← Quay lại trang sách

Chương chín ❖ I ❖

Thế là mùa đông đã trôi qua. Nỗi buồn nhớ nhà ngày càng da diết, và cuối cùng thì cái buổi sáng mùa xuân ấy đã đến vào lúc tôi đang thiết tha muốn trở về để được nhìn thấy cha, bác và Edith Winters, dù chỉ trong khoảnh khắc. Tôi không tài nào kìm lòng được nữa và quyết định rằng tôi nhất định giữ vững hợp đồng, về Ashworth tôi sẽ không hé miệng nói với ai một lời. Tôi chỉ đứng đằng xa nhìn qua ngôi nhà nhỏ của cha, nhìn Edith một lát rồi trở về ngay. Vừa hay gặp một dịp rất thuận tiện để chuồn đi. Dobby đóng chặt cửa buồng ngồi trên gác và nói rằng ông đang bận viết lại bản thảo và sẽ không đi ăn trưa. Bác Migli đang bận rộn trong bếp. Tôi dại dột nói với bác là tôi sẽ làm việc ở nhà nuôi thú và mong bác đừng làm phiền tôi. Chả là cái bác Migli ấy có thói rất kỳ cục: bỗng nhiên bác ta ló mặt vào nhà kho, nhìn tôi một cái, mồm nói làu bàu điều gì đấy rồi lại biến đi.

Tôi run sợ bước qua ngưỡng cửa hàng rào sắt.

Đi theo những đường mòn mà tôi đã biết từ hồi bé, tôi nhanh chóng xuống núi trở về Ashworth. Đi như thế sẽ gần hơn. Tôi vui sướng nông nổi như một con chim sổ lồng. Dường như mới hôm qua đây tôi cùng với thằng bé Ed và các bạn cùng lứa tuổi khác chạy trên những ngọn đồi này, rồi xuống dưới theo những cái dốc mọc đầy mận gai hoang dại này. Chính ở nơi đây tôi đã từng ước mơ đi khắp thiên hạ. Ồ, cuộc du lịch vòng quanh thế giới mà tôi tưởng tượng ra hồi bấy giờ mới tươi đẹp chứ, chẳng khác nào như một ngày hội, còn trong thực tế thì nó lại là một thử thách khắc nghiệt làm sao! Tuy thế, tôi cũng không lấy làm tiếc về chuyện này. Sau khi đã nếm mùi khổ cực của cuộc sống vô gia cư, tôi đồng thời thấy rõ sức hấp dẫn của những ấn tượng luôn luôn thay đổi. Sự khắc nghiệt của số phận thường chỉ là tưởng tượng. Số phận đã buộc tôi phải lang thang đây đó trên hành tinh này, nhưng dù sao nó cũng làm tôi hiểu biết cuộc sống với những biểu hiện thú vị nhất của nó.

Những ý nghĩ ấy đến với tôi khi tôi đang mải miết đi đến gần tảng đá Hai Bông Hồng và nhanh nhẹn đi xuống dưới theo con đường quanh co đã quen biết. Vẫn như ngày trước, con đường lổn nhổn đá và ở hai bên rìa mọc toàn loại eriko đang tỉnh dậy dưới tác dụng của không khí mùa xuân và ánh mặt trời sau một đợt ngủ đông. Kia, cái thân cụt già cỗi và cháy sém của một cây sồi lớn trước đây đã bị bốc cháy vì sấm sét. Cạnh nó là những cây hoa tím thẫm to lớn mọc chen qua những cành lá năm ngoái khiến tôi nhớ lại cặp mắt của Edith. Những cây địa y bám quanh vỏ cháy đen của cây cụt già cỗi, còn lũ kiến bận rộn thì đã dựng lên ở đấy cái thành phố nhỏ kỳ dị của chúng. Chúng đã làm việc này khi nào nhỉ? Phải, những ngày thơ ấu của tôi đã qua rồi. Nó đã lùi xa về phía sau cùng với cái đêm bão táp khủng khiếp ấy, khi cả thành phố Ashworth ngước nhìn lên cây sồi đang bốc cháy.

Và đây rồi, cái tảng đá Hai Bông Hồng! Mưa gió đã xói mòn đỉnh của những tảng đá lớn. Trông xa chúng giống như những cánh hoa căng phồng. Biết bao lần tôi đã đứng đây ngắm nghía không chán mắt cảnh đẹp mê hồn của bờ biển! Biết bao lần tôi đã đứng đây ngắm nghía không chán mắt cảnh đẹp mê hồn của bờ biển! Đứng đây thấy phong cảnh rõ nét và đẹp hơn đứng trên Đồi Đen. Trước mắt tôi là biển rộng mênh mông và đường vòng duyên dáng của vịnh Ashworth. Cây hải đăng ở cạnh mũi Cape Jen trông chỉ còn là một que diêm bé tẹo cắm vào bờ biển uốn khúc. Ở phía chân trời xa, những lớp mây thấp hòa lẫn với những vạch khói dày. Phía ấy có những con tàu đang đi trên tuyến đường Âu - Mỹ. Trên bờ, về bên phải, qua lớp sương mỏng của một buổi sáng vui tươi ấm áp là Oldmount nằm kéo dài. Không thấy được những ngôi nhà nhỏ và những đập nước trên kênh đào ở Wesley - chúng bị che khuất bởi ngọn núi Sharpy, đường ngầm Thomas nhất định phải kéo dài ra ở sau quả núi ấy. Một vệt xám của mái lâu đài với bốn tháp nhỏ kiến trúc kiểu Gothic ló ra từ những ngọn đồi có rừng cây. Đó là lâu đài Oldmount. Còn Ashworth ở gần ngay phía dưới chân tôi. Cạnh bờ là những hình dáng lờ mờ quen thuộc của các bến, những cột thuyền buồm đánh cá, những vệt buồm trắng của thuyền đua. Ở bên trái, về phía con ngòi là hàng dãy những nhà kho thấp lợp ngói chạy dài. Lại còn thấy cả chỗ đường ngoặt nữa, tôi trông thấy cái cầu nhỏ đầy kỷ niệm, nơi tôi đã chia tay cùng Edith...

Tôi bước chậm với lòng đầy kính cẩn trên những đường phố thân thuộc của Ashworth cổ kính, kéo sụp mũ xuống quá mắt để không ai nhận ra. Tất cả vẫn như xưa. Không, nói cho đúng hơn, chỉ gần như xưa thôi. Ở ngoài cửa khách sạn “Neptune” vẫn thấy treo lủng lẳng trên những vòng sắt gỉ tấm biển đã phai màu mang hình cây đinh ba gớm ghiếc của thần biển. Nhưng bây giờ không còn thấy mặt ông thần đâu nữa. Nó đã bị cuốn đi bởi những trận mưa rào mùa thu. Còn cây đinh ba thì cong queo và bất lực. Nhưng vẫn như thường thấy trước đây, dưới cái giàn che bằng vải bạt, các thủy thủ vẫn ngồi chơi súc xắc, đập cốc xuống bàn và chuyện trò với nhau bằng những lời lẽ thô tục. Ở cửa sổ hiệu thuốc vẫn trưng bày con thằn lằn khô, còn những bình cầu thủy tinh to tướng đựng chất lỏng đủ màu sắc thì bày la liệt khắp bốn phía xung quanh con thằn lằn. Tôi nhớ là cứ tối đến ông già Orfi lại thắp những mẩu nến cháy dở phía sau các bình cầu; thế là con thằn lằn nổi lên trong thứ ánh sáng xanh mờ huyền ảo. Và bất cứ ai cũng rõ đó là hiệu thuốc.

Khi tôi bước vào hiệu thuốc thì không thấy ông già Orfi đâu, chỉ có một chàng trai trẻ đang tiếp khách hàng. Căn cứ vào đôi mắt lồi như mắt cừu và những vết tàn nhang trên mặt, tôi nhận ra đó là Ed. Nhưng lạ lùng thay, Ed không nhận ra tôi, mặc dù vì quên, tôi đã hất mũ lên và Ed nhìn thấy rõ. Chúng tôi chỉ đứng cách nhau bởi cái quầy bán thuốc. Và Ed nhìn thẳng vào mắt tôi vẻ thăm dò.

- Thưa, ông cần gì ạ?

- Anh có thuốc chữa bệnh khó thở không? - tôi hỏi, nín thở vì hồi hộp và lo rằng Ed sẽ nhận ra. Về phía tôi, rẽ vào hiệu thuốc là hết sức thiếu thận trọng. Cần phải rời ngay khỏi đây.

Nhưng Ed làm ra vẻ nhã nhặn như những người bán hàng vẫn thường làm đối với khách mua chưa quen biết.

- Ồ, có chứ... Đây là thuốc viên... Còn tinh dầu thì đắt hơn một chút...

Ed sửa lại cravate thắt trên cái cổ cồn. Giọng nói của anh ta cũng có cái vẻ dịu dàng cảm động như của cha:

- Thưa ông cho phép gói cả hai thứ chứ ạ? Chúng tôi chế thuốc này theo đơn của bác sĩ Fleet. Luôn đây tôi xin gửi ông địa chỉ đường phố và danh thiếp của bác sĩ. Ngày nào ông ấy cũng khám bệnh.

Tôi lặng lẽ gật đầu và trả tiền. Một người nào đấy bước vào hiệu, kiên quyết đòi mua bằng được bột cam thảo. Đó là một người nhỏ bé đội mũ lưỡi trai dài. Lúc đến gần quầy bán ông ta hích cả vào tôi mà không xin lỗi. Đút viên thuốc và tinh dầu vào túi xong, tôi vội vã đi ngay.

Và đây nữa, hiệu ăn “Hổ Vương”. Bọn trẻ con bán báo chạy ngược về phía tôi và vui vẻ xướng lên những tin tức sau:

- Vụ đánh cắp kim cương của công tước phu nhân Axit nhá! Có tin về cuộc mít-tinh của thợ mỏ ở Wesley đây!

Một ông già cụt tay, cao, đội mũ lễ đỏ đã bạc và mặc áo trào kiểu cổ dừng lại ở cạnh tôi: Ê, báo!

Một thằng bé ăn mặc rách rưới dúi cho ông già tờ báo mới rồi lại chạy vụt đi. Ông già khéo léo dùng cánh tay còn lại mở tờ báo ra, nhìn lướt qua các trang báo rồi nhìn tôi với vẻ thờ ơ.

Bác Reggie, đúng là bác rồi, cũng như Ed, bác không nhận ra tôi. Kìa, bác đang bước đi trên vỉa hè, cố giữ hai vai cho thẳng và ưỡn ngực ra. Tôi chỉ muốn chạy theo bác và thét lên: “Bác thân yêu ơi, dừng lại cái đã! Cháu đây, thằng Samuel bé bỏng của bác đây mà. Hãy kể cho cháu nghe về cha cháu. Edith sống ra sao? Còn bác thì tối nào cũng tới hiệu ăn “Hổ Vương” để uống rượu chanh chứ? Bác thân yêu của cháu, bác có còn hay triết lý với các bạn của bác nữa hay không?”

Bác tôi ngoặt vào hiệu ăn, còn tôi thì đi qua phố bên tới bãi chợ cũ nồng nặc mùi cá và mùi rau cỏ thối. Chỉ còn phải đi qua các quầy hàng là tôi sẽ nhìn thấy mái ngôi nhà nhỏ của cha ở sau góc phố. Nhưng ở cái góc phố nhỏ bé lặng lẽ trước đây hiện nay đã dựng lên một nhà bạt làm tôi nhớ tới thời kỳ làm nghệ nhân lang thang của mình. Một tấm biển trình bày thô thiển quảng cáo về các buổi diễn của một người nuôi dạy thú dữ nào đó, và lũ trẻ hiếu kỳ xúm xít gần quầy bán vé của đoàn xiếc lang thang.

Với vẻ mặt quan trọng, bác sĩ Fleet cùng những cô con gái xấu xí của mình hình như đang đi mua vé xem xiếc. Họ rất quen biết tôi. Thế mà nay chạm trán nhau, cả ba đều nhìn tôi với vẻ thờ ơ lãnh đạm.

Ngôi nhà nhỏ của cha tôi hình như không có ai ở. Khói không tỏa trên ống khói nhà bếp. Trên tấm biển nhỏ đề tên chủ nhân là Reginald Brand chứ không phải Isidore Pingle.

- Trời ơi... Lẽ nào cha tôi?..

U già Olivia ngồi đan trên bậc tam cấp và không nhận ra tôi. Hay là đến hỏi bà? Nhưng còn lời hứa? Hợp đồng? Dù sao thì Dobby cũng đã thực sự cứu tôi thoát chết. Cần phải đối xử với ông cho trung thực.

Tôi khoát tay. Trong mảnh vườn nhỏ của gia đình Winters cũng vắng bóng người. Tôi từ từ quay trở lại, cố nén trong lòng nỗi buồn đau chưa từng thấy.

“Cái bản hợp đồng khốn kiếp! - tôi nghĩ và đồng thời rảo bước. - Đến giờ phải trở về rồi. Chà, giá mà sớm được thoát khỏi đây...”

❖ II ❖

Ngày hôm ấy đã bừng lên vẻ đẹp của một mùa xuân. Mặt trời ấm áp chiếu tỏa trên mặt biển lặng. Ngọn gió mát mẻ nhè nhẹ lướt qua mặt tôi. Việc leo núi chẳng mệt nhọc gì vì từ bé tôi đã quen trèo núi.

“Nhưng tại sao ở Ashworth không ai nhận ra tôi? Lẽ nào tôi đã thay đổi đến như vậy?” - Tôi nghĩ khi đã leo lên tới khoảnh đất trong gần biệt thự. Sau hàng rào con Kip sủa lên mừng rỡ khi cảm thấy tôi tới gần.

Tôi dừng lại, thở hổn hển, lấy mùi xoa lau mồ hôi trán và rùng mình: tôi thấy như mặt tôi... không phải là của tôi, mà là của người khác.

Tôi lao nhanh như chớp về phía biệt thự. Con Kip vui mừng chạy đến bên tôi, nhưng nó bị một cú đá nên thân. Tôi chạy vụt vào bếp. Con Kip bị xúc phạm kêu lên ăng ẳng ở phía sau. Migli đang bận rộn bên bếp lò với bình cà phê.

- Anh lỉnh đi đâu thế? - Migli nói rít lên. - Ông Dobby hỏi anh mãi... này chờ cái đã...

Nhưng tôi nhìn ông bếp chằm chặp.

- Bác Migli, hãy nhìn tôi xem...

Bác ta liếc nhìn.

- Nào, thì nhìn. Nhưng sao chứ?

- Bác không nhận thấy gì ư?

- Chẳng thấy gì hết.

- Sao lại không thấy nhỉ? Bác nhìn kỹ xem...

Migli nghiêm nghị nhướn lông mày lên.

- Samuel, chớ đùa nữa. Chắc hẳn anh cũng thấy là tôi đang bận. Có chuyện gì thế?

Tôi ghé sát mặt tôi vào mặt Migli.

- Tôi không đùa đâu. Chẳng lẽ bác không thấy gì à?

Migli dậm chân.

- Thấy rồi... Xì... Anh say như một tên say rượu chính cống. Anh ăn mặc lôi thôi quá. Và cứ như thế mà dám vào trình diện Dobby à? Về phòng mà ngủ đi...

Bỗng nhiên một ý nghĩ đập vào óc tôi: “Gương!”

Tôi tóm lấy tay Migli, ngực thở khò khè:

- Cho tôi mượn cái gương...

Những ý nghĩ cứ lồng lên trong óc tôi như lũ ngựa phi nước đại trên vũ đài: “Trong cái nhà này không có lấy một cái gương. Cái lão ẩn sĩ huyền bí ấy không thèm chăm chút tới bề ngoài của hắn, thế mà hắn lại đã cạo râu cho ta? Ha ha!”

- Bác Migli, tôi van bác, tôi xin đổi bất cứ cái gì lấy một mảnh gương!

Nhưng bác ta đẩy tôi ra.

- Khẽ chứ! Ông Dobby nghe thấy bây giờ. Hình dạng như thế mà...

Tôi rít lên:

- Đồ quỷ sứ diêm vương! Ở đây cấm dùng gương sao?

Cái bình cà phê phình bụng sáng nhoáng đang hâm trên bếp lò. A ha!... Tôi chộp lấy bình cà phê đang chảy tong tong, soi vào nó như soi gương, vẫn không phân biệt được gì hết nên tôi lại đặt nó vào cạnh bếp lò. Bình cà phê sôi réo lên và cà phê đen trào ra thành vũng lênh láng trên mặt sàn. Như một con mèo điên, tôi lao tới bên ngăn bếp, trượt chân vào vũng nước, tuy nhiên tôi vẫn giật được cái xoong đồng sạch bong treo trên cái đinh rồi đưa đáy xoong lên soi mặt. Tôi cuống cuồng soi đi soi lại mãi vào cái gương thô sơ ấy. Từ trong đáy xoong một bộ mặt xa lạ nhìn tôi. Thế là tôi cười rộ lên, lấy xoong múc nước trong thùng, rồi vẫn vừa cười vừa chạy ra ngoài. Tôi đã biết có thể dùng gì để thay gương. Tổ tiên chúng ta vẫn dùng mặt nước làm gương soi mặt. Tôi đặt xoong xuống sân và đợi cho đến khi mặt nước thôi sóng sánh. Tôi chẳng thèm để ý tới những tiếng kêu phẫn nộ của bác Migli trong bếp đang vọng ra. Tôi đang bận rộn với bản thân tôi, tôi nghiêng mình soi trên mặt nước tròn trong suốt.

Người tôi lạnh toát từ đầu đến chân. Mặt nước phản ánh một bộ mặt hoàn toàn không phải của tôi.

Nhưng bộ mặt ấy đã biến đi. Nước cũng biến đi. Tôi đã đổ ụp xoong nước lên cái đầu đang nóng như lửa đốt của tôi. Một giọng nghiêm khắc vang lên ở phía trên:

- Samuel, anh dám đi uống rượu ở đâu về mà say khướt thế?

Cái nhìn nhạo báng của Dobby bắt gặp cặp mắt của tôi đang ngước lên. Dobby quở mắng tôi với vẻ hơi kinh tởm:

- Mà bỏ đi như vậy là vi phạm hợp đồng. Anh lại còn nghiện rượu nữa à? Dù sao thì tôi cũng đã yêu cầu anh chưa được khôi phục lại những mối quen biết ở Ashworth. Trời ơi... Thế mà tôi đã cho anh chàng nghiện rượu này vào phòng thí nghiệm! Có lẽ rồi anh sẽ uống cả thuốc thử và nhắm với những tiêu bản. Với anh thì bây giờ chuyện gì cũng có thể xảy ra được.

Tôi đứng dậy, toàn thân run lẩy bẩy.

- Thưa ông Dobby kính mến, mong ông tin cho tôi rằng tôi không uống một giọt rượu nào. Tôi xin thề danh dự. Quả thật tôi đã về thăm Ashworth, nhưng ở đây buồn đến nỗi...

- Điều đó cũng không tha thứ cho anh được, - Dobby nói lạnh lùng. - Tại sao anh lại vào phá quấy trong bếp?

- Thưa ông, tôi biết làm thế nào được? - tôi kêu lên. - Ed tóc hung không nhận ra tôi. Ông bác cũng thế! Không hiểu mặt tôi nó ra làm sao ấy. Tôi sẽ kể lại cho ông nghe chi tiết... Ngay cả tôi cũng không nhận ra mình.

Migli đến bên và nói càu nhàu:

- Đuổi hắn đi ông ạ. Nhưng trước hết hãy bắt hắn lau lại sàn bếp đã. Thật là tồi, không biết xấu hổ...

Nhưng Dobby đã trìu mến ôm lấy tôi lúc bấy giờ đang lả đi và như kẻ mất hồn.

- Anh về buồng nghỉ đi, còn bác Migli, hãy đưa sữa lạnh cho anh ấy uống. Anh ấy đi nắng nên bị đau đầu. Samuel ạ, anh bị chứng đau nửa đầu...

- Thưa ông, ông quá tốt với một kẻ lêu lổng, - Migli càu nhàu. Nhưng chỉ lát sau ông đã đổi giận làm lành nói với tôi: - Ta đi nào, thôi thì cũng đành...

Tôi uống ừng ực hết cả ca sữa trong bếp và cảm thấy người dễ chịu hơn. Tôi ngồi trên giường ở phòng mình. Dobby đứng ngoài cửa, hiền lành và hồ hởi.

- Thế nào, Samuel? Bị suy nhược thần kinh rồi, ái dà dà!.. Đầu anh vẫn đang còn trên đôi vai, và đó là điều chủ yếu nhất...

Tôi buồn ngủ ghê gớm. Và tôi đã nằm mơ một giấc mơ đẹp, tôi thấy tôi ngồi trên chiếc thuyền buồm thể thao rất đẹp của mình và lướt trên vùng biển Caribbe. Tôi ngồi duỗi thẳng chân tay trên một chiếc ghế mây tiện lợi ở đầu khoang phía dưới mái bạt kẻ sọc của boong trên. Ở trên chiếc bàn con trước mặt tôi là cốc si-rô đá. Trời nóng. Tôi giơ tay với cốc nước nhưng không sao với được...

Tay tôi đập phải thành tường cứng đau quá và tỉnh dậy.

Cái cửa sổ quen thuộc phản chiếu đường viền lờ mờ của nó trong bóng đêm, ngay lúc ấy tôi chưa nhận ra là mình đang nằm trên giường trong nhà Dobby, mà vẫn ngỡ là đang trên boong thuyền buồm. Tôi muốn ngáp, nhưng cổ tôi tắc lại. Tôi thấy như có người nào đó bước đi rất nhẹ, hình như chân đi bít tất len, vừa mới ra khỏi phòng tôi và thận trọng khép cửa lại. Cuộc sống đã ít nhiều làm cho tôi sáng trí ra. Tôi nằm yên không động đậy, cẩn thận duỗi thẳng người, thở chậm và êm, hai tay tôi nắm lại, sẵn sàng bật dậy vật lộn với kẻ gian. Cũng ngay lúc ấy chính tôi lại ngạc nhiên trước sự quyết tâm của mình. Hồi còn nhỏ đêm nào tôi cũng thấy những nỗi sợ hãi không đâu và đã biết đấu tranh với chúng. Cần phải nghĩ tới một điều gì đó thật thú vị, khi ấy nỗi sợ tự nó sẽ biến mất.

“Ed không nhận ra tôi... Trời nắng gắt làm tôi nhức đầu... Đã xảy ra chuyện gì nhỉ?”

Khát quá, tôi quờ tay về phía chiếc bàn đêm. Ca đầy sữa. Tôi uống cạn và nghe ngóng. Xung quanh mới lặng lẽ làm sao! Có lẽ Dobby đang ngồi trong phòng làm việc, còn Migli thì ngủ ở phòng bên. Tôi đặt ca vào chỗ cũ và... đờ người ra. Một bóng người lạ thấp thoáng ngoài khung cửa sổ. Nó vụt biến đi rồi lại xuất hiện ngay cạnh cửa kính. Tôi đã kịp ngả đầu xuống gối và nhắm mắt lại, chỉ nhìn ti hí qua kẽ nhỏ ở giữa hai mí mắt như những con báo vẫn thường làm khi chúng giả vờ ngủ.

Ánh đèn pin lóe lên sau cửa kính, ánh sáng của nó như phát ra từ một chiếc đèn pha nhỏ, dừng lại trên mặt tôi khoảng hai ba giây rồi vụt tắt. Còn tôi thì vẫn nằm đờ người ra như trước ra vẻ như người đang ngủ say. Ánh sáng lại lóe lên, lại rọi vào mặt tôi rồi tắt đi. Khoảng hai phút sau tôi từ từ mở mắt. Cái bóng sau cửa sổ đã biến mất. Những vì sao xa thẳm ngoài cửa sổ vẫn bình thản chiếu sáng và làm tôi yên tâm. Bỗng nhiên lòng tôi thấy thờ ơ lãnh đạm với mọi vật xung quanh, những ý nghĩ của tôi trở nên sắc bén và rõ ràng.

Kẻ trộm ư? Cố sao cho thật sẽ sàng, tôi nhỏm dậy nhìn qua cửa sổ. Ánh sáng từ phòng thí nghiệm hắt vào một cái cây.

Tôi thận trọng mở cửa phòng mình. Cửa dẫn ra một hành lang mà mỗi góc nhỏ của nó tôi đều biết tường tận. Tôi không muốn đánh thức Migli và Dobby dậy một cách vội vàng. Tôi luồn qua bếp và nhẹ nhàng khép cửa lại từ phía ngoài. Bất ngờ con Kip từ trong bóng tối xồ ra và trìu mến liếm tay tôi. Tôi vuốt đầu con chó ở khoảng giữa hai tai như thể mong nó tha lỗi cho tôi vì cái hành động thô bạo lúc ban ngày của tôi. Con Kip cọ người vào chân tôi và thở dài, có lẽ nó đã tha thứ cho tôi và đang vui sướng vì việc hòa giải này. Nó hiểu rằng bây giờ thì không nên rít lên. Tôi thấy rõ là nó đang ve vẩy đuôi rất mạnh.

Mắt tôi đã quen nhìn đêm tối. Vẫn chưa quá hai giờ đêm. Rạng đông chỉ có thể bắt đầu từ lúc ba giờ. Hình như trên mặt biển là những lớp mây dày đặc và ở đấy hun hút một khoảng trống đen tối, sâu thẳm. Trên đầu tôi là ngôi sao Cassiopeia hình chữ vê đúp của hệ thống thiên tự vĩnh cửu chiếu sáng thành một đường lượn cố định. Sau biệt thự, nhờ nền trời lấp lánh sao của dải Ngân hà có thể thấy được dải núi thấp phía dưới. Đằng sau nó, người ta cảm thấy ngay, hơn là trông thấy, những ánh phản chiếu lờ mờ của những cụm đèn của một thành phố lớn.

Con Kip vẫn chưa muốn chui ngay vào ngủ trong chuồng của nó ở cạnh bậc tam cấp. Nó hít ngửi đất và thở phì phì, cuối cùng thở dài một cái rồi nằm yên. Thế có nghĩa là không một người lạ nào đã vào sân. Tôi yên tâm nhưng lại muốn xem đêm đêm việc gì đã diễn ra ở trên gác, nơi Dobby ở. Tôi quay ngoặt sang phía sau góc nhà, nhẹ nhàng lùi lại gần những vòm hình mấu của cây dẻ. Cửa sổ sáng ánh đèn được che bởi cái rèm trắng trông rõ mồn một. Một bóng người lờ mờ chuyển động in trên nền rèm, bóng ấy không giống Dobby, cũng không giống Migli. Nó làm tôi nhớ tới ai nhỉ? Khỉ thật!

Tôi đứng ngay ra như phỗng, thậm chí không thể nào đưa tay lên vuốt tóc ra sau gáy, và chỉ tỉnh lại khi một người nào đấy xô vào tôi và làm tôi ngã gục. Hai bàn tay xù xì mạnh mẽ ghì chặt tôi xuống đất đến phát đau lên...

- Lại đây, ông ơi, lại đây! - giọng bác Migli thốt lên phía trên tôi. - Tôi tóm được hắn rồi.

- Này buông ra, - tôi giãy giụa, cố thoát ra khỏi hai cánh tay ông bếp. - Kìa bố già, điên hả!

Trong lúc vật nhau chúng tôi lăn người trên ô cỏ. Con Kip chạy tới bên sủa váng lên.

- A ha, ra thế đấy! - Dobby nói. - Migli, giữ chặt lấy nó!

Dobby cầm đèn pin chạy lại. Trong tay ông ánh lên “đồ chơi” mà tôi chẳng thích nó hướng vào tôi chút nào. Nó làm tôi nhớ lại cung cách của del Aronzo.

Dobby tiến lại sát bên và ra lệnh:

- Migli, gọi Samuel dậy!

- Tôi đây, thưa ông, - tôi nói lẩm bẩm. - Xin ông bảo bác Migli buông tôi ra.

Ánh đèn pin rọi vào mặt tôi. Hai tay bác Migli đã buông ra. Tôi ngồi dậy trên thảm cỏ, tựa người vào thân cây dẻ. Dobby nghiến răng ken két.

- Samuel! Quỷ bắt anh đi, anh lẻn vào đây làm gì?

Tôi cúi đầu nhận tội.

- Xin ông tha lỗi cho, tôi quên không nói trước với ông rằng toàn thể họ hàng tôi khi ở lứa tuổi như tôi đều bị bệnh miên hành. Tôi mắc bệnh gia truyền ấy. Xin cảm ơn bác Migli tốt bụng, nếu không có bác thì tôi đã đi lạc đến tận đường cái và lao xuống vực rồi...

- Thưa ông, đừng nghe hắn, - Migli nói giọng trầm bực tức. - Hắn nói dối. Hắn đi đi lại lại ở đây đã hơn một tiếng rồi. Cứ nhốt hắn vào hầm nhà, sáng ra ta mới xét xem hắn bị cái bệnh gia truyền gì.

- Thưa ông Dobby, xin ông hãy tin tôi, - tôi nói đồng thời đứng dậy và đưa tay lên đỡ cổ. - Tôi thấy hình như có ai nhìn vào tôi qua cửa sổ...

Migli lắc đầu quầy quậy.

- Anh bạn ạ, anh cứ hình như những chuyện vô lý như vậy quá nhiều rồi. Về phía anh mà nói, làm ông Dobby sợ hãi như vậy là vô lương tâm.

Dobby cất “đồ chơi” vào túi và hất đầu về phía tôi.

- Anh đi ngủ đi. Sáng mai tôi sẽ phân giải những hành động ngu xuẩn của anh.

Bầu trời hồng lên ở phía trên những ngọn núi. Khi trở về nằm ở phòng mình tôi nghe rõ tiếng Dobby bước lên cầu thang vào phòng thí nghiệm.

❖ III ❖

Ánh mặt trời mùa xuân tươi vui lọt vào phòng tôi qua cửa sổ. Và vẫn như mọi khi, có tiếng gõ cửa rất ý tứ.

- Samuel ơi, dậy thôi. Bữa sáng đã dọn rồi, - giọng càu nhàu của bác Migli vang lên ở sau cửa.

Tôi nhanh chóng rửa mặt và mặc quần áo. Mọi việc trong bếp vẫn diễn ra như cũ.

- Chào bác.

Migli gật đầu.

- Chào anh.

Bác ta chào lại rất thân mật, có thể nói là trìu mến nữa và nói thêm với vẻ nghiêm trọng:

- Ông Dobby bảo anh ăn sáng ở đây, rồi chuẩn bị các lồng thú số sáu và bảy. Ông sẽ gọi anh muộn hơn một chút.

- Vâng.

- Trời đẹp quá, - Migli nhìn tôi, nói.

- Đúng thế, - tôi trả lời sẽ sàng và nhã nhặn đồng thời đưa mắt nhìn cái chảo rán những miếng bít tết ngon lành đang kêu xèo xèo. Mùi khoai tây rán thơm lừng khắp gian bếp. Tôi thấy thèm ăn ghê gớm.

Trong khi đổ nước xốt hành vào trong chảo, Migli nói:

- Cắt bánh mì ra mà ăn chứ, Samuel. Sao anh cứ ngồi đực ra thế? Trông anh có vẻ như còn chưa tỉnh ngủ...

- Bác biết đấy, tôi chỉ ngủ được có nửa đêm, - tôi nói ám chỉ tới sự việc vừa xảy ra và cầm bánh mì lên.

Nhưng Migli chẩu môi ra với vẻ giễu cợt.

- Anh ngáy suốt đêm thì có.

Tôi sửng sốt há hốc mồm.

- Migli, bác nói gì vậy? Thế đêm qua kẻ nào suýt bẻ gãy cổ tôi đấy? Chả là bác tưởng tôi là kẻ trộm mà.

Bác bếp từ từ đặt đĩa bít tết xuống bàn và chậm rãi lắc đầu.

- Cắt bánh mì rồi chứ? Thôi nào ăn đi, ăn đi kìa, kẻo nguội mất thịt. Ăn xong rồi đi mà tắm, và chớ có nói huyên thuyên nữa. Tôi bẻ gãy cổ anh khi nào?

- Chà, lại còn không ư? May mà... - tôi nói lẩm bẩm ngập ngừng và sờ tay lên trán. Nhưng nó chẳng có triệu chứng gì tỏ ra là tôi sốt cả.

Miếng bít tết trên đĩa cùng với nước của nó tiết ra trông thật ngon lành, và tôi cắm dĩa vào, cần phải tăng cường thể lực. Vừa nuốt xong miếng thịt thứ nhất kèm theo với thứ nước xốt hành ngon tuyệt tôi liền nhớ tới một tình tiết đặc biệt của những sự kiện đêm qua nên vội nhảy ra phía bậc tam cấp.

- Có chuyện gì thế? - Migli lao ra theo tôi. - Anh bị nghẹn à?

- Hơi bị ngạt thở, - tôi trả lời dịu dàng, ra sức hít lấy hít để khí trời tới căng lồng ngực ra mới thôi. - Bác Migli ạ, tôi cần đi dạo một lát.

Tôi cố làm ra vẻ thờ ơ ngắm nhìn cây dẻ nhiều cành đang nẩy lộc mùa xuân, nhưng kỳ thực lại chú ý xem xét cỏ ở phía dưới. Thảm cỏ bị đè hơi đổ rạp xuống.

- Samuel, chớ dẫm lên cỏ! - Migli la lên khi thấy tôi định đi tới cạnh gốc cây. - Ở đấy ông Dobby đã gieo loại sen cạn...

Tôi thở dài, trở lại bếp. Miếng bít tết đã nguội. Tôi bực tức, vừa nhai miếng thịt vừa nghĩ: “Chẳng lẽ ta nằm mê hay sao?”

Lúc ngồi uống cà phê tôi nói với bác bếp:

- Bác Migli ạ, nếu như đã có lúc nào đấy tôi làm phiền lòng bác thì mong bác bỏ quá cho nhé...

Nhưng bác ta đã trả lời mộc mạc:

- Sao lại nói thế, Samuel!.. Tôi chưa từng gặp người nào tế nhị hơn anh. Uống tách nữa nhé?

Sau khi đã cám ơn bác Migli bằng những lời lẽ tử tế nhất, tôi cầm tách cà phê bác đưa cho, nhưng bỗng một hồi chuông vang lên gọi tôi vào phòng thí nghiệm.

Dobby tiếp đón tôi như không có chuyện gì xảy ra.

- Chào anh. Anh làm ơn chuẩn bị cho những kính phết lấy từ các ống nghiệm mười ba - hai mươi chín. Rồi đổ cồn vào các bình cầu.

Ông chỉ vào một dãy các chai lọ đựng đầy những quả khô để trên bàn.

- Thưa ông vâng.

- Samuel, sao trông anh buồn rầu thế, - Dobby nói khi tôi bắt đầu cầm bi đông đựng cồn. - Lông mày thì cau có lại. Thử ngắm mà xem.

Chà, lại giễu cợt! Tôi tức run lên.

- Thưa ông Dobby, trong hợp đồng không hề nói rằng ông có quyền nhạo báng tôi...

- Anh nói sao? - Dobby bình tĩnh đứng giữa phòng thí nghiệm. Ông nói giọng cứng rắn và rõ ràng. - Thế là thế nào? Tôi thương anh, chứ không hề nhạo anh. Tôi muốn giúp anh.

- Giúp ư?

- Phải. Anh có nhớ hôm qua anh hóa dại như thế nào không? Samuel ạ, anh nói đúng đấy. Hãy lấy gương trong tủ mà soi xem.

- Hình như trong nhà này cấm dùng gương, - tôi nhăn nhó nói.

Dobby cau lông mày lại.

- Ai bảo anh thế? Lấy gương ra. Trong tủ ấy.

Cố nén xúc động, tôi mở tủ. Ở trên ngăn giữa các vỏ bọc và các đồ chai lọ có một cái gương bỏ túi xinh xắn.

Ôi, mặt mới khiếp chứ, còn ngái ngủ và đầy râu! Một bộ mặt xa lạ! Đây không phải là tôi!

Cái gương rời khỏi tay tôi và vỡ tan tành.

- Anh hậu đậu quá! - Dobby nói vẻ bực dọc đồng thời nhặt những mảnh vỡ lên.

Tôi làm sao thế này? - tôi sợ hãi nói thì thầm và sờ tay lên mặt. - Hủi ư?

Dobby nắm hai vai ấn tôi ngồi xuống ghế.

- Một đứa trẻ hay khóc! Một tên hèn nhát mà tôi lại cho là người dũng cảm! Thôi đừng có ti tỉ nữa!

- Ông làm ơn cho biết tôi làm sao thế này? - tôi nói giọng lạnh lùng.

Dobby nhếch mép cười.

- Samuel ạ, sao mắt anh trông có vẻ căm uất và khó hiểu thế. Hãy cố mà hiểu những điều tôi sắp nói, và anh sẽ thấy ngượng vì sự thiếu thiện chí của anh... Hừm... Hừm... Hoàn toàn không có chuyện gì xảy ra với anh ở đây hết... Nhưng anh đã từng sống ở Miến Điện, đã cầm rắn jirr trong tay và bị lây chúng cái bệnh mà người ta gọi là “bệnh của những người lùn”. Đó là một loại virus độc, nó gây ra những biến đổi trong các mô của cơ thể. Người ta biết rằng một vài loại jirr là vật trung gian truyền virus này.

Không kìm được mình, tôi đứng phắt dậy.

- Tôi không tin ông! Milrois hiểu biết về rắn hơn ông! Nếu những con jirr truyền virus thì làm gì mà ông ấy không nói cho tôi biết. Cứ gửi điện về Rangoon mà hỏi xem... Ông ấy còn hiểu virus hơn ông. Ông ấy là một bác học chân chính, ông Milrois tốt bụng của tôi...

Dobby lắc đầu.

- Chà, anh Samuel ạ, lẽ nào tôi không biết tất cả những người đã hoặc đang nghiên cứu virus? Được, ta cứ thử hỏi Milrois xem, nhưng rồi ông cũng sẽ trả lời như thế thôi. Có rất nhiều con đường truyền bệnh virus. Còn phải nghiên cứu chúng lâu dài hơn nữa. Đó là cách tốt nhất để khám phá ra những điều thú vị. Tôi chỉ nói cho anh rõ một điều như thế này. Điều đó có quan hệ đến anh...

Để tỏ vẻ đồng ý, tôi cúi đầu và ngồi xuống ghế.

❖ IV ❖

- Đã lâu lắm rồi, - Dobby bắt đầu nói, - tôi có một người bạn trẻ. Bây giờ anh ấy đã không còn trên đời này nữa. Anh ấy bị một tai họa. Tôi quen anh ấy ở... Berbera. Ở Somalia, một thuộc địa của chúng ta có một cảng như thế. Anh biết chứ, ở Phi Châu ấy mà? Bao giờ anh bạn ấy cũng bị lôi cuốn bởi những chuyến du lịch. Ở tuổi thanh niên anh ấy không phải chỉ lo lắng tới chỗ đứng dưới ánh mặt trời, cũng không chỉ lo tới mẩu bánh mì. Cái đầu cũng đòi được ăn. Trí óc phát triển là do đọc nhiều sách hay. Anh bạn tôi thường xuyên bị đói, nhưng anh đọc ngốn ngấu tất cả những gì có liên quan tới động vật và thực vật. Anh muốn trở thành một bác học. Anh cóp nhặt tiền bạc và đi sang Trung Phi. Và thế là chúng tôi quen biết nhau trên đường đi tới đó.

“Tôi muốn, - anh ấy nói, - có được một phát kiến nào đó thật xuất sắc về địa lý. Ông Dobby ạ, giá mà ông biết được ý nghĩ đó đang giày vò tôi đến như thế nào nhỉ!”

Nhưng tôi biết trả lời anh ấy ra sao? Trả lời rằng cần làm việc một cách trung thực ư? Rằng thường người ta không phát kiến một cách ngẫu nhiên ư? Rằng nhà du lịch địa lý phải luôn luôn sẵn sàng lập kỳ công ư?

Chính tôi đi sang Trung Phi với sự chuẩn bị khá đầy đủ và với một mục đích rõ ràng - tìm kiếm những virus thực vật thú vị. Tôi đặc biệt kết thân với con người trẻ tuổi ấy khi chúng tôi đến Harar. Chúng tôi quyết định cùng nhau đi tiếp. Ở thủ Addis Ababa, chúng tôi hợp nhất những con vật nhỏ tải đồ của chúng tôi lại rồi đi về hướng tây.

Vượt qua đèo Brng, chúng tôi tới cao nguyên Ugogo. Dân cư ở đấy vóc người rất thấp, họ sống trong những túp nhà bằng sậy, luôn luôn bị thú dữ đe dọa, nhưng những nhà kinh doanh địa phương, những kẻ buộc họ phải đào những lòng suối cạn để lấy cát đãi vàng còn đe dọa họ nhiều hơn nữa. Tôi với người bạn cùng sống trong một túp nhà gỗ chật hẹp để chờ đợi cho cái mùa đông nhiệt đới với những trận mưa khó chịu qua đi.

Không thể nói là những vùng ở Ugogo có phong cảnh đẹp được. Những cánh rừng nhỏ chỉ giống như những oase giữa những khoảng không rộng bao la có những bụi hoang cây dại mọc. Những cánh đồng cạnh làng - tôi không còn nhớ là làng gì nữa - thì cằn cỗi và nhỏ bé. Những người lùn Ugogo hái những quả màu da cam ở các bụi cây về, tán nhỏ ra rồi trộn với ngô, nhào thành chất bột sền sệt đem nấu bánh và nướng chúng trên than hồng. Đó là món ăn chủ yếu của những người lùn. Cái cảnh đại loại như thế thì chúng tôi cũng đã được thấy từ khi còn trên đường đi Uganda. Nhưng Uganda về phía đông từ Ugogo, gần biển hơn. Ở Uganda thỉnh thoảng người ta còn được nếm thịt trâu tươi và những đồ hộp nơi khác đem đến. Còn Ugogo thì quả là một chốn đáng nguyền rủa. Đối với tôi ở đấy chẳng có gì gọi là thú vị, và cả hai chúng tôi đã tính chuyện quay trở về. Chúng tôi muốn đi lên phương bắc, tới tận những ngọn nguồn sông Nile gần Wadeli, rồi đi xuống phía Aswan và sẽ từ biệt Phi Châu ở Cairo.

Một lần bạn tôi vào rừng, tìm thấy một bụi cây gai có nhiều quả màu vàng, bên trong có chất dầu nhớt. Loại cây ấy làm tôi chú ý. Nhưng nó chẳng gây ở anh bạn trẻ một ấn tượng nào. Anh ấy khát khao những phát minh phi thường, và vì thế quan tâm tới những cây hình dáng xấu xí giống như loại bách tròn chăng? Nói chung anh thất vọng về chuyến đi này của chúng tôi đến nỗi chẳng bao lâu sau đã bỏ lên phương bắc mà không chờ đợi tôi.

Một lần, khi tôi đem cây có quả vàng về làng, những người dân địa phương, qua người thông ngôn, nói với tôi rằng ở đây họ gọi cây đó là “cây gai của người Bushmen”, và nước ép của loại cây quả vàng ấy có một sức mạnh huyền bí. Tôi đã bắt đầu thu thập một bộ sưu tập thực vật về các loại gai khác nhau, và lập tức nhận thấy rằng dưới những bụi cây ấy lúc nhúc những rắn jirr. Những chuyến đi nghiên cứu thực vật của tôi trở nên rất nguy hiểm. Tôi mang theo hai chục người địa phương, và họ đã rất dũng cảm và khéo léo đuổi lũ rắn ra khỏi các bụi, cho đến nay tôi vẫn còn cảm thấy ghê tởm những con rắn ấy. Bấy giờ tôi phải làm việc rất nhiều, nhưng tôi không hối tiếc gì về điều này. Tôi rất thú loại cây gai ấy. Những quả của nó cũng được những người lùn Ugogo dùng làm món ăn, nhưng chỉ vào một thời gian nhất định trong năm thôi. Và đây, sự việc xảy ra như thế này.

Khi những trận mưa đã chấm dứt, và dân làng chuẩn bị ăn mừng ngày đầu tuần trăng non thì những người phụ nữ đi ra thảo nguyên, lúc về họ mang theo những túi đầy quả mà tôi đã biết. Họ ép chúng thành thứ nước sánh chát rồi hòa thêm nước vào, sau đó lấy chất lắng đọng ở dưới nhào với bánh mì. Tôi chăm chú quan sát việc làm này của những bà chủ da đen. Tôi có một người thông ngôn rất tốt, giàu kinh nghiệm, và có một ít cồn dự trữ. Nhờ vậy những ông già Ugogo sẵn lòng mời tôi tham dự ngày lễ. Mặt trời vừa lặn thì những người địa phương bắt đầu nhảy và chơi một thứ nhạc mọi rợ bằng các ống sậy kèm theo với những tiếng trống rung. Sau đó dân Ugogo uống nước quả ép, hình như nước này bốc men rất nhanh, bởi vì những người nhảy bị say rất nhanh, và những bà vợ phải đưa họ vào ngủ trong những túp nhà. Ba ngày liền dân làng ăn những bánh làm bằng chất nước quả gai đó. Họ cũng mời tôi, nhưng bản thân người thông ngôn không ăn và khuyên cả tôi không nên ăn. Anh ta nói thế này: “Người Ugogo cho rằng quả cây gai tăng thêm sức mạnh, tinh thần sáng suốt và đời sống lâu dài cho những ai biết dùng nó làm món ăn. Nhưng chúng làm cho con người không lớn lên được và suốt đời trở thành những người lùn”.

Thật vậy, trong đám người lùn Ugogo có những người vóc dáng rất nhỏ bé với những cái bụng xệ như ở những kẻ phàm ăn, nhưng khỏe ghê gớm mặc dù râu cằm đã bạc phơ và nét mặt đã nhăn nhúm.

- Thế rồi sao nữa? - tôi hỏi.

- Tôi đã lấy được từ các quả vàng những virus thuần khiết, loại virus này làm cho lá một số cây trở thành có gai. Tôi đã sống ở Ugogo hai năm và đã kiểm tra lại sự biến dạng này qua thí nghiệm. Việc này đã kích thích và thúc đẩy tôi dứt khoát hiến cả đời mình cho công cuộc nghiên cứu virus. Tất cả những gì đang xảy đến với anh đều khẳng định những phát hiện của tôi. Thôi đừng thất vọng nữa. Tôi sẽ giúp anh. Tôi sẽ chữa cho anh khỏi bệnh.

Câu chuyện của Dobby có vẻ đúng thật. Bây giờ thì tôi chẳng còn tính gì tới chuyện tranh cãi với ông chủ nữa. Thôi thì cứ để ông ấy chữa cho tôi khỏi cái bệnh virus này. Và tôi nói bằng giọng của một người có tội:

- Thưa ông, mong ông tha lỗi cho; có lẽ tôi là một con người hết sức vong ân bội nghĩa. Nhưng ông hãy thử đặt vào địa vị tôi...

- Samuel ạ, rồi sẽ ổn cả, - Dobby thân ái vỗ vai tôi. - Virus lấy từ những cây lùn là loại virus đầu tiên mà về sau tôi đã đem truyền cho động vật trong phòng thí nghiệm. Tôi nghiên cứu virus với mục đích gì? Nghiên cứu để thuần hóa chúng, làm cho chúng trở thành một công cụ có lợi trong tay con người.

Chà, cái ông Dobby này biết nói và buộc người khác phải nghe mình!

- Samuel ạ, bệnh của anh sẽ khỏi hẳn mà không để lại vết tích gì, - Dobby nói chắc chắn.

- Xin lỗi ông, vậy tôi không nhỏ người lại và không trở thành một tên lùn chứ? - tôi sợ hãi hỏi.

- Không đời nào, - Dobby cười. - Thôi nào, anh đổ cồn vào những bình cầu đi. Vừa hay trong đó, anh thấy chứ, là những quả khô màu vàng “cây gai của người Bushmen”. Chúng ta sẽ lấy chất chiết xuất từ những quả ấy, tách cồn ra và có được một chất kết tinh có đặc tính riêng rất thú vị. Nếu tiêm chất ấy cho thỏ thì huyết thanh của thỏ sẽ trở nên có khả năng làm trung hòa tác dụng của virus cây gai. Samuel ạ, huyết thanh ấy sẽ chữa cho anh khỏi bệnh hoàn toàn...

- Cám ơn ông! - tôi mừng rỡ nói. - Thế thì tôi phải gắng giúp ông lấy được loại huyết thanh này.

Ngày hôm ấy tôi đã làm việc rất hăng say.

Lúc ăn trưa tôi hỏi Dobby:

- Người bạn mà ông kể đã gặp tai họa gì, thưa ông?

Dobby thở dài ảo não.

- Từ bấy đến nay tôi không gặp lại anh ấy. Tôi đã đọc thấy trên tạp chí những bài báo tài ba ký tên người bác sĩ Mỹ trẻ tuổi đó. Nhưng mới đây có tin là anh ấy bị những người hầu của mình giết chết ở Mexico...

- Tiến sĩ Rolls? - tôi nói lẩm bẩm.

- A, anh cũng biết anh ấy à? - Dobby nheo mắt lại.

- Ô không!.. Tôi chỉ đọc thấy trên báo về vụ giết người bí ẩn ở Samatlan...

Tôi cố tình nói chệch tên thành phố Mazatlán đi, và phải cố gắng lắm mới nén nổi nỗi xúc động đang tràn ngập tâm hồn tôi.