KHAY TRẦU, ỐNG NHỔ
Ngoại tôi có một cái khay trầu rất đẹp! Nó vừa có công dụng đựng trầu vừa mang tính cách trang trí bởi được nằm ở trên cái bàn, của bộ sa long đặt ngay chính giữa phòng khách.
Cái khay trầu ấy giống một cái hộp hình vuông. Có điều thiếu cái nắp đậy và có thêm bốn cái chân phía dưới. Cũng giống như cái tủ thờ, nó màu đen và được cẩn xa cừ bốn mặt, bên trong những lá trầu được xếp gọn gàng đặt cạnh cái hủ vôi bằng sứ trắng, với cái chìa bằng bạc có cái cán rất đẹp. Cái ống ngoáy được mạ vàng bóng lộn. Hồi đó mấy đứa cháu nhỏ tụi tôi cứ tưởng nó làm bằng vàng thật. Một cái chén bằng sứ màu trắng được ngoại dùng ngâm cau khô, dùng lâu ngày nên bên trong đã ngả màu nâu. Thuốc xỉa được đặt trong cái túi bằng vải bông do dì Bảy may cho ngoại, trên miệng có sợi dây rút lại.
Những người bạn của ngoại ai cũng ăn trầu. Tôi còn nhớ bà Năm, còn gọi là bà "Năm trầu", hay đến chơi với ngoại. Bên miệng bà lúc nào cũng độn một cục thuốc xĩa rất to làm một bên má phồng lên. Không riêng gì hai hàm răng mà cả hai ngón tay, ngón cái và ngón trỏ của bà đều bị nước “cổ trầu” đóng dính khắn. Bởi bà cứ liên tục cầm cục thuốc xỉa mà lau qua, lau lại bộ răng còn gần đủ. Mỗi lần bà đến là ngoại sai tôi bưng cái khay trầu ra mời bà, rồi bưng tiếp cái ống nhổ để bà nhả cái miếng trầu đang nhai trong miệng ra, mà têm miếng khác. Tôi thường nán lại đứng nhìn bà Năm têm trầu. Động tác của bà rất nhanh và gọn. Bà lựa hai lá trầu, một lớn, một nhỏ, lá lớn bên ngoài, nhỏ bên trong. Bà ngắt đuôi cả hai lá trầu, quét vôi lên lá nhỏ rồi đặt miếng cau vào trong và cuốn lại. Tôi còn nhớ bà hay nói với ngoại:
-Tui ưa vôi màu đỏ hơn, ăn nó đậm vị lắm!
Và ngoại tôi đều trả lời:
-Ăn vôi trắng cái màu nó đẹp hơn.
Tôi thường giữ nhiêm vụ chẻ cau, vì rất thích ăn cái mầm trắng đục giống y như hột gạo trong trái cau, nó có vị ngọt ngọt.
Ăn trầu, gọi là ăn chớ chỉ nhai rồi nhổ nước ra, bỏ xác. Bởi vậy ai ăn trầu cũng phải có cái ống nhổ để sát một bên. Cho nên cái ống nhổ và cái khay trầu, như một đôi uyên ương không thể chia lìa. Cái ống nhổ của ngoại bằng sứ, giống như cái bô nhưng cái miệng gọn hơn. Bên ngoài màu xanh lá cây nhạt có vẽ mấy cành trúc màu đậm hơn, bên trong màu trắng. Hồi đó mỗi ngày dì Bảy đều đem cái ống nhổ đi đổ rồi lấy rơm hay xơ dừa cọ rửa thật sạch bên trong cho ngoại. Khi dì Bảy đi lấy chồng, mấy đứa con ông cậu giữ nhiệm vụ nầy. Tụi nó hơi làm biếng nên mỗi lần về thăm, tôi thường lau cái khay trầu cho bóng và rửa cái ống nhổ của ngoại cho thật sạch để làm ngoại vui.
Ngoại ghiền trầu nhưng lại cấm má tôi và dì Bảy. Ngoại hay vừa têm trầu vừa nói:
- Hay hớm gì cái chuyện ăn trầu mà bắt chước, để tiền ăn bánh còn ngon hơn.
Rồi vừa cho miếng trầu vô miệng ngoại vừa dẫn một câu:
-"Nhịn thuốc mua trâu, nhịn trầu sắm ruộng ", ăn cái nầy có bổ khỏe gì đâu?
Tôi hỏi ngoại:
-Vậy sao ngoại còn ăn tới bây giờ vậy ngoại?
Ngoại chép miệng:
-Lỡ ghiền rồi, làm sao mà bỏ!
Bởi ghiền nên ngoại trồng sẵn cả chục nọc trầu để ăn, có lần ngoại sai tôi ra hái, ngoại dặn:
-Con nhớ bỏ ba lá non bứt lá già nghe.
Tôi nghe ba chớp ba xáng thành "bỏ ba lá già bứt lá non" làm lần đó bị rầy quá mạng!
Một lần về thăm quê, đi ngang qua chỗ hàng cau ngày xưa bây giờ đã trồng thứ khác. Mấy nọc trầu chắc còn bị thế chỗ trước hơn nữa! Tôi nghe bùi ngùi hết sức! Nhớ những lá trầu hình trái tim ửng vàng trong nắng. Nhớ mấy buồng cau trĩu trái trên cành, và cái dáng anh Lơ leo thoăn thoắt...
Trên bàn thờ ngoại, cái khay trầu nằm lạc lỏng bên trong chỉ còn cái ống ngoáy, bình vôi và cái chén ngâm cau, tất cả đều bám bụi. Tôi nhớ ngoại đến trào nước mắt, bỗng buột miệng hỏi nhỏ em:
-Cái ống nhổ đâu rồi?
Nó ngạc nhiên trước cái câu hỏi chắc nghe vô duyên đối với nó nên trả lời cụt ngủn:
-Ai mà biết!