ mờ.
- Một kẻ bất hạnh còn có thể mong gì khác thế nữa?
Bấy giờ người lạ mới thân ái bắt tay tôi:
- Nào, ta hãy làm quen... Tên tôi là Dobby.
- Còn tôi là Samuel.
- Rất mừng. Chính tôi là kẻ bất hạnh vinh dự. Hôm nay số phận đã nuông chiều tôi.
- Vì nó đã trả lại cuộc sống cho ông chăng? - tôi hỏi ngây thơ.
- Ô không, xin lỗi anh nhé, Samuel, vì chuyện cái hòn gạch. Tôi chẳng hề định tự tử, nhưng tôi thấy anh có vẻ thất vọng, bất lực và lại cúi nhìn đăm đắm xuống cái địa ngục ghê tởm này, khiến tôi... Anh hiểu chứ?
Tôi hoàn toàn hiểu rõ mọi chuyện khi thoáng nhìn vào khuôn mặt dũng cảm của con người quen biết ngẫu nhiên ấy và đáp lại ông bằng cái bắt tay thật chặt.
- Xin hết sức cám ơn ông.
Dobby gật đầu:
- Không dám. Anh biết không, Samuel, - Dobby thọc hai tay vào túi áo bành tô, hình như trong túi tôi vẫn còn lại mấy đồng...
Ông nói đến đây, tôi nên nghe thấy tiếng kim loại va chạm vào nhau kêu leng keng, tôi đã quên hẳn những âm thanh ấy trong mấy tuần gần đây. Dobby khéo léo tung đồng tiền lên rồi tóm gọn trong lòng bàn tay.
- Đủ một bữa lót dạ chứ? Bụng có no thì mới tính đến chuyện tìm chỗ ngủ được phải không nào? Hừm... Tôi biết một chốn đủ tiện nghi. Có lẽ ta quay về đấy chứ?
Tôi đói lắm rồi và chẳng phải bàn gì hơn nữa. Tôi nghiêng mình nói:
- Một lần nữa xin hết sức cám ơn ông.
Nhưng Dobby để ngón tay lên trán và như đang tính toán điều gì:
- Hừm... Liệu chúng ta có cần phải tìm nhà trọ gần thành phố không? Nhà tôi ở gần đây. Anh biết chứ? Đến chỗ tôi đi! Chỉ cần phải leo qua một cái đèo ở Ashworth và đi gần một dặm theo khe núi ở bên trái...
- Theo đường hầm Thomas thần thánh? - tôi hỏi.
- Đúng đấy... Anh lại quen biết địa phương này, tốt lắm. Ta đi chứ?
- Vâng, thưa ông.
Nếu số phận còn muốn đầy đọa tôi nữa, thì vâng, cứ mặc nó. Tôi không phản đối, sẵn sàng theo gót Dobby tới chốn nào cũng được.
❖ III ❖Tôi không biết rõ địa phận này lắm nên thận trọng bước theo Dobby khi ông ngoặt vào một khe hẹp mà vào ban đêm nó làm tôi nhớ tới cái hành lang dài vô tận ở dưới đất và nổi tiếng dưới cái tên “đường hầm Thomas thần thánh”. Dobby bước nhẹ và nhanh.
Khi trước mắt chúng tôi mở ra một khoảng đất trống thì trời đã tối đến nỗi tôi chỉ còn phân biệt được những chấn song sắt cao của một hàng rào. Cái cửa vườn nhỏ mả Dobby mở ra sau khi quay một vòng khóa là giai đoạn cuối cùng của cuộc hành trình lên cao.
Một chiếc cửa sổ lẻ loi sáng ánh đèn giữa đám một vài cây cao đang đung đưa cành theo cơn gió mùa thu. Thứ ánh sáng dìu dịu ấy làm tôi nhớ tới ngôi nhà thân thương ở Ashworth và khát khao được sống dưới mái nhà ấy dù chỉ trong mấy phút đến nỗi tôi không thể nén nỗi hồi hộp và tim cứ đập thình thình...
- Thế là chúng ta đã về đến nhà.
Sau khi chúng tôi bước qua hai bậc tam cấp. Dobby thận trọng mở cửa lớn và bước qua ngưỡng cửa.
- Vào đi Samuel. Tôi sẽ bật đèn...
Qua ánh đèn điện tôi thấy rõ gian phòng ngoài nhỏ bé, một chiếc mắc áo, một cái bàn con. Có một vài cửa lớn dẫn vào những phòng trong. Một cầu thang rộng đưa lên tầng trên.
- Anh Samuel ạ, cởi áo cánh ra rồi quẳng nó cùng với cái túi vào góc phòng, - Dobby đề nghị. - Nếu như trong túi không còn lại vật gì quí giá, - ông nói thêm với vẻ đùa vui.
Nhưng trong túi của tôi thì còn có cái gì nữa. Ngay cả mảnh bằng cũng đã bị mất trong “Vụ án Carnero”. Tôi chần chừ e ngại. Sau lần áo rách, trong người tôi chẳng còn gì ngoài chiếc áo lót bằng vải đen kẻ sọc đã rách khiến tôi nhớ tới con tàu “Mèo xanh” và tôi chậm rãi cởi hai chiếc khuy áo duy nhất còn lại.
Dobby hỏi:
- Samuel, anh nghĩ ngợi điều gì vậy? Bây giờ mà được tắm nước nóng thì hay biết bao? Đúng thế không?
Tôi không ngờ lại có được niềm lạc thú ấy. Dobby đã hoàn toàn chinh phục tôi. Đi theo Dobby vào buồng tắm, và ở đấy tôi đã tháo bỏ không thương tiếc những đồ rẻ rách ra.
- Anh cứ việc tắm cho thỏa thích. Lát nữa tôi sẽ mang lại cho anh áo lót sạch và quần áo ngoài. Tôi với anh cùng một khổ người, tôi tin anh sẽ mặc vừa... - Ông nói thì thầm. Thấy mặt tôi có vẻ ngơ ngác, ông nói thêm: - Người hầu của tôi không được khỏe. Tôi không muốn làm phiền bác ta.
- Ô vâng, tất nhiên rồi, - tôi cũng đáp lại se sẽ.
Chiếc bọt biển ấm nóng dùng để kỳ mơn trớn tôi, nó làm bở tung những địa tầng tích tụ trên cơ thể tôi trong những ngày phiêu bạt không cửa không nhà. Tôi mải tắm nên cũng chẳng hề nghĩ rằng sao cái ông Dobby ấy lại kỳ lạ đến thế, và bỗng dưng ông rước một tên lưu manh ở trên bờ kè về nhà mình làm quái gì kia chứ.
Cửa buồng tắm hé mở và tôi thấy cánh tay gầy gò của Dobby ném lên ghế khăn mặt, khăn lau mình, áo lót, quần áo mặc ngoài và một đôi giầy. Đôi bít tất màu và cái cravate kẻ sọc đã bổ sung thêm cho đủ lệ bộ.
Tôi cám ơn ông chủ, và bây giờ thì, như một đứa trẻ vô tư lự, tôi vùng vẫy trong nước ấm, chứ không phải bận tâm đến những chuyện gì khác nữa. Dù sao được mơn trớn trong bồn nước nóng vẫn dễ chịu hơn nhiều so với với chìm nghỉm dưới đáy kênh sâu mà sủi bọt lên. Tôi đã thay nước trong bồn hai lần và cuối cùng thì vui mừng nhận thấy da dẻ tôi có cái vẻ hồng hào tự nhiên. Tôi còn thấy da tôi rất sạch sẽ, mặc dù đã phải tiếp xúc với đủ hạng người bẩn thỉu.
Sau khi đã tráng nước lạnh và mặc quần áo, tôi lấy làm buồn rằng trong phòng rửa mặt không có gương soi, cũng không có cả bộ đồ cạo mặt. Do đó tôi không dám tin mình đã thắt cravate được thẳng thớm. Tôi dùng tay vuốt qua loa mớ tóc trên đầu. Lần cuối cùng tôi được tắm là cách đây ba tháng. Ở nhà ngủ đêm của Hội các bà “cứu trợ người nghèo”. Từ đấy trở đi tôi đã để tóc mọc tự do, râu và ria phát triển tùy thích.
Bây giờ thì tôi đã có thể tho phép mình được mỉm cười: “Phải chăng số phận đã thay đổi thái độ đối với tôi?”
- Xin mời anh, Samuel, - tôi nghe thấy giọng nói nhỏ nhẹ của Dobby. Ông đứng ngoài cửa trong bộ quần áo màu xám giống hệt của tôi - Anh ăn mặc vào làm tôi nom thích mắt lắm. Ta đi đi.
Từ người ông tỏa mùi hương lavender thơm dịu, cặp mắt ông sáng lên, hoàn toàn không còn đượm vẻ thê lương ủ dột nữa.
Tôi tưởng như mình đang mơ ngủ khi Dobby dẫn tôi vào phòng ăn. Ở đây, trên chiếc bàn tròn bầy biện đủ thứ ngon lành: những bình đựng hoa quả, những đĩa bánh mì, bơ, pâté, và lại còn cả ấm pha cà-phê đang chảy tong tong đặt trên chiếc đèn cồn.
Có lẽ tôi đã thực sự chìm xuống đáy kênh cùng với túi đá sỏi, đang sủi tăm lên từ độ sâu mười tám foot và đây chỉ là những điều tôi cảm thấy trước lúc chết chăng? Hay tôi đang trằn mình ở một nơi ngủ trọ thuộc nhà thờ và nằm mơ thấy tất cả những chuyện ấy?
Tôi không hề nhận thấy rằng tôi đang cố hết sức véo thật đau vào tai mình.
- Anh ngồi xuống đi, - Dobby đề nghị - ăn cho no nhé. Những món ăn này là một hiện thực. Không có rượu, - bản thân tôi không uống và cũng không khuyên ai uống cả.
Tôi đã không buộc mình phải cầu khẩn. Ôi, lạy chúa tôi và Thomas thần thánh! Hãy tha thứ cho con, một kẻ tội lỗi! Trong tai tôi nghe u u như thể toàn bộ cối xay gió và nước ở Ashworth đang nghiền vụ lúa đại mạch của cả năm thành bột trong một đêm. Khi tôi cắn ngập răng vào miếng trứng luộc mềm mại còn nóng thì lòng tôi muốn khóc lên vì xúc động. Tôi chưa khi nào ngờ rằng dạ dày của một người lại có thể chứa ngay một lúc ngần ấy món ăn. Như một cơn gió nóng trên sa mạc, tôi thèm khát ăn ngốn ngấu tất cả mọi thứ. Thực ra, trên các đĩa, đây đó cũng còn lại chút ít, nhưng tôi mệt mỗi ngả người vào lưng ghế với cảm giác nhẹ nhõm cảm thấy có cái gì nằng nặng dễ chịu ở đáy dạ dày và đồng thời nhận thức rằng cần phải thận trọng và ăn uống cho điều độ sau một tuần chay lâu dài như thế.
Uống hết tách cà-phê và gập khăn lau miệng lại, tôi nói:
- Thưa ông, tôi hết sức cảm ơn ông.
Dobby đưa mời tôi thuốc lá một cách lịch thiệp. Qua cái nhìn lặng lẽ của ông tôi hiểu rằng tôi cần kể cho ông rõ về bản thân mình, chứ không cần phải để ông phải đề nghị.
Rõ ràng là bản thân tôi có điều gì đấy làm cho cái ông chủ kỳ quặc này quan tâm và ông muốn biết ông đã dẫn ai về nhà mình. Tôi không có quyền từ chối mà phải đáp lại để tỏ lòng biết ơn sự đón tiếp nồng hậu của ông.
Một ý nghĩ chợt đến với tôi như thể con rắn jirr từ trong bụi trườn ra? Nhỡ bỗng nhiên con người kỳ lạ ấy hỏi han, nghe hết mọi chuyện phiêu lưu bất hạnh của tôi rồi nói: “Thôi, anh bạn thân mến ạ, thế là chúng ta đã thanh toán xong xuôi. Anh đã đáp lại bữa ăn của tôi bỗng những mẩu chuyện, bây giờ thì cởi quần áo ra, mặc cái đồ tã của anh vào rồi cút đi” thì sao? Việc gì phải kể lại cuộc đời anh cho bất cứ kẻ nào quăng cho anh một mẩu bánh? Phải chăng ông ta có thể hiểu rằng tội lỗi của tôi chỉ là ở chỗ không ai cần đến học vấn của tôi? A, ông cứ việc đuổi!..
Nhưng theo sau những con rắn jirr, những ý nghĩ khác lại đến với tôi như những con rắn độc lachesis: “Sao, lại một lần nữa cô độc ư? Đi trong mưa? Ở dưới khe?”
Tôi rùng mình, như một con chó con sắp sửa bị người ta đánh không biết vì lý do gì. Tôi chỉ kể cho Dobby nghe một phần sự thật, về thời thơ ấu, về cái thành phố quê hương bé nhỏ nhưng không nói tên nó a Ashworth, và về việc tôi phải đi lang thang phiêu bạt để tìm kiếm hạnh phúc vì cha tôi nghèo.
Đồng hồ đã điểm mười hai tiếng. Dobby hút hết mẩu thuốc rồi đặt lên trên chiếc gạt tàn. Làn khói mỏng, đang loãng dần bay lên phía chụp đèn treo trên bàn. Ông chủ đứng dậy, bước mấy bước trong khoảng giữa cửa sổ và chiếc bàn tròn. Lớp khói thuốc lay động và đầu Dobby với bộ râu cằm và tóc rối bù chấp chới phía trên những làn mây xanh nhạt ấy.
Cuối cùng Dobby nói:
- Anh Samuel ạ, thế này nhé. Có lẽ tôi đang cần một người như anh.
Tôi cúi đầu đáp:
- Thưa ông, tôi sẵn lòng phục vụ ông. Xin tùy ông sai bảo.
Bằng cặp mắt nghiêm khắc, Dobby nhìn tôi chăm chăm.
- Tôi cần một con người dũng cảm và quả quyết, vâng lệnh tôi vô điều kiện, biết im lặng và không thò mũi vào những công việc mà người ta không muốn cho biết...
- Xin lỗi ông, tôi hy vọng rằng dù sao cũng không phải là những việc kiểu...
- Hừm... Anh vẫn chưa hiểu tôi. Trên gác là phòng thí nghiệm, ngoài sân trong nhà kho là nơi nuôi súc vật thí nghiệm...
- Rắn ạ?
- Hừm... Rắn nào? Những động vật thí nghiệm thông thường nhất... Thỏ, chuột lang, chuột rato, chuột thường, mèo, chó...
- Thưa ông, xin ông thứ lỗi. Có lẽ là một vườn bách thú khá rộng lớn. Tôi hỏi ông bởi vì tôi đã phải làm tên coi vườn ở một trại rắn.
- Ở Java à?
- Không, Ở Miến-điện.
- Tôi chưa nghe nói nên không biết, - Dobby lắc đầu. - Nhưng điều đó không quan trọng. Nếu anh đã biết coi rắn thì cũng sẽ biết chăm sóc thỏ, huống hồ...
- Thưa ông, tôi sẽ cố gắng cho xứng với lòng tin của ông.
Dobby mỉm cười vẻ hài lòng.
- Tôi hy vọng thế. Anh sẽ ăn ở luôn đây và lĩnh lương. Nhưng anh phải... hừm... không được đi đâu mà không xin phép. Không được ra ngoài phạm vi chấn song sắt bao quanh biệt thự. Anh hiểu chứ? Còn nữa... anh không được đi cạo râu... Khi cần, tự tay tôi sẽ cạo cho anh...
Điều ấy thật lạ lùng, nhưng trên đời tôi đã từng gặp những con người kỳ quặc như thế đấy.
- Thưa ông, thế thì có sao, ông cứ việc cạo cho tôi khi nào ông muốn. Cả việc này tôi cũng đồng ý. Bởi vì, ai có tiền trong tay thì có thể cho phép mình thích như vậy.
- Anh nói đúng đấy, - Dobby tán thành ngay. - Còn bây giờ thì xin anh ký với tôi một bản hợp đồng nhỏ.
Ông rút trong túi ra một quyển sổ và cái bút máy.
Tôi định từ chối, nhưng rút lui thì đã muộn rồi.
- Xin vui lòng, - tôi nói lẩm bẩm và chợt nhận ra mình bật người đầu tiên.
Cây bút trong tay Dobby lướt nhanh trên giấy.
- Mời anh ký cho... - Dobby nói. - Đây... anh nghe nhé: “Tiền công trả vào ngày thứ bảy mỗi tuần... Không có quyền từ chối... Không có quyền bỏ việc...” Bút đây. Chỉ cần ký tên “Samuel” thôi cũng được. Tôi tin anh.
Tôi vội vàng ký luôn, chẳng cần nghe ông đọc hết.
Dobby đọc lại bản hợp đồng.
Tôi khẽ ngáp và cảm thấy trước nỗi khoái trá khi được nghỉ ngơi sau bữa cơm tối no nê. Chắc chỉ lát nữa ông chủ mới của tôi sẽ chúc tôi ngủ ngon rồi đưa tôi về phòng ngủ.
- Nào, Samuel, ta đi làm việc, - Dobby nói khô khốc và cất bản hợp đồng vào túi.
- Sao ạ? - Tôi há hốc miệng.
- Thế chứ sao, - Dobby trả lời còn lạnh lùng hơn nữa. - Tôi thích làm việc vào ban đêm. Mời anh đến nhà nuôi thú, cho chúng ăn và rửa chuồng. Áo choàng để ở nhà kho. Ngậm miệng lại, Samuel, chớ vội ngạc nhiên... Hừm. Chưa chi đã quên bản hợp đồng rồi. Không được tò mò và đừng làm ra vẻ ngạc nhiên như vậy. Hiện giờ tôi chỉ yêu cầu anh có thế.
Răng tôi nghiến lại làm điếu thuốc lá đứt ra làm đôi ở trong miệng. Việc ấy làm tôi thấy thích thú.
Tôi đứng dậy, bình tĩnh nói:
- Thưa ông, xin tuân lệnh. Mong rằng ông sẽ dẫn tôi đi chứ ạ?
Phòng nuôi thú thí nghiệm ở ngay trong nhà kho. Có lẽ các chuồng thú không được dọn dẹp hàng ngày, và tôi phải lập tức bắt tay vào một công việc bẩn thỉu.
- Tôi sẽ ghé lại đây vào lúc gần sáng, - nói đoạn, Dobby đi ra và sập cửa lại. Tôi buồn ngủ chết đi được, nhưng cần phải biết quý trọng nơi làm việc mới.
Những ngọn đèn soi sáng các dẫy chuồng thú có đánh số hẳn hoi, và tôi đã nhanh chóng làm quen với những con vật lý thú. So với công viên của “giáo sư rắn” thì đây là một thiên đường, nơi trú ngụ của các thần linh.
Tôi say mê làm việc và không hề nhận ra trời sáng từ lúc nào.
- Nghỉ thôi, - bước vào nhà thú, Dobby nói váng lên. - Rồi tôi sẽ nói anh rõ cách cho chúng ăn.
Ông chỉ dẫn cho tôi cách chăm sóc những thú vật thí nghiệm, giúp tôi đổ thức ăn và cho nước vào máng.
- Samuel ạ. bây giờ thì anh đi ngủ đi. - Dobby nói, có lẽ ông hài lòng với công việc tôi làm.
- Thưa ông vâng, tôi khó mà cất nổi chân.
Chúng tôi ra khỏi nhà kho. Trước mắt tôi là một biệt thự đẹp tuyệt vời với cái sân sạch sẽ có hàng rào sắt cao bao quanh. Ngôi nhà ở trên một ngọn núi mà hình như những sườn của nó tôi đã từng biết.
Tôi bước tới cạnh chấn song sắt. Xa xa về phía dưới, qua một vực thẳm lởm chởm đá, trên bờ đại dương, dưới những tia nắng ban mai là một thành phố đẹp đẽ. Đó là thành phố quê hương Ashworth của tôi.
❖ IV ❖Ngôi nhà của Dobby có lẽ mới được xây dựng trên khoảng đất trống phía trên mỏm Hai Bông Hồng. Ngoài ông chủ và tôi, trong nhà còn có một người hầu đã đứng tuổi tên là Migli. Đó là một con người kín tiếng, làm những món ăn ngon rất cừ. Bác ta nấu nướng không chê vào đâu được, và bao giờ tôi cũng nóng lòng chờ đợi bữa cơm trưa để được thưởng thức tài nghệ tuyệt vời của bác. Đặc biệt bác làm được cả những đồ ngọt. Cái món hạt dẻ nấu với váng sữa của bác thì thật thần tình.
Ở tầng trên gồm các phòng của Dobby, nơi chỉ có một mình ông làm việc ngày đêm. Tôi có nhiệm vụ phải mang những con vật thí nghiệm mà Dobby cần đến lên phòng đầu tiên ở trên gác. Ông ta đã làm gì với những con vật ấy, tôi không biết. Sau đó, khi nghe tiếng chuông gọi, tôi lại lên gác, thu dọn các lồng thú, và đưa chúng xuống nhà kho. Ở đây tôi không thiếu gì việc. Cần phải cho những con vật ăn theo đúng thời gian biểu, sáng và chiều phải mang một vài chú thỏ ra cân rồi báo cáo lại kết quả với Dobby. Bởi vì bác Migli rất ít lời, còn Dobby thì tôi chỉ được gặp khi ông cần đến, do đó tôi đã đánh bạn với Kip, một con chó săn nhỏ tuyệt diệu của vùng Scotland. Con Kip rất khôn ngoan.
Nó chạy theo tôi từ nhà xuống đến kho thì dừng lại, vì cho rằng vào đây là tự hạ thấp phẩm giá của nó. Những con mèo đực bị nhốt riêng trong một lồng đặc biệt bị nó khinh ghét nhất. Phải nói rằng những chú mèo đực và cái là những con vật nhũng nhiễu nhất trong các con vật thí nghiệm. Chỉ khi nào người ta đem lại cho chúng thịt và sữa tươi thì chúng mới không kêu tướng lên. Ở nhà nuôi thú, đôi khi chúng, và đồng thời ngay sau đó là cả những con vật khác bị những cơn buồn ghê gớm tấn công, chúng liền kêu meo meo rối rít, có lẽ chúng nói với nhau những lời nguyền rủa bằng ngôn ngữ mèo, đến nỗi Dobby phải ra lệnh:
- Anh Samuel, anh hãy đưa lũ mèo ra chơi ngoài trời.
Người ta nhìn con Kip vào trong bếp, còn tôi thì dùng dây xích nhỏ dắt từng bốn con mèo một ra ngoài trời, theo dõi sao cho chúng khỏi tuột khỏi cổ dề.
Mùa đông đã lén đến lúc nào không rõ. Tôi yên tâm làm việc, ăn uống ngon lành và có thể nói rằng tôi đã hài lòng với những nhiệm vụ không lấy gì làm phức tạp ấy, vả lại hàng tuần tôi lĩnh lương đều đặn và cất dấu tiền vào chiếc bàn đêm.
Vào đúng ngày phát lương, tự tay Dobby xát xà phòng vào mặt tôi và ông cạo râu rất khéo léo, chưa bao giờ làm xước da tôi cả. Tiếc thay, tôi không thể nào ngắm nghía được cái kết quả làm việc của ông thợ cắt tóc của tôi, bởi vì trong khắp biệt thự không đâu có lấy một mảnh gương. Đã có lần tôi muốn hỏi ông chủ xem, có phải ông cố tình vứt bỏ gương hay đây chỉ là sự việc ngẫu nhiên, nhưng tôi linh cảm thấy rằng ông sẽ không thích một câu hỏi như thế. Mà tính kỳ quặc của Dobby thì có can gì đến tôi kia chứ? Ông đối xử với tôi rất tốt. Tuy vậy tôi đã không còn được thấy cái giọng dịu dàng và nụ cười đầm ấm của ông như trong buổi tối quen biết đầu tiên nữa. Nói chung ông ít chuyện trò với tôi.
Còn tôi, vì rất biết ơn ông đã cứu vớt, nên lúc nào cũng cố gắng làm vừa lòng ông và thậm chí còn lo lắng cho sức khỏe của ông. Tôi không thích cái bệnh ho kinh niên của ông.
Nhưng cho dù ngay ở đây tôi vẫn là một kẻ cô độc, việc buộc phải tự giam mình trong khu nhà đã bắt đầu làm tôi chán ngán, đặc biệt là từ cái buổi sáng mùa đông ấy, khi tôi đến đứng bên hàng chấn song sắt, nơi dẫn thẳng ngay xuống sát bờ vực. Mặt trời mùa đông nhanh chóng tỏa tia nắng xuống những mái nhà ở Ashworth. Tôi thiết tha muốn xuống núi và được đi dạo trên những đường phố lặng lẽ, được ghé vào hiệu ăn “Neptune” hoặc “Hổ Vương”, được sưởi ấm bên chiếc lò sưởi và nghe những tin tức ở Ashworth. Ông bác cụt tay của tôi có còn nói triết lý như trước nữa hay không?
Cha tôi sống ra sao? Ed tóc hung đang làm gì? Còn bác sĩ Fleet thì có lẽ càng ngày càng béo phị ra...
Tôi mường tượng thấy những hình ảnh lờ mờ của các đường phố ở Ashworth. Kia, cái nóc nhọn của nhà thờ đang nhô ra, nơi cha trưởng đạo Jeremiah đang cai quản. Còn sau ngọn đồi kia thì chắc hẳn là những ngôi nhà thân thiết đối với tôi. Có lẽ cô bé Mary tóc vàng đã lớn lắm rồi... Còn Edith Winters? Chỉ vừa thoáng nghĩ đến Edith thì nàng đã như đứng sững trước mắt tôi. Trái tim trong lồng ngực tôi đập rộn lên như con chim sơn ca nhảy nhót trong lồng...
Cuộc sống đầy những bước lưu lạc giang hồ trước đây đã buộc tôi phải quan sát mọi vật trong nhà Dobby.
Tôi đã tìm hiểu mọi thứ trong cái biệt thự kỳ lạ này. Hai động cơ chạy bằng sức gió đã cung cấp điện năng, chúng bơm nước từ dưới giếng phun lên và làm cho những chiếc động cơ chạy ầm ầm trong các phòng của Dobby. Biệt thự được sưởi ấm bằng điện, và có lần Dobby đã tự khoe rằng toàn bộ các máy điện của ông đều tự động hóa khi những bộ ắc-quy đều đã nạp điện đầy đủ thì các động cơ chạy bằng sức gió lại chuyển sang việc bơm nước.
Trong khi quan sát mọi vật như những con chuột tham lam ăn vụng xúp khoai của bác Migli, tôi thường suy nghĩ về Dobby. Bởi lẽ bản hợp đồng có cấm suy nghĩ về về ông chủ đâu?
Việc làm của tôi thì liên quan gì tới những công việc của Dobby nhỉ? Dobby, không còn nghi ngờ gì nữa là một nhà vi khuẩn học. Chẳng hạn như hôm qua tôi với ông đã chuẩn bị môi trường dinh dưỡng suốt buổi tối để cấy vi trùng. Bác Migli đã nấu canh thang thịt bê rất đặc và tôi dù thận trọng lọc nó qua những bộ lọc, rồi làm tiệt trùng qua nồi hấp để ở phòng đầu trên gác. Tất cả những việc ấy dường như không có gì đặc biệt.
Ở, chỗ “giáo sư rắn” cô Liz cũng làm công việc nấu nướng như vậy. Nhưng sao cái ông Dobby ấy chỉ ngồi làm việc một mình và nuôi thú vật làm gì? Sự phỏng đoán cứ tự nó đến với tôi. Có lẽ Dobby là một nhà phát minh. Ở San Francisco tôi đã xem trên màn ảnh một cuốn phim là “Người ẩn dật huyền bí”, và bây giờ nó đã gây cho tôi những ấn tượng mạnh mẽ. Người ẩn dật đã phát minh ra cách phá nguyên tủ để đi sâu tìm hiểu những bí mật của cấu tạo vật chất. Ở đoạn cuối cuốn phim, phòng thí nghiệm của giáo sư - ẩn sĩ đã bay vọt lên trời, còn cô gái tuyệt diệu của ẩn sĩ thì cưỡi máy bay đi cứu cha, về sau cô đã may mắn lấy một người chồng là nhân viên phòng thí nghiệm, về sau thì hóa ra là con trai một nhà triệu phú. Còn Dobby?
Lẽ nào ông chỉ là một con người kỳ quặc?
Có lần, trong bữa ăn trưa Migli đưa món vịt quay với táo lên, như món thứ hai. Cũng chẳng hiểu sao tôi lại quan tâm tới chuyện bác Migli đã kiếm đâu ra, những của ấy. Nói chung thì làm sao mà Dobby không hề thiếu thốn một thứ gì? Phải chăng ông đã sáng chế ra cách sản xuất váng sữa, những hạt dẻ tươi, những con vịt chắc thịt chính cống vùng Ashworth bằng phương pháp hóa học trong phòng thí nghiệm Nhưng sự việc đơn giản hơn nhiều.
Một lần vào buổi sáng, lúc tôi còn đang ngủ say sau khi đã làm việc đêm ở nhà nuôi thú thì tiếng động cơ ô-tô nổ đều đều đã đánh thức tôi dậy. Tôi thận trọng ghé nhìn qua cửa sổ và thấy một thanh niên tóc hung, gầy guộc và vụng về đưa đến bên cửa sắt của biệt thự những bọc hàng lớn, những cái hòm, những thùng két, anh ta để những thứ đó bên cạnh cửa rồi bỏ đi. Sau đấy cửa mở. Migli lái chiếc xe rùa đốt trong tới cạnh đống hàng, nhanh chóng xếp lên xe rồi chiếc xe đi khuất về phía sau góc nhà.
Có lẽ bác ta chở hàng vào bếp. Tôi đẩy cửa. Nhưng phòng tôi đã bị khóa chặt từ phía ngoài. Điều này làm tôi khó chịu và buộc phải hết sức để phòng. Tôi đập cửa.
Migli không mở ngay, bác ta nói càu nhàu rằng bác không biết tôi đã từ nhà nuôi thú trở về.
Trong những ngày sau tôi phát hiện thấy hình như sáng nào Migli cũng xuống núi vào thành phố rồi quay trở về biệt thự trước khi tôi thức dậy. Dường như chẳng có chuyện gì xảy ra trong cuộc sống đều đều của chúng tôi. Một lần Dobby bắt gặp tôi đang nhìn qua chấn song sắt về phía Ashworth, ông nói:
- Nửa năm nữa sẽ hết hạn hợp đồng. Samuel ạ, lúc ấy tùy anh muốn đi đâu thì đi.
- Thưa ông, quả thật đôi lúc tôi cũng thấy buồn, - tôi thú nhận.
- Hừm, tôi hiểu, - Dobby trả lời. - Nhưng trong những hoàn cảnh như thế...
Tuy nhiên, chính tôi cũng khá mệt vì cái kiểu sống ẩn dật này. Anh Samuel ạ, ngày mai chúng ta làm một chuyến dạo chơi trên núi chứ? Đồi núi rất đẹp, phải không nào?
Và thế là chúng tôi đã bước qua cái ngưỡng cửa của hàng rào sắt. Sau khi đã đi được một trăm bước về phía bờ vực cạnh khoảng đất trống, Dobby nói:
- Samuel ạ, anh dẫn đường cho tôi nhé. Tôi không thích bờ biển... Những thành phố nhỏ như kiểu Ashworth trong đất nước chúng ta có rất nhiều. Còn những ngọn núi thì... Hừm... Anh Samuel này, hình như anh sinh ở vùng gần đây...
- Vâng, thưa ông.
- Và có lẽ anh biết con đường mòn này dẫn về đâu chứ?
Từ giữa cây mận gai lên phía trên có một con đường dốc nhỏ mà tôi đã biết từ hồi còn chưa xây ngôi biệt thự này.
- Đây là Đồi Đen, - tôi nói có ý dè dặt để Dobby khỏi thấy rõ ý đồ của tôi đang muốn tìm hiểu thêm nữa về ông. - Sau ngọn đồi có một con đường cũ dẫn tới các mỏ.
Dobby nói:
- Samuel ạ, nếu mỏ không quá xa thì hãy đưa tôi tới đó. Tôi cho rằng từ đây, trước mắt chúng ta sẽ mở ra một cảnh rộng lớn hơn...
- Đúng thế thưa ông, - tôi đồng ý và ngoặt sang con đường đá.
Từ trên đỉnh Đồi Đen chúng tôi ngắm cảnh đại dương bao la nổi sóng và một bờ biển đẹp với những dải sóng đua nhau vỗ bờ tung bọt trắng xóa. Mỏm Hai Bông Hồng nhô ra ở phía dưới xa xa và bây giờ trông nó chỉ như một vệt xám. Những lớp mây dày đặc từ từ trôi trên đại dương, tạo thành nhưng bóng thấp thoáng kỳ diệu. Những cụm thông bên núi Sharpy và rùng Patrick làm thành những dải xanh um chạy dài về phía bờ biển. Trời đã về cuối đông nên gió lạnh cùng với những tia nắng ấm áp làm người ta thấy dễ chịu. Bức tranh sơn thủy mở ra trước mắt tôi mới tuyệt diệu làm sao!
Cái lặng lẽ nơi đây mê li biết nhường nào. Chỉ những bụi cây khô mới thỉnh thoảng lao xao vì những cơn gió nhẹ.
Dobby chắp tay sau lưng đi dạo trên đỉnh đồi. Đôi lúc ông lấy chân hất một hòn đá nhỏ bên đường rồi lắng tai nghe tiếng động nó gây nên khi lắng xuống dưới. Hình như việc đó làm ông khuây khỏa. Ông đang suy nghĩ căng thẳng về một điều gì đấy. Còn tôi thì đứng chiêm ngưỡng những quang cảnh thiên nhiên. Tôi thầm nhủ: “Quê hương ta đẹp đẽ biết bao! Cảnh vật ở đây đẹp hơn những “Cổng vào Ấn-độ nổi tiếng. Ở đây đẹp hơn ở Ceyland và ở California...” Tôi hồi tưởng lại những bờ biển thấp và ảo não của Nam Phi, của Mexico nóng nực và những bờ biển oi nồng thuộc vùng DunbiGanj...
Một con chim lớn cánh nhọn bay qua trên đầu tôi rồi quạc lên một tiếng kêu dữ tợn ở phía sau lưng. Nó săn đuổi một con chim nhỏ nào đấy đang lẩn tránh trong bụi. Tôi ngoảnh lại Dobby đang ngồi trên một tảng đá và chăm chú nhìn phía bờ biển đối diện.
- Lại đây, Samuel.
- Vâng, thưa ông, - tôi tới gần.
Ông chỉ về phía đồi xa xa và hỏi:
- Cái khe nào kia?
“Chà, ông ấy muốn kiểm tra xem có đúng mình là người vùng này không đây”, - tôi nghĩ và thỏa mãn ngay sự tò mò của ông chủ.
- Đằng ấy còn một vài khe nữa, nhưng không hẹp như đường ngầm Thomas. Ông thấy chứ, sau đấy con đường nhỏ lượn vòng qua đồi Thiếu Nữ Thần thánh và chạy sâu mãi vào trong núi. Ở đấy có một con đường cũ và những mỏ than bỏ hoang...
- Hừm... Chắc anh có biết ít nhiều về những mỏ than chứ?
Tôi chưa có ý định đi thi về lịch sử các mỏ than ở Ashworth bao giờ. Nhưng tôi có nghe lỏm được chút ít về chúng khi cha tôi kể cho mẹ tôi và ông bác nghe về những vụ thưa kiện của những người có cổ phần. Tôi nhún vai trả lời:
- Người ta nói rằng trước đây than ở đây nằm thành những vỉa dày lộ thiên. Trải qua hàng trăm năm người ta đã khai thác hết. Trong một trăm năm mươi năm gần đây những ông chủ mỏ đã cho khai thác sâu vào trong lòng núi. Tuy nhiên càng xuống sâu bao nhiêu thì chất lượng than càng tồi bấy nhiêu và việc khai thác không đem lại lợi lộc gì. Thưa ông, tôi còn nhớ khi người ta bỏ hoang những mỏ ở cạnh rừng Patrick và cao hơn. Còn những mỏ ở xa thì bị bỏ hoang lâu lắm rồi. Ở Ashworth của chúng tôi không ai còn nhớ tới chúng nữa...
- Hừm... chán thật, - Dobby nói, như thể để trả lời những suy nghĩ của mình.
Trong giây phút ấy những hình ảnh lờ mờ của tuổi thơ hiện về trong trí óc tôi. Mùa đông ở Ashworth, những người đàn bà nghèo khổ ở ngoại ô mang giỏ lớn tới những mỏ than cũ. Ở đây họ lùng sục rất lâu trong những bãi than thải trong lớp bụi đen có lẫn tuyết tan để chọn lấy những mẩu than. Người gập lại vì mang nặng, những người đàn bà ấy xuống núi trở về nhà mình. Từ đường phố nhà tôi nhìn lên có thể thấy một dòng những hình bóng đen thui ấy in trên nền đồi phủ tuyết trắng, nhưng đến gần tối thì những làn khói yên lành tỏa trên các nóc nhà vùng ngoại ô...
- Samuel ạ, anh thật là quí giá, - vừa đứng dậy Dobby vừa nói với vẻ thân ái. Anh hiểu biết về vùng này hơn tôi. Còn tôi thì suốt đời sống ở miền Bắc, và chỉ đến bây giờ, khi đã già mới chuyển về đây cho gần mặt trời hơn. Nào, ta về thôi... Ở đây bắt đầu thấy lạnh rồi đấy...
❖ V ❖Sau khi đi chơi về, vào ngày hôm sau tôi thấy đau đầu ghê gớm.
Trong bữa cơm trưa, thấy tôi không ăn uống gì, Dobby nói:
- Samuel, anh bị cảm lạnh rồi. Cũng có thể anh đang lên cơn sốt hoặc cúm...
- Thưa ông, tôi chẳng đau yếu bao giờ, - tôi nói lẩm bẩm, cảm thấy người ớn lạnh. - Tuy nhiên, xin lỗi ông... Có một lần, ở Ấn-độ, tôi đã rơi vào một làng bị dịch hạch...
Và tôi đã kể lại vắn tắt cho Dobby nghe về chuyện giáo sư Milrois tiêm chủng cho tôi.
Dobby vui vẻ trả lời:
- Milrois, hình như... tôi đã đọc những công trình nghiên cứu của ông về rắn. Một người uyên bác, nhưng là nhà thương mại. Có lẽ ông ta đã lập nên cơ nghiệp là nhờ vào những thuốc giải độc và đang sống sung sướng ở một nước thuộc địa nào đó... Thôi anh về phòng nghỉ đi. Tôi sẽ cho anh uống thuốc bột, và ngày mai là khỏi.
- Thưa ông, ông là bác sĩ à? - tôi hỏi khi nằm trong phòng mình và uống thuốc do ông chủ đem lại:
- Phải, tôi có bằng bác sĩ, nhưng đã lâu không thực tế chữa bệnh. - Dobby trả lời. - Cố ngủ đi, Samuel ạ. Bác Migli sẽ đem lại cho anh túi nước nóng chườm chân. Bác ta đang thay anh làm việc trong nhà nuôi thú. Chúc anh yên tâm nghỉ ngơi cho chóng khỏe.
Tôi đã ngủ gần một ngày đêm, tới gần bữa trưa thì tỉnh dậy, cảm thấy đầu nhẹ nhõm dễ chịu và đói ghê gớm.
Tôi ngồi vào bàn, đối diện với Dobby và nói:
- Xin cám ơn ông, tôi thấy người dễ chịu lắm rồi...
- Trông anh ấy xanh xao như bị sốt vàng, - bác Migli vừa nói cau có, vừa đổ canh vào đĩa.
- Im đi, bác Migli, anh ấy chỉ hơi bị thiếu máu, có thế thôi. Tôi sẽ cố giúp anh ấy chữa khỏi bệnh này...
Sau bữa trưa Dobby mời tôi lên phòng ông trên gác. Ông dẫn tôi qua phòng làm việc kê tuyền những tủ sách, và vì quá khâm phục tôi chỉ có thể thốt lên:
- Chao ôi, thưa ông!
- Nào, anh ngồi xuống đây, - Dobby đề nghị, - hãy kể cho tôi nghe về bản thân anh... hừm... Tôi thấy cần phải nói rằng anh có nhiều phẩm chất tốt, tuyệt nhiên không nên giấu giếm tôi.
- Thưa ông, có lẽ ông nói đúng... - tôi đáp, nhìn ông rít tẩu thuốc và chuẩn bị nghe tôi nói. - Câu chuyện sẽ rất dài, nêu kể từ khi tôi ra đời. Nhưng, có lẽ đời tôi chỉ được may mắn trong phòng thí nghiệm. Giáo sư Milrois đối với tôi rất tốt, ông định đào tạo tôi thành một nhân viên phòng thí nghiệm. Nhưng, than ôi, số phận lúc nào cũng giễu cợt tôi...
Tôi đã kể cho Dobby nghe về trạm nuôi rắn, nhưng bịa ra rằng tôi từ biệt giáo sư ra đi chỉ là do muốn trở lại quê nhà.
- Hừm... Như thế là anh đã sống ở Ấn-độ và ở Miến-điện phải không? - Dobby thốt lên. - Chà, thế thì chắc anh bị bệnh sốt vàng. Anh biết không, đợt tiêm đối với anh có thể rất có ích. Nếu không, với khí hậu ở đây, bệnh sốt sẽ tái phát và nhất định nó sẽ hành hạ anh. Nào, mời anh tới cho tôi...
Dobby dẫn tôi sang phòng thứ ba.
- Đây phòng làm việc và nghỉ ngơi của tôi.
Đó là một căn phòng sáng sủa tuyệt diệu. Trên một có bàn thí nghiệm có để cái giá đỡ những bình và chai lọ đựng những chai rỗng nhiều màu sắc, trên một bàn khác để ống thí nghiệm. Chiếc máy điều nhiệt treo trên tường làm tôi nhớ lại phòng thí nghiệm của Milrois, và tôi đã quan sát căn phòng với cái nhìn của con người hiểu rõ mọi vật xung quanh. Ở trong khoảng tường giữa hai cửa sổ kê một tủ đựng đồ thí nghiệm. Trên các cửa sổ thấy những chậu cây đặt đều đặn mà thoạt tiên ai cũng tưởng những chậu cây cảnh thông thường nhất. Ở góc buồng kê cái bàn trên gắn chặt một máy ly tâm. Phía trên bàn treo một tủ nhỏ. Trên các cánh cửa tủ thấy ghi những chữ cái lớn: “E.M.”.
Tôi ngắm nhìn chung quanh rồi nói:
- Thưa ông, mọi vật trong phòng này làm tôi thích thú. Có điều là tôi không thấy những kính hiển vi.
- Hừm... Kính hiển vi cần thiết cho những nhà vi khẩn học. Họ dùng chúng để quan sát những vi trùng lây bệnh. Còn tôi thì chỉ chú ý đến những tác nhân gây bệnh mà kính hiển vi không soi thấy được.
Tôi kêu lên:
- Virus?
Dobby nheo mắt lại với vẻ quan trọng.
- Ô hô, Samuel! Có lẽ thời gian anh ở bên cái ông... Milrois ấy không phải là vô ích. Sao, có đúng là lúc nào ông ta cũng ngồi soi kính hiển vi không? - Dobby hỏi với giọng giễu cợt.
Tôi cho rằng cần lên tiếng bênh vực người giáo sư tốt bụng của mình nên đã nghiêm trang đáp lại sự nhạo báng của Dobby:
- Không phái thế đâu. Nhưng nói chung phòng thí nghiệm không có kính hiển vi thì lạ lùng quá.
- Chà, anh biết không, để nghiên cứu virus thì một kính hiển vi hoàn thiện nhất cũng vẫn là thô thiển. Ở đây nó sẽ buồn cười như thể cái ống nhòm nhà hát trong tay nhà thiên văn và ông ta định dùng nó để nghiên cứu cấu tạo quang phổ của vì sao Arcturus hoặc Capella...
- Thưa ông, chưa bao giờ tôi thấy giáo sư Milrois tỏ ra đáng cười cả, - tôi nói chậm rãi, không dấu được nỗi bực tức.
- Samuel ạ, anh không biết đùa, - Dobby nhíu lông mày lại. - Và hình như anh tức giận cho ông giáo sư của mình. Nhưng, căn cứ vào lời anh nói, thì nhà chuyên môn ấy quan tâm tới việc là làm sao cho loài bò sát trong trại rắn của ông khóc bị ốm. Có thể ông cũng quan sát cả những bệnh virus ở rắn. Anh không biết ư? Dù sao đi nữa, khi ông cho anh đọc sách về virus, thì chính là ông đã dự định điều đó. Dobby đến bên cửa sổ và chỉ vào những chậu cây. - Việc nghiên cứu virus bắt đầu từ sự quan sát tỉ mỉ những cây bệnh. Người ta đem so sánh chúng với những mẫu vật lành. Theo dõi sự phát triển bệnh. Anh nhìn nhé, đó là một cây non và khỏe - cây thuốc lá. Còn đây là một mẫu vật bị bệnh khảm. Trước đây tôi đã trông thấy những lá cây thuốc bị khảm. Dobby giải thích tiếp. - Và đây là một cây cà chua còn lành lặn. Anh nhìn xem, lá của nó đẹp bao nhiêu. Còn ở cái cây bị bệnh này thì sao? Lá của nó đâu? Chúng chỉ còn là những sợi chỉ. Liệu anh có nhận ra đây là lúa yến mạch không? Đáng lẽ trổ bông thì nó lại hình thành đến kì quặc! Đó là một bệnh virus mà người ti gọi là “sự hóa nhộng”.
Dobby lấy ra hai tấm ảnh. Trước hết ông chỉ vào một tấm.
- Đây là cái gì?
Tôi đọc những chữ ghi ở dưới.
- “Cây mía”.
- Đúng anh cần chú ý rằng những cây mía mọc cao một cách cân đối. Trong thân chúng có nhiều chất nước đường. Chính vì vậy mà người ta đã trồng những đồn điền mía... Nhưng đây, đồn điền mía đã bị nhiễm virus...
Và Dobby đưa tôi xem bức ảnh thứ hai.
- Nhưng đây có phải mía đâu! - Tôi kêu lên.
Tôi nhìn thấy trên tấm ảnh những bụi cây quỉ quái gì đó có lá như lá cỏ. Chẳng còn thấy đâu bóng dáng những cây mía cân đối nữa.
- Không, đó là một cây mía chính cống, chỉ có điều là nó đã nhiễm một loại virus đặc biệt. Dưới ảnh hưởng của loại virus ấy cây mía không lớn lên được...
Tập ảnh đã cho tôi thấy một loạt cây bị nhiễm các loại virus khác nhau.
Dobby hỏi tôi: