NỒI CHÁO ĐẬU CỦA MÁ
Má ôm mộng nuôi mấy đứa con ăn học đến thành tài, nên không chịu ở lại quê với ngoại mà dời qua Châu Đốc.
Má thuê lại căn nhà rất lớn của dì Sáu Nê [chồng dì làm trưởng ty bưu điện đổi về Long Xuyên nên căn nhà bỏ trống], rồi bắt đầu nấu cơm tháng và cho học trò ở trọ.
Má có tài nấu ăn, món nào má làm cũng ngon nhất là cái món cá linh kho rục, nên có người gợi ý má nên nấu món cháo đậu đỏ cá linh kho để bán.
Ban đầu má nấu cháo trong cái nồi vừa vừa, bưng ra đầu cầu sắt [ đó là nơi mọi người trong xóm ghé mua đồ ăn sáng ]để bán thử. Rồi cái nồi cứ to dần lên đến đổi má bưng không nổi phải nhờ cậu Út gánh giùm.
Dưới chân hàng rào quanh nhà má trồng thêm mấy bụi lá dứa để bỏ vô nồi cháo cho thơm. Cho đến bây giờ, vào những đêm mất ngủ, cái mùi lá dứa hòa với mùi đậu đỏ nước dừa( mà ngày xưa, hay đánh thức tôi vào mỗi sáng) lại tràn ngập cả lòng tôi.
Cháo bán vừa hết là má ba chân bốn cẳng chạy ra chợ liền để kịp mua cá. Những ngày bán đắc, má đi chợ sớm, mua được cá tươi, mấy con cá linh má trút trong cái giỏ mây ra còn nhảy soi sói. Má vừa làm vừa hối tụi tôi:
-Làm lẹ lên mấy đứa, hông thôi nó ương là kho không ngon.
Hôm nào bán chậm, má giao gánh cháo cho chị hai coi rồi không chải đầu mà trùm khăn đi chợ. Những hôm ấy má phải ngâm cá đã làm vào thau nước muối, cho nó hút hết chất mật ngấm trong bụng cá ra, để khi kho cá vẫn thơm và ăn không bị đắng.
Gặp những ngày mưa dầm, bán ế, cháo còn dư hơn nửa nồi bốn mẹ con phải ăn cháo cả ngày, chỉ có mấy anh học trò ở trọ mới được ăn cơm.
Mỗi đêm má chỉ được ngủ chừng bốn, năm tiếng đồng hồ mà thôi! Hai giờ sáng đã chui ra khỏi mùng để lo nấu cháo.
Má vo gạo, cho đậu đỏ đã ngâm sẵn và lá dứa vào nấu chung một lượt. Chờ cháo sôi bùng lên, má bớt lửa rồi vừa ngồi canh vừa lấy dừa ra nạo. Má vắt dừa để lấy nước cốt và nước dão. Nước cốt đầu tiên để dành chan lên mặt cháo trước khi ăn. Nước dão má chắt vô nồi cháo liền, bấy giờ nồi cháo bỗng thơm ngào ngạt.
Nồi cá kho, cái món quan trọng nhất, đã được má làm sẵn từ chiều hôm trước. Má chuẩn bị cho nó hết sức là chu đáo. Không chỉ ở cá thôi mà cái nồi cũng được o bế kỹ càng, bởi nó ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng, mùi vị của miếng cá kho… Má lựa cái nồi to vừa đủ để kho, đặc biệt cái nắp nồi phải đậy thật khít. Cá ngâm nước muối xong được rửa đi, rửa lại đến mấy lần, cho tới khi nào nước thật trong mới thôi. Má vớt cá ra cái rổ thưa, xóc cho thật ráo nước. Trút ra thau rồi ướp đầu cọng hành lá đâm nhuyễn, nước màu, nước mắm, đường và muối vào chung. Má lót những lát mía mỏng dưới đáy nồi rồi lấy đũa gắp từng con cá xếp vào từng lớp, từng lớp… Xếp xong má chế nước dừa tươi vào đến ngập mặt cá chừng một lóng tay rồi đem kho.
Đầu tiên má cho lửa lớn để cá sôi bùng lên vài dạo mới bớt lửa và hớt bọt. Khi nước kho đã trong, không còn một tí bọt nào nữa má liền rút bớt củi ra, đậy nắp lại, lấy tấm thớt đè lên cho hơi nước không thoát ra ngoài, rồi kho bằng lửa riu riu. Khoảng vài giờ sau, má mở nấp, gắp hết cá ra rồi xếp cá vào lại theo vị trí đảo ngược. Những con cá nằm trên mặt lúc nảy, bây giờ phải chui sát đáy nồi. Nắp vung được đậy lại, dằn thớt lên và kho riu riu tiếp tục cho đến khi nào nước vừa cạn và xương cá mềm như thịt là xong. Điều đòi hỏi bức thiết nhất là phải canh làm sao để lửa nóng vừa phải và nước kho vừa đủ ngấm vào mình cá, không thiếu, không dư. Nếu dư thịt cá sẽ bị nhão, nếu thiếu cá sẽ bị khô và xương chưa được rục.
Gánh cháo mà má bỏ hết công sức đã không phụ lòng của má. Mùi vị của nó lan ra tạo nên danh tiếng “ cháo đậu cá linh kho dì Năm” cho má. Mỗi buổi sáng, cả hàng người ngồi trên những cái ghế nhỏ và thấp như những chiếc guốc, chen chúc nhau xung quanh gánh hàng để ăn cháo của má. Mấy bà mẹ trẻ một tay bồng con, một tay cầm chén đứng chờ mua về đút cho con. Mấy cụ ông, cụ bà trong xóm đều là thân chủ của má. Má hay dặn chị hai mỗi khi nhờ bán giùm:
-Bà Bảy không có ăn nước cốt dừa nghe, đừng có chan vô cho bả. Ông Tư không ăn dưa mắm. Dì Út Thu đau bao tử cử ăn chua đừng chan nước giấm tỏi cho dĩ. Mấy người mua cho con nít ăn đừng có bỏ ớt…
Một hôm, cậu Út đạp trúng con heo làm đổ gánh cháo. Cậu bị phỏng, con heo nái cũng bị phỏng. Ông ngoại qua thăm, thấy má cực quá nên bắt dẹp. Mấy người khách ăn hể gặp má là khuyên bán lại, ai cũng tiếc, họ nói sao đang bán đắc mà nghỉ chi uổng vậy…Chỉ có mấy chị em tôi mừng vì khỏi phải làm cả đống cá, khỏi xắc dưa mắm mỗi buổi trưa và nhất là khỏi bị má bắt đi đòi tiền dì Hai Nho. Bà dì nầy ăn thiếu ấp lẫm, đã vậy còn đòi hoài không trả nên có một lần, không biết chị Hai học được cái câu “cháo bở quá sao dì dai dữ vậy?” ở đâu rồi đem ra xài. Dĩ đem tiền lại trả rồi mét má. Má bắt chị Hai khoanh tay xin lỗi rồi bắt cúi nằm dài, rầy cho một trận còn tặng thêm mấy đòn bánh tét, bắt ăn bằng mông nữa.
Bây giờ đến mùa nước lên, bà con, bạn bè có dịp ghé thăm hay kho cá linh đem cho vì biết tôi rất thích. Nó ngon, ngon lắm…bởi thắm đẵm vị quê và gợi lại nhiều hình ảnh của một thời xiết bao êm đềm ấy: Những buổi sáng vừa đi học về là bỏ cặp liền để làm cá phụ. Những buổi trưa mấy chị em vừa ngồi xắt dưa mắm vừa thi coi đứa nào làm giỏi nhất. Những ngày mưa, gió bạt tứ tung, tấm nhựa căng bốn góc che cho gánh hàng cứ vẩy phành phạch, thỉnh thoảng nó tung mình lên thật cao rồi trút nước xuống ào ào như thác. Tôi cầm cây dù đen thật là to, của ông ngoại cho để đứng che cho má. Mỗi lần có người đến mua cháo, má vừa mở nắp vung nồi vừa nói:
-Khỏi cần che má, che cái nồi cho kỹ đi, đừng có để cho nước mưa rớt vào làm hư hết cháo!