← Quay lại trang sách

Ruth

Buổi sáng sau khi được thả ra, tôi thức dậy và nhìn chằm chằm lên cái vết nứt trên trần mà tôi luôn nói mình sẽ trám lại nhưng chẳng bao giờ làm. Tôi nghe thanh ngang trên cái ghế giường cấn vào lưng và cảm thấy biết ơn. Rồi tôi nhắm mắt và lắng nghe giai điệu du dương của chiếc xe rác trên đường phố.

Trong chiếc đầm ngủ (một chiếc mới; tôi sẽ quyên góp cái đã mặc trong buổi luận tội tới quỹ Goodwill ngay khi có cơ hội đầu tiên), tôi bắc một ấm cà phê và rảo bước theo hành lang tới phòng ngủ của Edison. Con trai tôi ngủ say như chết; ngay cả khi tôi vặn nắm đấm cửa, lách vào phòng và ngồi xuống bên mép giường thằng bé, nó vẫn không nhúc nhích.

Hồi Edison còn nhỏ, tôi với chồng vẫn hay ngồi ngắm khi con ngủ. Thỉnh thoảng Wesley lại đặt tay lên lưng Edison, và chúng tôi đo độ phồng lên xẹp xuống của lá phổi thằng bé. Cơ chế khoa học của việc tạo ra một sinh linh mới thật quá phi thường, dẫu đã bao lần học về tế bào, sự phân bào, ống thần kinh và tất cả những thứ xảy ra để hình thành nên một đứa trẻ, tôi vẫn không thể gạt bỏ ý nghĩ rằng trong chuyện đó phải có sự can thiệp của phép màu.

Edison phát ra tiếng ầm ừ từ sâu trong lồng ngực, rồi dụi mắt. “Mẹ?” thằng bé nói và ngồi dậy, lập tức tỉnh hẳn. “Có chuyện gì không ổn sao ạ?”

“Không có gì,” tôi đáp. “Mọi chuyện đều ổn cả.”

Thằng bé thở phào, rồi nhìn đồng hồ của nó. “Con phải chuẩn bị đi học.”

Tôi được biết, từ cuộc nói chuyện trên đường về nhà tối qua, rằng thằng bé đã bỏ học cả ngày để làm thủ tục bảo lãnh cho tôi, và bây giờ nó còn rành về thế chấp và bất động sản hơn tôi nữa. “Mẹ sẽ gọi thư ký nhà trường. Giải thích về chuyện hôm qua.”

Thế nhưng mẹ con tôi đều biết có sự khác biệt lớn giữa Thứ lỗi cho Edison vì nghỉ học; thằng bé bị đau bụng và Thứ lỗi cho Edison vì nghỉ học; thằng bé bận bảo lãnh cho mẹ ra tù. Edison lắc đầu. “Không sao đâu ạ. Con báo với giáo viên là được.”

Thằng bé không nhìn vào mắt tôi, và tôi cảm thấy giữa chúng tôi đã có một thay đổi lớn, như là địa chấn.

“Cảm ơn con,” tôi nói khẽ. “Lần nữa.”

“Mẹ không phải cảm ơn con đâu,” thằng bé thì thầm.

“Không, phải nói chứ con.” Tôi nhận ra, trước sự ngỡ ngàng của chính mình, rằng bao nhiêu nước mắt tôi cố cầm lại suốt hai mươi bốn giờ qua giờ đột nhiên dâng lên trong mắt.

“Mẹ,” Edison nói rồi choàng tới ôm tôi.

“Mẹ xin lỗi,” tôi thổn thức, nấc nghẹn trên vai thằng bé. “Mẹ không biết sao lại mất bình tĩnh lúc này.”

“Mọi chuyện sẽ ổn thôi mà mẹ.”

Một lần nữa, tôi lại cảm thấy nó, sự chuyển dịch của mặt đất dưới chân, sự tái sắp xếp những khúc xương trên cái nền tâm hồn mình. Phải mất một lúc tôi mới nhận ra, lần đầu tiên trong đời, Edison là người an ủi tôi thay vì ngược lại.

Tôi từng tự hỏi làm thế nào người mẹ nhận ra khoảnh khắc con mình thành người lớn. Phải chăng đó là một biểu hiện thể chất, như biến đổi đột ngột của cơ thể lúc dậy thì; hay là xúc cảm, chẳng hạn như lần đầu tiên trái tim thằng bé vỡ tan; hoặc là một mốc thời gian, ví dụ khi thằng bé nói câu Tôi đồng ý. Tôi từng tự hỏi có khi nào đó là một khối những trải nghiệm mang tính quyết định trong cuộc sống - tốt nghiệp, công việc đầu tiên, đứa con đầu lòng - tất cả hợp lại thay đổi sự cân bằng; tôi không biết đó là thứ bạn nhìn một cái là nhận ra ngay, như vết bớt rượu vang, hay nó lẳng lặng đến từ từ, như tuổi tác.

Giờ thì tôi đã biết; sự trưởng thành như một đường thẳng vẽ lên trên cát. Một lúc nào đó, con bạn đã đứng sang phía bên kia.

Tôi tưởng con tôi sẽ lang thang. Tôi tưởng đường thẳng sẽ dịch chuyển.

Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng chuyện mình làm sẽ là cái đẩy thằng bé sang phía đó.

Mất một lúc lâu tôi mới chọn được đồ mặc đến văn phòng luật sư biện hộ. Hai mươi lăm năm trời tôi chỉ mặc đồng phục y tá; đồ đẹp dành dự lễ nhà thờ. Thế nhưng váy hoa cổ ren với giày gót nhọn thì có vẻ không phù hợp cho một cuộc họp bàn công chuyện. Ở phía sau tủ, tôi tìm thấy chiếc váy xanh thủy thủ từng dùng dự họp mặt buổi tối cho phụ huynh với giáo viên ở trường của Edison, kết hợp với chiếc áo sọc má mua tặng tôi dịp Giáng sinh từ Talbots hãy còn nguyên mác. Tôi lục lọi bộ sưu tập giày gót gỗ hiệu Dansko - cứu tinh của y tá khắp nơi - và lựa ra một đôi đế bệt có chút cũ mòn, nhưng hợp với trang phục.

Khi tới địa chỉ ghi trên đầu thư, tôi chắc mẩm mình đã đi lộn chỗ. Không có ai ở bàn tiếp tân hết - thực ra còn chẳng có bàn tiếp tân nữa. Những dãy bàn làm việc có vách ngăn và hàng chồng thùng giấy nối nhau tạo thành một mê cung, như thể nhân viên là chuột bạch và tất cả chỗ này là một phần của thí nghiệm quan trọng nào đó. Phân vân, tôi bước vài bước vào trong và đột nhiên nghe tên mình.

“Tôi là Kennedy McQuarrie!”

Làm như tôi có thể quên được ấy! Tôi gật đầu và bắt tay cô, bởi vì McQuarrie đang chìa tay ra. Tôi thật sự không hiểu sao cô ấy lại là luật sư của mình nữa. Cô ấy đã nói thẳng thừng, ở buổi luận tội, rằng sẽ không có chuyện đó.

Nữ luật sư bắt đầu huyên thuyên luôn miệng, nhiều đến nỗi tôi chẳng xen vô được chữ nào. Mà thế cũng tốt thôi, vì tôi đang lo lắng muốn chết. Tôi không đủ tiền thuê luật sư tư nhân, ít nhất là không nếu không tiêu hết khoản dành dụm cho Edison đi học, mà như thế thì tôi thà ở tù tới hết đời. Tuy nhiên, chỉ vì ở đất nước này ai cũng có thể có luật sư không có nghĩa là luật sư nào cũng như luật sư nấy. Trên TV, người trả tiền thuê luật sư tư nhân sẽ được tha bổng, còn kẻ do luật sư công biện hộ phải giả vờ như họ chẳng khác gì.

Cô McQuarrie đề nghị chúng tôi đi đâu đó ăn trưa, mặc dù tôi đang lo đến không ăn nổi. Sau khi chúng tôi gọi món, tôi bắt đầu rút ví ra nhưng Kennedy khăng khăng giành việc thanh toán về mình. Thoạt đầu, tôi nổi giận - từ khi còn nhỏ và bắt đầu mặc đồ cũ của Christina, tôi chẳng muốn nhận bố thí của ai. Thế nhưng trước khi phàn nàn, tôi nghĩ lại. Biết đâu đây là điều cô ấy làm với tất cả khách hàng, để gây thiện cảm? Biết đâu cô ấy đang cố làm tôi thích cô ấy như tôi muốn cô ấy thích tôi?

Sau khi chúng tôi ngồi xuống với khay thức ăn, theo thói quen, tôi nói lời tạ ơn. Bạn phải hiểu cho, tôi đã quen làm vậy còn người khác thì không. Corinne là một người vô thần cứ hễ nghe tôi cầu nguyện hay thấy tôi cúi đầu trước túi cơm trưa là buông ra mấy câu đùa cợt về Quái vật Mì ống trên Trời. Thế nên tôi không ngạc nhiên khi thấy McQuarrie nhìn mình chăm chăm lúc tôi kết thúc. “Vậy ra cô có đi nhà thờ?” nữ luật sư hỏi.

“Có vấn đề gì với chuyện đó sao?” Hẳn là cô ấy biết điều gì đó tôi không biết, chẳng hạn như người tin có Chúa thì có nguy cơ bị kết án cao hơn.

“Không có gì. Còn tốt nữa, vì đó là một tình tiết có thể giúp cho cô.”

Nghe nói thế, tôi nhìn xuống đùi mình. Bộ tôi vốn khó ưa đến độ cô ấy phải tìm thứ này thứ khác để khiến người ta đổi ý theo hướng có lợi cho tôi hơn sao?

“Trước hết,” Kennedy lên tiếng, “cô thích cách gọi người đa đen, người Mỹ gốc Phi hay người da màu hơn?”

Tôi thích người ta gọi tôi là Ruth hơn cả. Nhưng tôi nuốt câu trả lời đó xuống và đáp, “Người da màu.”

Có lần, ở chỗ làm, một hộ lý tên Dave đã đùng đùng diễn thuyết một tràng về khái niệm đó. “Không phải là tôi không có màu,” anh ta nói, giơ cánh tay trắng nhợt ra. “Tôi đâu có trong suốt, phải không? Nhưng tôi đoán những người da nhiều màu hơn không hiểu điều đó.” Rồi anh ta nhác thấy tôi trong phòng nghỉ và đỏ bừng lên tới tận chân tóc. “Xin lỗi, Ruth. Nhưng cô biết mà, tôi gần như không nghĩ cô là người da đen.”

Luật sư của tôi vẫn đang liến thoắng. “Tôi còn chẳng thấy màu gì cả,” cô ấy bảo. “Ý tôi là, chủng tộc gì thì cũng là loài người mà, chẳng phải sao?”

Thật dễ để tin rằng tất cả chúng ta đều cùng chung chiến tuyến khi bạn không phải là người bị cảnh sát còng tay lôi ra khỏi nhà. Thế nhưng tôi biết khi người da trắng nói mấy câu như vậy, họ thật sự nghĩ rằng đó là điều nên nói; không phải vì họ nhận ra chúng sáo rỗng đến mức nào. Mùa hè trước, chị Adisa phát khùng lên khi hashtag #alllivesmatter (mọi sinh mạng đều quan trọng như nhau) lan rộng khắp Twitter, một phản ứng đáp lại những nhà hoạt động xã hội giương cao biển đề Sinh mạng Người Da đen Quan trọng. “Cái mà bọn chúng thật sự muốn nói là mạng sống người da trắng mới quan trọng,” chị Adisa quả quyết. “Và bọn da đen nên nhớ điều đó trước khi chúng ta trở nên quá bạo gan mà chuốc họa vào thân.”

Cô McQuarrie khẽ ho, và tôi nhận ra tâm trí mình đã lảng đi chỗ khác. Tôi buộc mắt mình tập trung vào gương mặt cô ấy và gượng cười. “Nhắc lại cho tôi nhớ cô đã học ở đâu ấy nhỉ?” nữ luật sư hỏi.

Tôi cảm thấy như mình đang bị khảo tra. “Trường Đại học tiểu bang New York ở Plattsburgh, rồi học y ở Yale.”

“Ấn tượng lắm.”

Cái gì ấn tượng? Chuyện tôi tốt nghiệp đại học à? Hay chuyện tôi đã tới Yale? Đây là thứ mà Edison phải đối mặt hết phần đời còn lại của nó sao?

Edison.

“Cô McQuarrie,” tôi mở lời.

“Kennedy.”

“Kennedy.” Cách gọi thân mật rung trên lưỡi tôi nghe gượng gạo làm sao. “Tôi không thể trở lại nhà ngục.” Tôi nhớ lại hồi Edison còn bé, khi nó thò chân vào đôi giày của Wesley và lạch bạch bước quanh nhà. Ngày còn là đứa trẻ, con trai tôi từng tin có phép màu, thế mà nó phải sống cả cuộc đời để chứng kiến phép màu đó bị xóa đi một cách hệ thống, từng chút mất đi với mỗi cuộc đối đầu. Chỉ đến khi bắt buộc phải thế, còn thì tôi không muốn thằng bé phải đối mặt với chuyện đó sớm hơn. “Tôi còn con trai tôi, và chẳng có người nào khác có thể nuôi dạy nó thành người đàn ông mà tôi biết nó sẽ trở thành.”

Cô McQuarrie - Kennedy - nghiêng người về phía trước. “Tôi sẽ cố gắng hết sức. Tôi có nhiều kinh nghiệm về những vụ liên quan tới người như cô.”

Lại một cái nhãn, một cách gọi mang định kiến khác. “Người như tôi?”

“Những người bị cáo buộc phạm tội nghiêm trọng,” cô ấy giải thích.

Ngay lập tức, tôi phản ứng kiểu tự vệ. “Tôi đâu có làm gì-

“Tôi tin cô. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải thuyết phục ban hội thẩm. Vì vậy chúng ta phải trở lại những thông tin cơ bản nhất để tìm hiểu tại sao cô bị kết án.”

Tôi nhìn nữ luật sư chăm chú, cố gắng không vội ngờ vực cô. Đây là vụ kiện duy nhất tôi quan tâm, nhưng có lẽ Kennedy đang phải xử lý hàng trăm vụ khác. Có lẽ cô thật tình đã quên thằng cha da đầu có hình xăm đã nhổ vào tôi trong phòng xử án. “Người cha của đứa bé đó không muốn tôi lại gần con trai hắn ta.”

“Cái tay thượng tôn da trắng ấy hả? Hắn ta không liên quan gì tới vụ của cô hết.”

Trong một lúc, tôi nghẹn lời. Tôi đã bị gạt ra, không được chăm sóc một bệnh nhân bởi màu da của mình, rồi bị phạt vì nghe theo chỉ thị khi chính bệnh nhân đó rơi vào tình trạng nguy cấp. Làm sao mà hai việc đó lại không liên quan tới nhau chứ? “Nhưng tôi là y tá da màu duy nhất ở khoa sản.”

“Với tiểu bang, chuyện cô da đen, da trắng, xanh lam hay xanh lục chẳng có ý nghĩa gì,” Kennedy giải thích. “Cô có nghĩa vụ chăm sóc một đứa trẻ sơ sinh thuộc phần cô phụ trách.” Nữ luật sư bắt đầu liệt kê tất cả những cách bồi thẩm đoàn có thể dùng để kết tội tôi. Mỗi cách nghe như một viên gạch, được trát vữa vào đúng chỗ, chẹt cứng tôi trong cái hố này. Tôi nhận ra mình vừa phạm một sai lầm nghiêm trọng: tôi cho rằng công lý thật sự công bằng; và thành viên ban hội thẩm sẽ coi tôi là người vô tội cho đến khi bị chứng minh ngược lại. Thế nhưng định kiến là thứ hoàn toàn trái ngược: người ta đã có phán quyết trước khi xem bằng chứng rồi.

Tôi chẳng có cơ hội nào hết.

“Cô thật sự tin rằng nếu tôi là người da trắng,” tôi nói khẽ, “giờ tôi vẫn phải ngồi đây với cô à?”

Nữ luật sư lắc đầu. “Không. Tôi tin rằng đề cập đến chuyện đó trước tòa thì quá mạo hiểm.”

Thế ra chúng ta cãi thắng một vụ kiện bằng cách vờ như lý do chuyện đó xảy ra không hề tồn tại sao? Nghe có vẻ không trung thực, tảng lờ mọi sự. Giống như nói một bệnh nhân tử vong vì xước măng rô mà không nhắc tới chuyện anh ta bị tiểu đường loại 1 vậy.

“Nếu vấn đề chủng tộc không bao giờ được đề cập trước tòa,” tôi nói, “làm sao có gì thay đổi được đây?”

Nữ luật sư khoanh tay đặt lên mặt bàn giữa chúng tôi. “Cô đâm đơn kiện dân sự. Tôi không thể làm chuyện đó cho cô, nhưng có thể gọi hỏi vòng vòng và tìm cho cô ai đó chuyên về phân biệt chủng tộc trong tuyển dụng lao động.” Cô ấy giải thích, bằng biệt ngữ của giới luật sư, về ý nghĩa của việc đó đối với tôi.

Đó là một khoản tiền mà tôi chưa bao giờ tơ tưởng trong cả những giấc mơ hoang đường nhất.

Thế nhưng có chút mắc mớ. Bao giờ cũng có mắc mớ. Cái đơn kiện có thể mang lại cho tôi số tiền này, có thể giúp tôi thuê một luật sư tư nhân sẵn lòng thừa nhận rằng ngay từ đầu chủng tộc chính là cái đã đẩy tôi vào tòa án, lại chỉ có thể tiến hành cho đến khi vụ kiện này kết thúc. Nói cách khác, nếu bây giờ bị phán quyết là có tội, tôi có thể hôn tạm biệt số tiền tương lai kia.

Đột nhiên tôi nhận ra Kennedy từ chối không nhắc tới vấn đề chủng tộc trước tòa không phải vì cô không hiểu biết. Ngược lại thì đúng hơn. Đó là vì cô biết chính xác tôi phải làm gì để có được cái mình xứng đáng được hưởng.

Tôi có thể mù lòa và lạc lối, mà Kennedy McQuarrie là người duy nhất có tấm bản đồ. Vậy nên tôi nhìn thẳng vào mắt nữ luật sư. “Cô muốn biết những gì?” Tôi nói.