← Quay lại trang sách

Ruth

Chị Adisa bảo tôi cần phải chiêu đãi mình, thế nên chị đề nghị bao tôi một bữa trưa. Chúng tôi tới một nhà hàng nhỏ tự nướng bánh mì và chuyên phục vụ những phần ăn lớn đến mức bao giờ bạn cũng phải mang một nửa về nhà. Vì khách đang đông nên hai chị em tôi ngồi lại ở quầy.

Thời gian gần đây, tôi bắt đầu dành nhiều thời gian hơn bên chị, một chuyện vừa an ủi tôi vừa tạo cảm giác lạ lùng. Trước kia, hầu như lúc nào không ở với Edison tôi cũng bận làm việc; giờ thì lịch của tôi trống rỗng.

“Được nghỉ cũng thích thật đấy,” Adisa nói với tôi, “nhưng em có tính chuyện sau này làm sao để trả tiền ăn trưa chưa?”

Tôi nghĩ về chuyện đâm đơn kiện dân sự mà Kennedy vừa gợi ý hôm qua. Đó là ánh sáng cuối đường hầm, nhưng rất có khả năng đường hầm sẽ sụp trước khi tôi kịp ra ngoài mà thấy lại mặt trời. Đó là tiền, nhưng là một số tiền mà tôi chưa thể trông vào được - có khi là chẳng bao giờ. “Em lo chuyện làm sao để nuôi miệng ăn của con trai hơn,” tôi thú nhận.

Chị tôi nheo mắt. “Tiền để dành của em được bao nhiêu?”

Chẳng ích gì mà nói dối chị. “Khoảng ba tháng.”

“Em biết nếu gặp lúc khó khăn, em có thể nhờ chị giúp đỡ mà, phải không?”

Nghe chị nói thế, tôi không thể ngăn một nụ cười. “Thật hả chị? Mới tháng trước em còn phải cho chị vay kia mà.”

Adisa toét miệng cười. “Chị nói em có thể nhờ chị giúp đỡ. Chị không nói chị có thể giúp em.” Rồi chị nhún vai. “Hơn nữa, em biết có giải pháp mà.”

Tuần rồi, tôi đã phát hiện trình độ của mình quá cao với hầu hết những công việc hành chính không cần kinh nghiệm ở New Haven, bao gồm tất cả những vị trí thư ký và tiếp tân đang trống. Chị tôi tin rằng tôi nên khai báo thất nghiệp. Nhưng tôi nghĩ thế là không trung thực, vì khi chuyện này được giải quyết ổn thỏa, tôi dự định sẽ đi làm lại. Tìm việc làm thêm là một giải pháp thay thế, nhưng tôi có chứng chỉ y tá, và giấy phép của tôi đang bị đình chỉ. Vì vậy, tôi tránh bàn tới chuyện này.

“Chị chỉ biết là khi bạn trai của Tyana bị bắt vì tội trộm cắp và phải ra tòa, tám tháng sau người ta mới mở phiên xét xử,” Adisa nhấn mạnh. “Vậy nghĩa là em sẽ có năm tháng mắc nợ. Con nhỏ luật sư da trắng ốm nhách đó đã cho em những lời khuyên sáng suốt gì rồi?”

“Tên cô ấy là Kennedy, và bọn em quá bận nghĩ xem làm sao để em không bị vào tù nên chẳng có thời gian đâu mà bàn tới chuyện em làm gì để sống trong thời gian chờ phiên xử.”

Adisa khịt mũi. “Phải rồi, chuyện tủn mủn như vậy đời nào nảy ra trong đầu người như cô ta.”

“Chị mới gặp cô ấy có một lần,” tôi chỉ ra. “Chị không biết gì về cô ấy hết.”

“Chị biết rằng những người đi làm luật sư công thường là bọn coi đạo đức quan trọng hơn tiên bạc, không thì họ đi kiếm đối tác đồng sở hữu công ty luật ở thành phố lớn rồi. Điều đó có nghĩa hoặc là cô Kennedy có khối tài sản ủy thác cực lớn, hoặc là cô ta được một gã ‘cha nuôi’ tài trợ.”

“Cô ấy đã giúp em được bảo lãnh.”

“Không: con trai của em đã giúp em.”

Tôi ném cho Adisa một cái nhìn giận dữ rồi chuyển sự chú ý sang người phục vụ quầy đang đánh bóng ly.

Chị Adisa đảo tròn mắt. “Em không muốn nói chuyện, được thôi.” Chị nhìn lên cái TV phía trên quầy, hiện đang chiếu quảng cáo thông tin. “Cậu gì ơi,” chị gọi người phục vụ. “Chúng tôi xem cái khác được không?”

“Chị cứ tự nhiên,” cậu ta đáp rồi đưa chị tôi cái điều khiển.

Một phút sau, chị Adisa đang tập trung chuyển giữa các kênh truyền hình cáp. Chị dừng lại khi nghe giọng đọc thánh thót một câu quen thuộc từ sách Phúc âm: Chúa ơi, Chúa ơi, Chúa ơi, xin người rủ lòng thương xót! Rồi máy ghi hình chuyển sang quay cận Wallace Mercy, nhà hoạt động xã hội. Hôm nay ông đang công kích một học khu ở Texas vì họ đã cho cảnh sát bắt một cậu bé người hồi giáo sau khi cậu đem cái đồng hồ tự chế tới trường cho giáo viên khoa học xem, và người ta nhẩm tưởng nó là bom. “Ahmed,” Wallace nói, “nếu cháu đang lắng nghe, tôi có điều này muốn nói với cháu. Tôi muốn nhắn gửi tới tất cả những đứa trẻ da đen và da nâu ở ngoài kia, những cô bé cậu bé đang lo sợ có thể bị hiểu nhầm vì màu da chúng...”

Tôi khá chắc Wallace Mercy từng là một nhà thuyết giáo, nhưng tôi không nghĩ ông biết cái chuyện mà ai cũng biết, đó là không cần phải gào lên khi đã có micro của đài.

“Tôi muốn nói rằng chính tôi cũng từng bị người ta khinh rẻ vì vẻ bề ngoài. Và tôi sẽ không nói dối - thỉnh thoảng, khi nghe tiếng Ác quỷ thì thầm bên tai, tôi vẫn nghĩ bọn họ đã đúng. Thế nhưng hầu hết thời gian, tôi nghĩ, tôi đã khiến cho họ bẽ mặt. Tôi thành công thay vì những người đó. Và... các cháu cũng sẽ làm được như vậy..”

Adisa hít vào một hơi. “Ôi Chúa ơi, Ruth, đó là người em cần. Wallace Mercy.”

“Em chắc chắn một trăm phần trăm rằng Wallace Mercy là người cuối cùng em cần tới.”

“Em nói gì vậy? Người đó sống vì những chuyện như chuyện của em. Bị phân biệt đối xử trong công việc vì chủng tộc ư? Ông ta sẽ khoái nó lắm. Ông ta sẽ đảm bảo tất cả mọi người ở cái nước này biết rằng em đã bị đối xử bất công.”

Trên truyền hình, Wallace giơ nắm tay lên lắc mạnh. “Ông ta có cần phải nổi giận suốt như vậy không?”

Chị Adisa phá lên cười. “Trời ạ, cần chứ em gái. Chị cũng phẫn nộ suốt đây. Chị kiệt sức lắm, chỉ vì cả ngày phải mang màu da này,” chị nói. “ít ra ông ta cũng cho người như mình có được tiếng nói.”

“Một tiếng nói rất ồn ào.”

“Chính xác. Khốn kiếp, em gái à, em tin người quá. Em đã bơi bên cạnh lũ cá mập quá lâu nên quên mất mình là loài nhuyễn thể rồi.”

“Gì chứ?”

“Chẳng phải cá mập ăn nhuyễn thể sao?”

“Chúng ăn thịt người.”

“Chị chỉ muốn nói với em thế này thôi!” Adisa thở dài. “Bao nhiêu năm qua, bọn da trắng đã cho người da đen tự do trên mớ giấy tờ của chúng, thế nhưng sâu thẳm bên trong, chúng vẫn trông đợi ta tiếp tục vâng dạ, ngậm miệng lại và biết ơn vì những thứ ta có. Nếu dám nói trắng ra suy nghĩ của mình, chúng ta có thể mất việc, mất nhà, và chết tiệt, thậm chí mất cả mạng sống. Wallace là người nổi giận thay cho chúng ta. Nếu không nhờ ông ta, bọn da trắng sẽ không đời nào biết rằng những việc làm ngu xuẩn của chúng khiến ta tức giận, và người da đen sẽ ngày càng giận điên hơn vì họ không thể liều mà nói lại. Wallace Mercy là người giữ cho thùng thuốc nổ ở đất nước này không nổ tung lên.”

“Rồi, rồi, nghe cũng hợp lý và hay ho đấy, nhưng em đâu có bị ra tòa vì là người da đen. Em bị kiện vì có một đứa bé đã chết trong khi em trực.”

Adisa nhếch mép cười. “Ai bảo em thế? Con luật sư da trắng à? Dĩ nhiên cô ta không nghĩ đây là vấn đề chủng tộc rồi. Cô ta có bao giờ nghĩ tới chủng tộc đâu. Cô ta không phải nghĩ tới nó.”

“Được rồi, tốt thôi, khi nào có bằng luật sư, chị có thể khuyên bảo em về vụ kiện này. Từ rày cho tới lúc đó, em sẽ nghe lời cô ấy.” Tôi ngập ngừng. “Chị biết không, với một người ghét bị người khác đánh giá bằng định kiến, tự bản thân chị làm chuyện đó khá nhiều đấy.”

Chị tôi giơ hai tay lên, tỏ ý đầu hàng. “Được rồi, Ruth. Em đúng. Chị sai.”

“Em chỉ muốn nói - cho tới lúc này, Kennedy McQuarrie vẫn làm tròn công việc của cô ấy.”

“Việc của cô ta là cứu em để có thể tự cảm thấy mình tốt đẹp,” Adisa quả quyết. “Đâu phải tự nhiên mà người hùng, người ra tay tương trợ kẻ khác lại được gọi là hiệp sĩ trắng.” Chị nheo mắt nhìn tôi. “Và em biết ở đầu bên kia của phổ màu là cái gì mà.”

Tôi im lặng, không cho chị thỏa mãn. Nhưng cả hai chúng tôi đều biết câu trả lời.

Đen. Màu của kẻ xấu.

Trước giờ tôi chỉ tới thăm nhà Christina ở Manhattan một lần duy nhất, sau khi chị cưới Larry Sawyer. Vì món quà cưới tôi mới đến, và toàn bộ chuyến thăm thật là gượng gạo. Hai vợ chồng họ đã mở tiệc mừng ở Turks và Caicos, và Christina cứ nói đi nói lại là chị xin lỗi vì không thể mời tất cả bạn bè tới dự, mà phải giới hạn danh sách khách mời. Khi mở quà của tôi ra - một bộ khăn lau bát, trên đó in chữ viết tay công thức món bánh quy, bánh ngọt và bánh nướng có nhân của má tôi mà Christina yêu thích nhất - chị vỡ òa và ôm chầm lấy tôi, nói rằng đó là món quà riêng tư, chu đáo nhất chị nhận được, và chị sẽ dùng chúng mỗi ngày.

Giờ đây, hơn mười năm đã trôi qua, tôi còn chẳng biết chị có bao giờ dùng nhà bếp không, nói gì tới khăn lau bát. Mặt bàn bếp bằng granite sáng bóng, và trong một cái tô thủy tinh lóng lánh màu lam là những trái táo tươi ngon trông như vừa được đánh bóng lên. Chẳng có dấu hiệu nào cho thấy có một đứa nhỏ bốn tuổi sống gần đó hết. Tôi cảm thấy ngứa ngáy muốn mở cái lò hai ngăn hiệu Viking ra, chỉ để xem có một vụn thức ăn hay vết dầu mỡ nào không.

“Nào em,” Christina nói, phác tay về phía một chiếc ghế. “Mời em ngồi.”

Tôi làm theo, giật mình khi nghe có tiếng nhạc dìu dịu phát ra từ bức tường phía sau mình.

“Có một cái loa,” chị giải thích, bật cười trước phản ứng của tôi. “Âm tường.”

Tôi tự hỏi sẽ như thế nào khi sống trong một nơi lúc nào cũng giống như bối cảnh người ta dựng để tổ chức một buổi chụp hình chuyên nghiệp. Christina ngày trước tôi từng biết luôn để lại vết tích của sự phá hoại suốt từ phòng giải trí đến nhà bếp mỗi khi từ trường về nhà - vất đại áo khoác cùng cặp sách, đá văng đôi giày, để mỗi thứ một nơi. Lúc đó, một người phụ nữ xuất hiện, khẽ khàng đến nỗi có thể cho rằng cô cũng từ bức tường bước ra như tiếng nhạc. Cô đặt một đĩa xà lách gà xuống trước mặt tôi và một đĩa trước mặt Christina.

“Cảm ơn, Rosa,” Christina nói, và tôi nhận ra chắc hẳn chị vẫn còn vất đại áo khoác, túi xách và giày dép ra chỗ nào đó mỗi khi về nhà. Nhưng Rosa là Lou của chị. Chỉ là giờ có một người khác dọn dẹp những gì chị bày ra.

Cô giúp việc lại lặng lẽ tránh đi và Christina bắt đầu nói về một cuộc vận động gây quỹ cho bệnh viện, rằng diễn viên Bradley Cooper đã hứa tới rồi rút lại vào phút cuối cùng, lấy cớ viêm họng liên cầu khuẩn để rồi tờ Tuần báo Mỹ chụp được anh ta trong đêm đó tại một quán bar ở Chelsea, đang vui vẻ với người tình. Chị huyên thuyên về một chủ đề tôi không quan tâm nhiều đến nỗi trước khi ăn hết nửa phần xà lách, tôi đã nhận ra chị mời tôi đến vì lý do gì.

“Vậy,” tôi cắt ngang. “Chị biết chuyện từ má em à?”

Nét mặt chị chùng xuống. “Không. Từ Larry. Giờ, khi mà anh ấy đã làm hồ sơ chuẩn bị chạy đua vào Quốc hội, nhà chị mở tin tức 24 giờ một ngày.” Chị cắn môi dưới. “Chuyện có tệ không?”

Một tràng cười dâng lên trong cổ họng tôi. “Chị muốn hỏi phần nào?”

“Ừm, tất cả. Bị đuổi việc. Bị bắt.” Mắt chị mở to ra. “Em có phải vào tù không? Ở đó có giống như trong phim Orange is the New Black?”

“Khá giống, chỉ không có chuyện ‘mây mưa’ thôi.” Tôi nhìn vào chị. “Đó không phải là lỗi của em đâu, Christina. Chị phải tin em.”

Christina với tay qua mặt bàn và nắm lấy tay tôi. “Chị tin. Chị tin em mà, Ruth. Hy vọng là em biết điều đó. Chị muốn giúp em, em biết đấy. Chị đã bảo Larry thuê người từ công ty cũ của ảnh đại diện cho em.”

Người tôi đông cứng lại. Tôi cố coi như đó là nghĩa cử thể hiện tình bạn, nhưng nó tạo cho tôi cảm giác người ta phải đi giải quyết rắc rối của mình. “Em... em không thể nhận sự giúp đỡ đó...”

“Ôi, chớ có vội nghĩ chị là bà tiên đỡ đầu của em, Larry đã từ chối chị ngay lập tức rồi. Thật tình anh ấy cũng thấy ái ngại cho em như chị, nhưng với kế hoạch tranh cử sắp tới, đây quả là không phải lúc để dính vào mấy chuyện lùm xùm tai tiếng.”

Tai tiếng. Tôi nếm cái từ đó, cắn vào nó như cắn quả mọng, nghe nó vỡ ra.

“Vì vậy mà bọn chị cãi nhau một trận linh đình. Ý là, chị đã bắt anh ấy chuyển sang phòng ngủ thứ hai và đủ thứ. Đâu phải anh ấy cần mấy lá phiếu từ bọn phát xít mới hay gì. Thế nhưng chuyện không đơn giản vậy, chị đoán thế. Vấn đề quan hệ chủng tộc trong cộng đồng đang rối beng lên với vụ ông cảnh sát trưởng bị công luận chỉ trích, và Larry cần phải tránh thật xa mấy chuyện đó nếu không muốn mất cơ hội tranh cử.” Chị lắc đầu. “Chị thật sự rất tiếc.”

Hàm của tôi như cứng lại. “Đó là lý do chị rủ em tới đây sao?” Tôi hỏi. “Để nói với em rằng chị không thể làm bạn hay kết giao với em nữa?”

Tôi đã ngu ngốc nghĩ gì vậy chứ? Rằng đây chỉ là một chuyến thăm xã giao? Rằng lần đầu tiên trong một thập kỷ, Christina bỗng dưng muốn tôi ghé lại ăn trưa với chị? Hay chăng từ đầu tôi đã biết nếu có qua đây, đó là vì tôi đang thầm mong một phép màu từ phía gia đình Hallowell - mà chỉ vì quá kiêu hãnh nên không thừa nhận?

Trong một khoảnh khắc kéo dài, chúng tôi chỉ nhìn nhau. “Không,” Christina nói. “Chị cần phải tận mắt thấy em. Chị muốn biết chắc rằng em... em biết mà... vẫn ổn.”

Niềm kiêu hãnh là một con rồng quái ác, nó ngủ say dưới trái tim ta và gầm lên khi ta cần sự im lặng.

“Tốt thôi, giờ thì chị có thể đánh dấu đã hoàn thành việc này trong danh sách những việc tốt của chị,” tôi chua chát đáp. “Em ổn cả.”

“Ruth...”

Tôi giơ tay lên. “Đừng, Christina, đừng làm vậy được không? Xin chị... đừng.”

Tôi cố gắng lần lại sợi dây lịch sử giữa Christina và tôi để tìm ra mắt xích đứt gãy, cái mối nối mà từ đó, hai bé gái biết tất cả mọi thứ về nhau - biết đứa kia thích hương kem gì, thần tượng ai, khoái thành viên nào của nhóm New Kids On The Block - đã trở thành hai người phụ nữ chẳng hề hay biết người kia sống thế nào. Chúng tôi đã xa cách dần hay sự thân thiết ngày trước chỉ là trò bịp? Sự gần gũi của chúng tôi là vì tình bạn hay chẳng qua là vì khoảng cách địa lý thôi?

“Chị xin lỗi,” Christina thốt lên, giọng lí nhí.

“Em cũng vậy,” tôi thì thầm.

Đột nhiên, chị bật dậy chạy đi rồi một chốc sau quay lại, dốc hết những thứ linh tinh trong túi xách của chị ra ngoài. Kính mát, chìa khóa, son môi và hóa đơn đủ loại tung tóe khắp mặt bàn; thuốc giảm đau Advil, cả đống viên rời rạc trong đáy túi, tràn ra bàn như kẹo. Chị mở ví và lấy ra một xấp tiền dày rồi ấn nó vào tay tôi. “Cầm lấy đi,” Christina bảo. “Chỉ giữa hai chúng ta thôi.”

Khi tay chúng tôi chạm vào nhau, cảm giác như điện giật. Tôi giật nảy mình, như thể đó là một tia chớp. “Không,” tôi từ chối, lùi lại. Đây là một lằn ranh mà nếu tôi bước qua, mọi thứ giữa tôi và chị sẽ thay đổi. Có thể chúng tôi chưa bao giờ ngang hàng nhau, nhưng chí ít đến giờ tôi vẫn có thể giả vờ là thế. Nếu cầm số tiền này, tôi không thể tiếp tục lừa dối mình nữa.

“Em không thể.”

Christina vô cùng kiên quyết, chị gập những ngón tay tôi lại quanh món tiền. “Cứ nhận đi,” chị khăng khăng. Rồi chị ngước nhìn tôi như thể mọi chuyện trên thế giới này vẫn ổn, như thể chưa có gì xảy ra, như thể không có chuyện tôi vừa biến thành một đứa ăn mày quỳ bên chân chị, một chỗ để chị phát tiền từ thiện, một nguyên do. “Còn món tráng miệng nữa em,” Christina nói. “Rosa?”

Tôi vấp vào chiếc ghế của mình trong cơn gấp gáp muốn trốn chạy. “Em không đói lắm.” Tôi tránh nhìn vào chị. “Em phải đi thôi.”

Tôi chụp lấy áo khoác và ví tù giá treo đồ ở phòng giải lao và vội vã chạy ra cửa, đóng chặt nó lại sau lưng. Tôi bấm nút thang máy lia lịa, như thể làm thế nó sẽ đến được nhanh hơn ấy.

Và tôi đếm xấp tiền. 556 đô.

Chuông thang máy kêu đinh.

Tôi chạy vội tới tấm thảm chào mừng ngoài cửa nhà Christina và luồn hết xấp tiền xuống dưới đó.

Sáng nay tôi đã bảo Edison rằng chúng tôi không thể đi cái xe hơi được nữa. Giấy phép đăng ký đã hết hạn mà tôi lại chẳng thể gia hạn mới. Bán xe đi là giải pháp cuối cùng, nhưng tạm thời, trong lúc tôi cố gắng tiết kiệm để đóng tiền ga với lệ phí cho tiểu bang và liên bang, chúng tôi sẽ đi xe buýt.

Tôi bước vào thang máy và nhắm mắt lại cho đến khi xuống tới tầng trệt. Rồi tôi lao ra, cắm đầu chạy dọc rìa tây Công viên Trung tâm cho đến lúc muốn tắt hơi; đến lúc tôi biết mình sẽ không đổi ý.

Tòa nhà trên phố Humphrey trông cũng như bất cứ tòa nhà chính phủ nào khác: một cái nhà khối vuông vức, bằng xi măng, đậm chất quan liêu. Văn phòng trợ cấp xã hội chật cứng, chiếc ghế nhựa gãy nào cũng có một người đang lom khom trên một cái bìa kẹp hồ sơ. Chị Adisa đi cùng tôi đến quầy. Giờ chị đang có việc làm - lãnh đồng lương tối thiểu của một nhân viên tính tiền bán thời gian - nhưng chị đã vào ra cái văn phòng này nửa tá lần những khi thất nghiệp, và chị rất rành đường đi nước bước. “Em tôi cần đăng ký trợ cấp,” chị thông báo, như thể câu nói đó không làm tôi chết một ít trong lòng.

Cô thư ký trông trạc tuổi Edison. Cô đeo đôi bông tai dài hình bánh taco cứ lúc la lúc lắc. “Điền vào đây,” cô nói và đưa tôi một cái bìa hồ sơ có phiếu đăng ký.

Vì chẳng có chỗ đâu để ngồi, chị em tôi đành phải dựa tường. Trong lúc chị Adisa tìm bút bi trong cái túi đeo vai như cái hang của chị, tôi đưa mắt nhìn những người phụ nữ giữ thăng bằng bìa kẹp hồ sơ và đứa con trên đầu gối, những người đàn ông nồng nặc mùi bia và mồ hôi, rồi nhìn bà lão có bím tóc bạc dài đang ôm búp bê lẩm nhẩm hát một mình. Khoảng nửa căn phòng là người da trắng - những bà mẹ chùi mũi đứa con bằng khăn giấy và mấy gã đàn ông mặc áo có cổ cứ lo lắng gõ bút vào chân trong khi đọc tờ phiếu từng dòng. Chị Adisa thấy tôi nhìn họ. “Hai phần ba số tiền trợ cấp đến tay người da trắng,” chị nói. “Ngạc nhiên chưa.”

Tôi chưa bao giờ thấy biết ơn chị mình hơn.

Tôi điền vào vài câu hỏi đầu tiên: tên, địa chỉ, số người phụ thuộc.

Thu nhập, tôi đọc.

Tôi đặt bút viết vào số tiền lương một năm của tôi, rồi lại gạch nó đi. “Ghi là 0 ấy,” chị Adisa bảo.

“Em có một ít từ trợ cấp hi sinh của Wesley...”

“Viết vào 0 đi,” chị tôi quả quyết. “Chị biết nhiều người đã bị từ chối, không được nhận phiếu mua thực phẩm của Chương trình Phụ cấp Dinh dưỡng vì họ có những chiếc xe hơi quá giá trị. Em phải chơi hệ thống như cách hệ thống đã chơi em.”

Khi tôi không chịu viết, chị giật lấy tờ phiếu, điền vào chỗ trống rồi nộp lại cho thư ký.

Một giờ trôi qua mà chẳng có một ai được gọi vào từ phòng chờ cả. “Phải mất bao lâu đây?” Tôi thầm thì với chị.

“Tùy họ muốn em đợi đến bao giờ,” Adisa đáp. “Một nửa lý do khiến mấy người này không kiếm được việc là vì họ bận ngồi chờ trợ cấp, có đi xin việc được lúc nào đâu.”

Gần ba giờ trôi qua chúng tôi mới thấy một nhân viên xã hội bước ra cửa - bốn giờ sau khi chị em tôi tới. “Ruby Jefferson?” cô ta gọi.

Tôi đứng lên. “Ruth?”

Cô ta liếc nhìn tờ giấy. “Chắc vậy,” cô thừa nhận.

Adisa và tôi theo nhân viên này xuôi hành lang tới một bàn làm việc có vách ngăn và ngồi xuống. “Tôi sẽ hỏi cô một vài câu hỏi,” cô ta nói bằng giọng đều đều. “Cô vẫn đang thất nghiệp à?”

“Chuyện phức tạp lắm... tôi bị đình chỉ.”

“Thế nghĩa là sao?”

“Tôi là y tá nhưng giấy phép hành nghề của tôi đang bị treo cho đến lúc vụ kiện sắp tới được xử xong.” Tôi nói mấy chữ đó thật nhanh, như thể chúng bị đẩy ra từ sâu thẳm ruột gan tôi.

“Chuyện đó chẳng ăn nhằm gì hết,” Adisa chen vào. “Tôi sẽ tóm lại cho cô. Em tôi chả có công việc quái gì và chả có xu nào dính túi.” Tôi trừng mắt nhìn chị tôi; tôi đã hy vọng mình và nhân viên xã hội có thể tìm thấy điểm chung; rằng cô ấy có thể nhận ra tôi không phải kiểu người chuyên trông chờ vào trợ cấp chính phủ mà là người thuộc tầng lớp trung lưu bị hứng chịu bất công xã hội. Adisa, mặt khác, đã phang luôn tiếng lóng, làm hỏng hết kế hoạch của tôi.

Nhân viên xã hội đẩy kính trên sống mũi. “Quỹ đại học của con trai cô thì sao hả?”

“Toàn bộ có 529,” tôi đáp. “Chỉ có thể dùng cho giáo dục.”

“Con bé cần được chăm sóc y tế,” chị Adisa lại cắt ngang.

Nữ nhân viên xã hội nhìn tôi. “Hiện cô đóng bao nhiêu cho bảo hiểm COBRA[50]?”

“1100 một tháng,” tôi trả lời, mặt ửng đỏ. “Thế nhưng qua tháng sau là tôi không đóng được nữa rồi.”

Người phụ nữ gật đầu, không biểu lộ một chút thái độ. “Bỏ khoản đóng COBRA của cô đi. Cô đủ điều kiện nhận bảo hiểm Obamacare[51].”

“Ồ không, cô không hiểu. Tôi không muốn bỏ COBRA; tôi chỉ muốn nhận trợ cấp tạm thời,” tôi giải thích. “Đó là bảo hiểm y tế từ bệnh viện. Rồi tôi sẽ được nhận vào làm lại thôi mà...”

Chị Adisa đột ngột lên tiếng phản bác. “Rồi rủi trong thời gian đó, Edison bị gãy chân thì sao hả?”

“Chị...”

“Em nghĩ em là OJ Simpson à? Em sẽ được tha bổng và cứ thế mà đi sao? Chị có tin mới cho em đây, Ruth. Em không phải OJ. Em cóc phải là Oprah. Cũng không phải Kerry Washington. Họ được người da trắng cho qua vì quá nổi. Em chỉ là một con mọi đang lúc khốn cùng.”

Tôi dám chắc nhân viên xã hội có thể thấy hơi nóng bốc lên từ bộ tóc tôi. Ngón tay tôi siết chặt thành nắm đấm, chặt đến nỗi tôi có thể nghe móng mình bấm vào da bật máu. Tôi không chắc điều gì đã gây ra sự biến chuyển này, khiến tôi trở thành một đứa côn đồ du đãng, nhưng tôi sẽ giết chị tôi.

Quỷ tha ma bắt nó đi, dù sao tôi cũng bị buộc tội giết người rồi.

Nhân viên xã hội hết nhìn Adisa tới tôi rồi lại cúi xuống mớ hồ sơ. Cô ta hắng giọng, “Ừm,” cô ta nói, hết sức vui mừng khi được tống khứ chúng tôi, “cô đủ điều kiện nhận bảo hiểm y tế, Phụ cấp Dinh dưỡng và trợ cấp tiền mặt. Sau này cô sẽ nhận được thông báo từ chúng tôi.”

Adisa khoác tay tôi và kéo tôi đứng dậy. “Cảm ơn,” tôi lầm bầm trong lúc bị chị mình lôi đi.

“Nào, cũng không tệ lắm, phải không?” chị tôi nói khi chúng tôi đã ra ngoài tầm nghe của mọi người, đứng cạnh một chậu cây gần thang máy. Thoắt nhiên chị đã trở lại là chị bình thường.

Tôi quay ngoắt lại Adisa. “Cái quái gì ở trong đó vậy? Chị cư xử như một kẻ khốn ấy.”

“Một kẻ khốn đã kiếm được cho em số đô la em cần,” Adisa chỉ ra. “Sau này em có thể cảm ơn chị.”

Người hướng dẫn cho tôi là một cô gái tên Nahndi, và tôi đủ già để làm mẹ cô bé. “Về cơ bản thì có năm trạm,” cô bảo tôi. “Người tính tiền, người trực ống nghe, người trực ống nghe cà phê, người phát hàng và người chạy phục vụ. Ý tôi là, dĩ nhiên còn người trực bàn nữa, họ chuyên làm thức ăn...”

Tôi theo sau cô, giật giật bộ đồng phục mới, nghe cái mác áo ngưa ngứa trên cổ. Một ca làm việc của tôi kéo dài tám tiếng, thế có nghĩa là tôi được nghỉ ba mươi phút, có một bữa ăn miễn phí và mức lương tối thiểu. Sau khi đã tìm hết những vị trí văn phòng tạm thời của mấy chỗ giới thiệu việc làm, tôi xin vào McDonald’s. Tôi nói với họ mình nghỉ làm một thời gian để nuôi con. Tôi thậm chí không nhắc tới từ y tá. Tôi chỉ muốn được người ta thuê để có thể từ bỏ vài khoản trợ cấp nhận được từ văn phòng thất nghiệp. Vì sự tỉnh táo của chính mình, tôi cần phải tin mình vẫn có thể chăm sóc bản thân và con trai, dù chỉ một phần nào đó.

Khi người quản lý gọi điện thông báo tôi đã được nhận, anh ta hỏi tôi có thể vào làm ngay không, vì họ đang thiếu nhân viên. Thế là tôi để lại một ghi chú cho Edison trên bàn bếp, nhắn rằng tôi có một bất ngờ cho nó, và bắt xe buýt vào thành phố.

“Lồng rán là chỗ để chiên khoai. Có ba cỡ rổ khác nhau, tùy mức độ đông khách của chúng ta mà sử dụng,” Nahndi hướng dẫn. “Có đồng hồ tính giờ ở đấy, cô bấm nút khi thả rổ vào. Tới 2:40, cô cần phải lắc để mớ khoai không dính lại thành một cục, cô hiểu chưa?”

Tôi gật đầu, quan sát một nhân viên làm tất cả những gì Nahndi miêu tả. “Khi đồng hồ tắt, cô giơ cái rổ bên trên bể trong khoảng mười giây để dầu nhễu hết ra. Rồi đổ chúng vào trạm chiên - coi chừng, nóng đấy - và xịt muối.”

“Trừ phi khách yêu cầu không mặn,” Matt chen vào.

“Chúng ta sẽ lo tới chuyện đó sau,” Nahndi đáp. “Đổ xịt muối sẽ cho ra một lượng y hệt để tẩm mỗi mẻ khoai. Rồi cô trở bằng cái muỗng chiên và bấm đồng hồ tính giờ. Tất cả chỗ khoai đó phải bán hết trong vòng năm phút, không thì chúng sẽ bị đổ bỏ.”

Tôi gật đầu. Có quá nhiều thứ phải tiếp thu, xử lý. Là y tá, tôi phải nhớ cả ngàn việc, nhưng sau hai mươi năm hành nghề, chúng đã trở thành ký ức cơ bắp, thấm nhuần trong đôi tay, cơ thể tôi. Còn ở đây, mọi thứ đều mới mẻ.

Matt để tôi thử sử dụng trạm chiên. Tôi ngạc nhiên trước sức nặng của cái rổ khoai, khi chờ nó nhễu ráo dầu. Tay tôi trơn trợt trong đôi găng nhựa. Tôi có thể nghe hơi dầu thấm vào lưới tóc tôi. “Tốt đấy!” Nahndi nhận xét.

Tôi học cách đóng gói, học xem mỗi món ăn có thể để trong tủ giữ ấm được bao lâu trước khi bị bỏ đi, loại nước tẩy rửa dùng cho mỗi loại bề mặt nhất định, nói với người quản lý thế nào khi bạn cần thêm tiền thối, phải bấm nút cỡ vừa trước khi bấm nút phần ăn số 1, không thì ra phần ăn của khách chẳng có món khoai. Nahndi có sự kiên nhẫn của một vị thánh khi tôi quên sốt chấm hay xớ rớ lấy nhầm McDouble thay vì Double Cheeseburger (hai cái giống nhau, chỉ khác là cái sau có thêm một lát phô mai nữa). Sau một giờ, rốt cuộc cô bé cũng cảm thấy đủ tự tin để tôi đứng bếp, tập hợp thức ăn.

Tôi là người chưa bao giờ ngại việc tay chân không cần trình độ, nặng nhọc và lặp đi lặp lại. Có Chúa biết trong nghề y tá, bạn phải bao lần đứng cầm khay ói hay thay khăn trải dính sản phẩm thải của bệnh nhân. Lúc nào tôi cũng tự nhủ với mình rằng, sau một chương như thế, bệnh nhân sẽ còn cảm thấy không thoải mái hơn tôi - về thể chất, tinh thần, hoặc tất cả. Công việc của tôi là làm cho mọi thứ trở nên dễ chịu hơn với họ, một cách chuyên nghiệp nhất có thể.

Vì vậy, làm nhân viên bán thức ăn nhanh chẳng hề khiến tôi bận lòng. Tôi tới đây đâu phải vì vinh quang nghề nghiệp. Tôi làm vì đồng lương cơ mà, dù nó có còm cõi lắm thay.

Tôi hít một hơi sâu và gắp miếng bánh kẹp ba phần, đặt chúng vào chỗ trong lò nướng. Cùng lúc, tôi mở một hộp Big Mac ra. Việc này nói thì dễ hơn làm, nhất là khi tay đi găng nhựa. Phần trên cùng miếng bánh phải đặt úp mặt có hạt mè xuống trên nắp hộp; miếng giữa kê thăng bằng lên đó; nửa dưới bánh thì úp mặt dưới xuống nửa dưới hộp. Mỗi mặt xịt lên hai phát xốt Bic Mac bằng cây súng phun xốt kim loại; rắc rau diếp cắt sợi và hành tây thái nhỏ lên trên. Nửa bánh giữa có hai miếng dưa muối được xếp sao cho đúng “vị trí chiến lược” (chúng phải “hẹn hò nhau, không được phang nhau,” Nahndi nói thế). Miếng bánh dưới thêm một lát phô mai Mỹ. Rồi tôi thò vào lò giữ ấm lấy hai miếng thịt 10:1, để mỗi miếng lên mỗi nửa. Nhấc nửa giữa lên đặt trên nửa dưới, đặt miếng bánh trên lên trên cùng, rồi cái hộp được đóng lại và giao cho người phục vụ chạy đi đóng gói hay mang ra quầy.

Đó không phải là đỡ đẻ một đứa bé, nhưng tôi cũng cảm nhận được niềm vui khi công việc hoàn thành.

Sau khi làm liên tục được sáu giờ, chân tôi nhức mỏi và người hôi dầu kinh khủng. Tôi đã dọn nhà vệ sinh hai lần - trong đó có lúc một đứa nhỏ bốn tuổi nôn vãi ra sàn. Tôi mới bắt đầu làm chân chạy phục vụ trong lúc Nahndi đứng máy tính tiền thì một phụ nữ gọi một phần gà viên hai mươi miếng. Tôi đích thân kiểm tra hộp trước khi đặt nó lên khay, và đúng như được dạy, tôi gọi số đặt hàng của cô ta và chúc cô một ngày vui vẻ trước khi giao tận tay hộp gà. Cô này ngồi xuống, cách tôi ba mét và ăn ngấu nghiến đến miếng gà chiên cuối cùng. Rồi bỗng nhiên, cô ả trở lại quầy. “Cái hộp này trống rỗng,” cô ta bảo Nahndi. “Tôi trả tiền mà chẳng được gì.”

“Tôi xin lỗi,” Nahndi đáp. “Chúng tôi sẽ lấy cho cô hộp khác.”

Tôi xích lại gần cô đồng nghiệp, hạ thấp giọng xuống. “Tôi đã đích thân kiểm tra hộp đó. Tôi đã thấy cô ta ăn hết hai mươi miếng gà.”

“Tôi biết,” Nahndi thì thầm đáp lại. “Cô ta làm thế suốt mà.”

Người quản lý, một người đàn ông tái nhợt có chỏm râu dưới miệng, đột ngột tiến lại gần. “Mọi chuyện ở đây ổn cả chứ?”

“Ôn cả,” Nahndi đáp. Cô giật cái hộp gà viên mới ra khỏi tay tôi và giao cho vị khách, người này mang nó đi ra bãi đậu. Người quản lý trở lại vị trí phát hàng, giao đồ ăn trực tiếp cho khách ngồi xe.

“Cô đùa tôi đấy sao,” tôi lầm bầm.

“Nếu bấy nhiêu đã đủ làm cô khó chịu, thế thì cô sẽ chẳng đời nào qua nổi một ca trực.” Nahndi chuyển sự chú ý sang một đám con nít đang hưng phấn, lướt qua cửa trên con sóng tiếng cười. “Giờ cao điểm tan trường tới,” cô cảnh báo. “Chuẩn bị tinh thần chiến đấu đi.”

Tôi quay lại màn hình, chờ cho đơn đặt hàng tiếp theo hiện lên đó.

“Chào mừng tới McDonald’s,” Nahndi nói. “Quý khách muốn gọi món gì?”

Tôi hy vọng không phải món sữa lắc. Đó là cái máy duy nhất tôi chưa tự tin vận hành, và cô đồng nghiệp còn kể rằng tuần đầu tiên, cô ấy đã quên bỏ thẻ vào và sữa nổ tung, bắn khắp người cô và tung tóe ra sàn.

“Ừm, em muốn gọi một phần Big Mac,” tôi nghe khách chọn. “Này, cậu muốn gì?”

“Tớ để quên ví ở nhà rồi...”

Tôi quay phắt lại, vì đó là giọng nói mà tôi biết rõ. Đứng trước quầy tính tiền là bạn của Edison, Bryce, và bên cạnh đó, đang đút tay vào túi áo khoác, chính là con trai tôi.

Tôi có thể thấy vẻ kinh hoàng tuyệt đối hiện lên trong mắt Edison khi đôi mắt nó lướt qua cái lưới tóc, bộ đồng phục và cuộc đời mới của tôi. Vậy là thay vì mỉm cười với con, nói xin chào, tôi quay lưng lại trước khi Bryce cũng nhận ra tôi nốt. Trước khi tôi phải nghe Edison nặn ra thêm một lý do cho tình huống mà tôi đặt con vào.

Edison không có nhà khi tôi về tới, cởi đồng phục ra và tắm rửa để gột sạch mùi dầu. Tôi nhắn tin cho thằng bé, nhưng không thấy trả lời. Thế là tôi bắt đầu nấu bữa tối, giả tảng như chẳng có gì không ổn. Đến lúc con trai tôi về, tôi vừa đặt lên bàn một cái casserole. “Nó còn nóng đấy,” tôi bảo con, nhưng thằng bé đi thẳng về phòng ngủ. Tôi nghĩ nó vẫn còn giận vì công việc mới của mẹ nó, nhưng một lúc sau thằng bé trở ra, cầm một cái lọ thủy tinh Mason đựng đầy đồng xu cùng với một cuốn sổ séc. Nó vất cả hai thứ lên bàn. “Hai nghìn ba trăm tám mươi sáu,” Edison nói. “Và phải có hơn vài trăm nữa trong lọ.”

“Đó là tiền đại học của con,” tôi đáp lại.

“Bây giờ ta cần tới chúng rồi. Con có cả mùa xuân và mùa hè để làm việc; con có thể kiếm thêm.”

Tôi biết con mình đã tiết kiệm từng đồng kiếm được từ cửa hàng tạp hóa nơi nó làm việc từ khi mười sáu tuổi. Chúng tôi luôn ngầm hiểu rằng thằng bé sẽ góp một ít vào học phí của nó, và giữa các loại học bổng, trợ cấp liên bang và 529 kế hoạch chúng tôi đã vạch ra từ khi Edison còn nhỏ, học phí còn thiếu bao nhiêu tôi sẽ bù vào. Ý nghĩ phải lấy đi số tiền dành riêng cho con học đại học khiến tôi muốn bệnh. “Edison, không.”

Nét mặt nó vỡ vụn. “Mẹ, con không thể. Con không thể để mẹ làm việc ở McDonald’s trong khi con có tiền cho mẹ con mình. Mẹ có biết chuyện đó làm con cảm thấy thế nào không?”

“Thứ nhất, đó không phải tiền, đó là tương lai con. Thứ hai, chẳng có gì phải xấu hổ khi ta làm một công việc lương thiện. Dù chỉ là đứng canh khoai rán.” Tôi siết lấy tay thằng bé. “Mẹ chỉ ở đó một thời gian ngắn thôi, cho tới khi mọi chuyện sáng tỏ và mẹ có thể quay về bệnh viện.”

“Nếu bỏ điền kinh, con có thể tăng ca ở cửa hàng Stop and Shop.”

“Con sẽ không bỏ điền kinh.”

“Con không quan tâm tới một môn thể thao ngớ ngẩn.”

“Và mẹ không quan tâm gì hết ngoài con,” tôi bảo con trai rồi ngồi xuống đối diện với nó. “Con yêu, cứ để mẹ làm việc của mẹ. Xin con đấy.” Tôi nghe mắt mình ậng nước. “Nếu một tháng trước, con hỏi mẹ Ruth Jefferson là ai, mẹ sẽ trả lời cô ấy là một y tá giỏi, một người mẹ tốt. Nhưng giờ có người bảo mẹ không phải là y tá giỏi. Và nếu mẹ không thể làm được cả chuyện đặt món casserole lên bàn và cho con áo mặc, thế thì tư cách người mẹ của mẹ còn gì? Nếu con không để mẹ làm chuyện này... nếu con không để mẹ chăm sóc con... thì mẹ không biết mẹ là ai nữa.”

Thằng bé khoanh tay thật chặt trước ngực, nhìn sang hướng khác. “Mọi người đều biết hết. Con nghe họ xì xầm rồi im bặt khi con tới gần.”

“Các bạn học của con ư?”

“Cả giáo viên nữa,” thằng bé thừa nhận.

Tôi nghe cơn giận bốc lên. “Thật không thể chấp nhận được.”

“Không, không phải vậy mẹ ơi. Họ không có làm gì quá, mẹ biết mà? Như cho con thêm thời gian làm bài kiểm tra và nói rằng họ biết chuyện ở nhà đang vất vả... và mỗi lần có một giáo viên như thế - quá tử tế, quá cảm thông - con lại muốn đấm cái gì đó, bởi vì vậy còn tệ hơn khi người ta giả vờ không biết ta nghỉ học vì mẹ ta bị bắt vào tù.” Mặt thằng bé cau lại. “Bài kiểm tra con làm không đạt đó? Chẳng phải vì con không hiểu bài đâu. Mà là vì con cúp học, sau khi thầy Herman chặn con lại hỏi thầy có thể giúp gì.”

“Ôi, Edison...”

“Con không cần sự giúp đỡ của họ,” thằng bé bùng nổ. “Con không muốn là người cần họ giúp. Con muốn mình cũng giống như tất cả mọi người, mẹ biết đấy, không phải là một trường hợp đặc biệt. Và rồi con giận mình kinh khủng vì cứ than phiền như thể con là người duy nhất gặp khó khăn trong khi mẹ có thể... khi mẹ...” Con tôi ngừng lại, chà xát lòng bàn tay lên đầu gối.

“Đừng nói ra,” tôi bảo và ôm con vào lòng. “Cũng đừng nghĩ tới.” Tôi lui lại và dùng tay ấp lấy gương mặt đẹp đẽ của con. “Chúng ta không cần sự giúp đỡ của họ. Chúng ta sẽ vượt qua đận này. Con tin mẹ, phải không?”

Thằng bé nhìn tôi, thật sự nhìn tôi, như người hành hương dõi mắt lên bầu trời đêm tìm ý nghĩa. “Con không biết nữa, mẹ à.”

“Hừm, mẹ thì có,” tôi quả quyết. “Nào, ăn hết đĩa của con đi. Bởi vì mẹ sẽ không tới McDonald’s đâu nếu nó nguội.”

Edison cầm nĩa lên, biết ơn vì có cái để tạm quên đề tài đó. Và tôi cố không nghĩ về việc lần đầu tiên trong đời, mình đã nói dối con trai.

Một tuần sau, trong lúc tôi chạy quanh, cố tìm cái lưỡi trai đồng phục thì chuông cửa reo inh ỏi. Đứng trên hiên nhà tôi, trước sự sửng sốt của tôi, là Wallace Mercy - bộ tóc bạc khô cứng dựng lên, bộ vest ba mảnh, đồng hồ bỏ túi, và đủ thứ. “Ôi, Chúa tôi,” tôi thốt lên. Ba chữ như một làn hơi thở, khô đi trên sa mạc sự ngỡ ngàng của tôi.

“Em gái tôi,” ông gọi vang. “Tôi là Wallace Mercy.”

Tôi bật cười. Tôi thật sự bật cười. Bởi vì, thiệt chứ, có ai mà không biết ông đâu?

Tôi nhìn quanh để xem liệu ông có được theo chân bởi một đám tùy tùng và máy ảnh không. Nhưng dấu hiệu duy nhất từ sự nổi tiếng của ông là chiếc xe màu đen láng cóng đậu bên lề với đèn đang chớp và một tài xế sau tay lái. “Cô có thể dành chút thời gian cho tôi không?”

Cái lần sự nổi tiếng lướt qua gần tôi nhất là khi cô vợ mang thai của một người dẫn chương trình đàm thoại đêm khuya bị tai nạn giao thông gần bệnh viện và được đưa đến khoa để theo dõi hai mươi bốn giờ. Mặc dù bệnh nhân ổn cả, vai trò của tôi đã từ nhân viên chăm sóc sức khỏe chuyển thành người quản lý truyền thông, ngăn cản đám phóng viên đe dọa sẽ tràn vào khu điều trị. Từ đó đến giờ, đây là lần duy nhất tôi gặp người nổi tiếng, và hay sao là chuyện đó lại diễn ra lúc tôi đang mặc một bộ đồng phục polyester. “Dĩ nhiên.” Tôi mời ông vào nhà, thầm cảm ơn chúa vì đã dọn gọn chỗ ngủ, xếp cái giường vào để nó trở lại thành cái ghế. “Tôi lấy cái gì cho cha uống nhé?”

“Có cà phê thì tuyệt quá,” ông đáp.

Khi bật máy pha cà phê, tôi nghĩ rằng nếu Adisa có ở đây thì chị sẽ lăn đùng ra mất. Có lỗ mãng quá không nếu tôi chụp hình tự sướng với Wallace Mercy rồi gửi ảnh cho chị? “Cô có một căn nhà dễ thương lắm,” ông nhận xét rồi nhìn những bức hình trên lò sưởi. “Con trai của cô đấy à? Tôi nghe nói thằng bé là một chàng trai xuất chúng.”

Nghe từ ai cơ? Tôi nghĩ trong đầu. “Cha uống chung với sữa chứ? Hay đường?”

“Cả hai,” Wallace Mercy trả lời. Ông đón lấy chiếc cốc và phác tay chỉ cái ghế bành. “Tôi có thể ngồi không?” Tôi gật đầu, và ông ra hiệu để tôi ngồi lên chiếc ghế bên cạnh. “Cô Jefferson, cô có biết vì sao tôi tới đây không?”

“Thật tình thì tôi còn chưa tin nổi là cha đang ở đây, nói gì đến chuyện biết vì sao cha tới.”

Ông mỉm cười. Ông có hàm răng trắng nhất tôi từng thấy, tương phản rõ rệt với nước da sẫm của ông. Tôi nhận ra rằng khi nhìn gần, ông trẻ hơn tôi tưởng. “Tôi đến để nói với cô rằng, cô không đơn độc.”

Bối rối, tôi nghiêng đầu. “Cha thật tử tế, nhưng tôi đã có mục sư rồi...”

“Ấy, cộng đồng của cô đâu phải chỉ có nhà thờ, nó lớn mạnh hơn thế rất nhiều. Em tôi, đây không phải lần đầu tiên người của chúng ta trở thành mục tiêu tấn công cho kẻ khác. Có thể chúng ta chưa có quyền lực, nhưng chúng ta vẫn có nhau mà.”

Miệng tôi há hốc khi tôi bắt đầu khớp được những mảnh ghép với nhau. Đúng như chị Adisa nói: vụ kiện của tôi chỉ là một thùng táo nữa để người đàn ông này đứng lên, để ông được chú ý. “Cha thật tốt bụng khi tới đây, nhưng tôi không nghĩ chuyện của mình có gì đặc biệt thú vị với cha đâu.”

“Trái lại. Tôi có thể mạo muội hỏi cô một câu không? Khi cô bị phân biệt đối xử và không được phép chăm sóc một đứa bé da trắng, có đồng nghiệp nào đứng ra bảo vệ cô không?”

Tôi nghĩ về Corinne, tỏ ra khó chịu khi tôi than phiền về chỉ thị bất công của Marie và bênh vực Carla Luongo. “Bạn tôi biết tôi buồn bực.”

“Cô ấy có đứng ra bênh vực cô không? Cô ấy có mạo hiểm mất việc vì cô?”

“Tôi không yêu cầu cô ấy làm việc đó,” tôi đáp, bắt đầu thấy khó chịu.

“Màu da của đồng nghiệp cô là gì?” Wallace hỏi thẳng.

“Việc tôi là người da đen chưa bao giờ là vấn đề trong mối quan hệ giữa tôi và đồng nghiệp.”

“Không phải là vấn đề cho đến khi họ cần một con chốt thí. Điều tôi muốn nói là, Ruth - tôi có thể gọi cô như vậy không? - chúng tôi đứng về phía cô. Những người anh chị em da đen của cô sẽ đứng ra bênh vực cô. Họ sẽ mạo hiểm mất việc vì cô. Họ sẽ vùng lên ủng hộ cô và họ sẽ khởi lên tiếng gầm mà thế giới không thể tảng lờ.”

Tôi đứng dậy. “Cảm ơn vì đã... quan tâm tới vụ kiện của tôi. Thế nhưng đây là chuyện tôi phải thảo luận với luật sư của mình, và dẫu sao chăng nữa...”

“Màu da của luật sư cô là gì?” Wallace cắt ngang.

“Màu da thì có can hệ gì hả?” Tôi vặc lại. “Làm sao cha có thể trông đợi người da trắng đối đãi mình tử tế trong khi bản thân cứ chăm chăm bắt lỗi họ?”

Wallace mỉm cười, như thể trước đây ông đã từng nghe câu đó. “Cô biết chuyện của Trayvon Martin[52] mà phải không?”

Dĩ nhiên là tôi biết. Cái chết của cậu bé đã tác động mạnh tới tôi. Không chỉ vì Trayvon cũng vào tầm tuổi Edison mà còn vì, giống như con trai tôi, cậu bé là một học sinh danh dự chẳng hề làm gì sai, ngoại trừ mang màu da sẫm.

“Cô có biết trong phiên tòa đó, thẩm phán - một người da trắng - đã cấm sử dụng từ nghi ngờ chủng tộc trong phòng xử án không?” Wallace nói. “Người phụ nữ đó muốn đảm bảo rằng bồi thẩm đoàn biết vụ kiện không phải về chủng tộc, mà về hành động giết người.”

Lời ông nói xuyên vào tôi, như những mũi tên. Chúng gần như giống hệt lời Kennedy đã bảo tôi về vụ kiện, từng chữ một.

“Trayvon là một đứa con ngoan ngoãn, một cậu bé thông minh. Cô là một y tá được kính trọng. Lý do mà thẩm phán không muốn nhắc tới vấn đề chủng tộc - cũng cùng lý do luật sư của cô né tránh nó như tránh một thứ dịch bệnh - là vì lẽ ra những người da đen như cô và Trayvon phải là ngoại lệ. Hai người chính là định nghĩa khi chuyện xấu xảy đến với người tốt. Bởi vì đó là cách duy nhất những kẻ gác cổng da trắng có thể bào chữa cho hành vi của mình.” Ông nghiêng người về phía trước, chiếc cốc siết chặt trong tay. “Thế nhưng nếu như đó không phải là sự thật thì sao? Nếu như cô và Trayvon không phải ngoại lệ... mà là quy tắc? Nếu như sự bất công chính là chuẩn mực?”

“Tất cả những gì tôi muốn là làm công việc của mình, sống cuộc đời mình, nuôi nấng con trai tôi. Tôi không cần sự giúp đỡ của cha.”

“Có thể cô không cần tôi giúp đỡ,” ông đáp, “nhưng có rất nhiều người ngoài kia muốn giúp đỡ cô. Tôi có nhắc tới vụ kiện của cô, chỉ thoáng qua thôi, trên chương trình của mình tuần trước.” Ông đổi tư thế, thò tay vào trong túi áo trước ngực và rút ra một chiếc phong bì làm từ sợi chuối. Rồi ông đứng dậy và đưa nó cho tôi. “Chúc cô may mắn, em tôi. Tôi sẽ cầu nguyện cho cô.”

Ngay khi cánh cửa khép lại sau lưng ông, tôi mở dấu niêm phong và trút những thứ bên trong ra ngoài. Bao nhiêu là giấy bạc: mười đô, hai mươi, năm mươi. Lại còn séc nữa, được viết cho tôi, từ những con người hoàn toàn xa lạ. Tôi đọc địa chỉ trên đó: Tulsa, phải rồi. Chicago. South Bend. Olympia, Washington. Cuối xấp tiền và séc là danh thiếp của Wallace Mercy.

Tôi xếp gọn tất cả và nhét chúng vào lại bao thư, đút vào một cái lọ trống không để trên kệ trong phòng khách, và rồi tôi thấy nó: cái lưỡi trai thất lạc của tôi, nằm hờ hững trên hộp cáp.

Cảm giác như một bước ngoặc.

Tôi đội cái lưỡi trai lên đầu, chụp lấy ví và áo khoác, rồi ra cửa tới với ca làm việc của mình.

Tôi giữ tấm hình chụp chung với Wesley mà tôi yêu thích nhất trên lò sưởi. Đó là vào đám cưới chúng tôi, và anh họ của anh đã chụp nó khi chúng tôi không hay biết. Trong bức ảnh, vợ chồng tôi đang đứng trong tiền sảnh một khách sạn trang nhã nơi chúng tôi để bàn tiếp khách - việc thuê khách sạn này là món quà cưới Sam Hallowell dành tặng tôi. Tay tôi choàng qua cổ Wesley và đầu tôi hơi nghiêng qua một bên. Anh cúi sát tôi, mắt nhắm, đang thì thầm với tôi điều gì đó.

Từ bấy đến nay, tôi đã cố, rất cố, để nhớ lại điều người chồng điển trai, lộng lẫy trong bộ tuxedo đã nói. Tôi thích nghĩ anh đã thầm thì vào tai tôi như sau, Anh chưa từng trông thấy điều gì đẹp đẽ như em, hoặc Anh không thể chờ đến lúc được bắt đầu chung sống bên em. Thế nhưng mấy lời lẽ kiểu đó chỉ có trong tiểu thuyết và phim ảnh, còn trên thực tế, tôi khá chắc khi ấy vợ chồng tôi đang tính kế trốn khỏi căn phòng đầy khách khứa để tôi có thể đi tè.

Lý do tôi biết thế là vì mặc dù không nhớ nổi Wesley và tôi đã nói gì với nhau trong lúc người anh họ bấm máy ảnh, tôi vẫn nhớ cuộc trò chuyện giữa vợ chồng tôi sau đó. Có một hàng người đứng trước phòng vệ sinh nữ cách xa tiền sảnh chính, và Wesley đã ga lăng xung phong đứng canh ngoài phòng nam để chặn người khác trong lúc tôi vào. Đã đời tôi mới vén được cái váy cưới gọn lên mà giải quyết, và đến khi tôi ra khỏi đó thì đã mười phút trôi qua. Wesley vẫn đứng ngoài cửa, chàng lính gác của tôi, nhưng giờ trong tay anh có một cái phiếu gửi xe.

“Cái gì vậy?” Tôi hỏi. Lúc đó vợ chồng tôi chưa có xe hơi; chúng tôi đã bắt phương tiện công cộng đến dự đám cưới của chính mình.

Wesley lắc đầu, cười khẽ. “Tự nhiên có tay kia đi lại chỗ anh và sai anh đi lấy chiếc Mercedes cho hắn.”

Thế là vợ chồng tôi phá lên cười nắc nẻ và đưa cái vé xe cho bàn tiếp tân. Chúng tôi cười, vì chúng tôi đang yêu. Bởi vì cuộc sống đầy ắp những điều tốt đẹp, và có quan trọng gì đâu khi một lão già da trắng thấy một chàng trai trẻ da đen đứng giữa khách sạn sang trọng và, như một lẽ đương nhiên, cho rằng cậu này là người phục vụ.

Sau một tháng làm việc ở McDonald’s, tôi bắt đầu nhìn ra cái nghịch lý giữa ngành dịch vụ và quy trình làm đồ ăn sạch. Mặc dù tất cả đơn hàng phải chuẩn bị xong trong ít hơn năm mươi giây, hầu hết các món trong thực đơn đều cần nhiều thời gian hơn để nấu. Gà viên và thanh cá phi lê chiên mất bốn phút. Gà chọn lọc (một món riêng của McDonald’s) cần sáu phút, và nằm lâu nhất trong lồng rán là ức gà giòn. Thịt 10:1 mất 39 giây để nấu; thịt 4:1 cần 79 giây. Gà nướng thật ra được hấp trong khi nấu. Bánh táo phải mười hai phút bỏ lò, còn bánh quy thì hai phút là xong. Bất chấp tất cả những điều đó, đám nhân viên chúng tôi phải làm sao để khách hàng bước ra cửa trong vòng chín mươi giây - năm mươi để lên đồ ăn và bốn mươi để có sự tương tác ý nghĩa.

Người quản lý thích tôi lắm, vì khác với hầu hết nhân viên, tôi không phải sắp xếp lịch trực sao cho không trùng lịch học. Sau hàng thập kỷ làm ca đêm, tôi không ngại đến vào 3:45 sáng để bật lò nướng, vốn cần chút thời gian để nóng lên trước khi chúng tôi mở cửa vào lúc 5 giờ. Vì sự linh hoạt của mình, tôi thường được giao cho vị trí mà tôi yêu thích nhất - tính tiền. Tôi thích tiếp chuyện khách hàng. Tôi coi việc làm cho họ mỉm cười trước khi quay lưng rời tiệm là một thử thách cá nhân. Và sau khi bị mấy bà bầu trong cơn quằn quại phút chuyển dạ ném đồ, bị nhiếc móc vì nhầm mayo thay cho mù tạt với tôi thật chẳng ăn thua.

Khách hàng thường xuyên của chúng tôi hầu hết đến vào buổi sáng. Có Marge và Walt, hai người chơi đồ thể thao đôi vàng chóe, đi bộ ba dặm từ nhà và gọi phần nước cam và bánh kếp giống nhau. Có Allegria, cụ bà 93 tuổi tuần nào cũng một lần đến trong chiếc áo khoác lông, bất kể trời bên ngoài ấm áp cỡ nào, và luôn ăn một cái bánh mì kẹp trứng, không thịt, không phô mai, không bánh nướng xốp. Lại còn Consuela nữa, luôn xách đi bốn cà phê đá lớn cho cả đám con gái ở salon.

Sáng nay, một trong những người vô gia cư sống rải rác trên đường phố New Haven lững thững bước vào. Thỉnh thoảng người quản lý cho họ thức ăn, khi chúng sắp bị vứt đi - như món khoai chiên chưa bán được sau năm phút. Thỉnh thoảng họ tới để sưởi ấm. Có lần, một ông đã tè vào bồn rửa mặt trong nhà tắm của chúng tôi. Hôm nay, người đàn ông bước vào có mớ tóc dài, rối bù và chòm râu dài tới bụng. Chiếc áo thun lem luốc của ông có chữ NAMASTAY IN BED và móng tay ông đất dính đầy.

“Xin chào,” tôi cất tiếng. “Chào mừng tới McDonald’s. Quý khách muốn gọi món gì?”

Ông nhìn tôi chăm chăm, cặp mắt ướt có màu lam sáng. “Tôi muốn một bài ca.”

“Xin thứ lỗi, gì cơ ạ?”

“Một bài ca ấy.” Giọng ông cao lên. “Tôi muốn một bài ca!”

Người quản lý đang trực, một phụ nữ nhỏ nhắn tên Patsy, thẳng tiến lại quầy. “Thưa ông,” cô nói, “ông cần phải tránh chỗ.”

“Tôi muốn một bài ca chết tiệt!”

Thế là mặt Patsy đỏ bừng. “Tôi sẽ gọi cảnh sát.”

“Khoan, chờ đã.” Tôi nhìn vào mắt ông ta và bắt đầu khẽ ngâm nga nhạc Bob Marley. Hồi trước đêm nào tôi cũng hát “Ba chú chim non” để ru Edison ngủ; chắc hẳn đến ngày nhắm mắt tôi vẫn không quên lời.

Ông già thôi gào thét và lê bước ra cửa. Tôi dán một nụ cười lên mặt để chào đón khách hàng tiếp theo. “Chào mừng tới McDonald’s,” tôi nói, và thấy mình đang nhìn vào Kennedy McQuarrie.

Nữ luật sư đang mặc một bộ vét và váy màu than không vừa người lắm, tay cô giữ chặt một bé gái có những lọn tóc vàng dâu xổ tung lên từ da đầu thành một mớ lộn xộn điên rồ. “Con muốn ăn bánh kếp với bánh kẹp trứng,” cô bé líu ríu.

“Thôi nào con, con đâu có được chọn vậy,” Kennedy nghiêm nghị nói, và rồi cô nhận ra tôi. “Ồ. Oa. Ruth. Thì ra cô... làm việc ở đây.”

Mấy lời của cô lột trần tôi. Cô ấy trông đợi tôi làm gì trong khi chờ cô thu thập bằng chứng cho vụ kiện chứ? Tiêu dần vào khoản tiến tiết kiệm không bao giờ cạn của tôi à?

“Đây là con gái tôi, Violet,” Kennedy giới thiệu. “Hôm nay coi như là tôi chiều con một bữa. Chúng tôi, ừm, không thường tới McDonald’s.”

“Có mà mẹ,” Violet ứng lên và má Kennedy ửng đỏ.

Tôi nhận ra cô không muốn tôi nghĩ cô là kiểu người mẹ hay cho con điểm tâm bằng thức ăn nhanh, cũng như tôi không muốn cô nghĩ tôi sẽ làm công việc này nếu còn lựa chọn. Tôi nhận ra cả hai chúng tôi đều tuyệt vọng muốn là ai khác không phải mình.

Phát hiện đó giúp tôi can đảm lên một chút.

“Nếu cô là cháu,” tôi thì thầm với Violet, “cô sẽ chọn bánh kếp.”

Cô bé vỗ tay và tủm tỉm cười. “Vậy cháu muốn bánh kếp.”

“Còn gì nữa không?”

“Một cà phê nhỏ cho tôi,” Kennedy trả lời. “Tôi có sữa chua ở văn phòng.”

“Ưm... hừm.” Tôi ấn lên màn hình. “Tổng cộng là 5 đô 7 cent.”

Kennedy mở khóa chiếc ví và đếm vài tờ bạc.

&ldq