← Quay lại trang sách

Chương 7

HUYẾT THANH HẾT TÁC DỤNG năm tiếng sau, khi mặt trời bắt đầu lặn. Tobias nhốt tôi trong phòng suốt trước đó, cứ một tiếng lại ngó vô kiểm tra một lần. Lần này khi anh bước vô thì tôi đang ngồi trên giường, quắc mắc nhìn bức tường.

“Ơn trời,” anh nói, ịn trán lên cửa. “Anh đang bắt đầu nghĩ nó sẽ chẳng bao giờ hết tác dụng và rồi sẽ phải để em lại đây để... hái hoa bắt bướm hay bất cứ thứ gì em muốn làm lúc bị say thuốc.”

“Em sẽ giết họ,” tôi nói. “Em sẽ giết bọn họ.”

“Đừng bận tâm làm gì. Đằng nào chúng ta cũng sớm ra khỏi đây thôi mà,” anh đóng cánh cửa lại đằng sau.

Anh lấy cái ổ cứng từ trong túi sau ra. “Anh nghĩ mình có thể giấu nó sau cái tủ áo của em.”

“Đó là chỗ hồi trước em cất.”

“Đúng thế, và đó là lý do tại sao Peter sẽ không tìm nó ở đó nữa.” Tobias nhích cái tủ ra bằng một tay, tay kia nhét cái ổ cứng vô giữa.

“Sao em lại không miễn nhiễm với cái huyết thanh hòa bình đó được nhỉ?” tôi nói. “Nếu não bộ của em đủ kỳ quái để chống lại trình mô phỏng chứa trong các huyết thanh, vậy tại sao cái này lại không được?

“Thiệt ra anh cũng không biết nữa,” anh đáp. Anh thả mình xuống giường bên cạnh tôi, làm lún tấm nệm.

“Có lẽ để chống lại một huyết thanh, em phải thật sự muốn kìa.”

“Chà, rõ ràng là em đã muốn,” tôi nói, bực bội, nhưng không thuyết phục lắm. Tôi có muốn vậy không? Hay phải chăng tạm quên đi cơn giận dữ, quên đi đau thương, quên mọi thứ trong vài tiếng đồng hồ cũng tốt?”

“Thi thoảng,” anh nói, quàng vai tôi, “người ta chỉ muốn được vui, dù nó không có thật.”

Anh nói đúng. Ngay cả bây giờ, sự bình yên giữa chúng tôi cũng là từ việc không nói chuyện về nhiều thứ – về Wil, hay ba mẹ tôi hay về việc tôi suýt bắn vô đầu anh, hay ông Marcus. Nhưng tôi không dám để sự thật phá bĩnh sự yên lành này, bởi vì tôi còn phải bám víu vào nó.

“Có lẽ anh nói đúng,” tôi lặng lẽ nói.

“Em đang thừa nhận đó hả?” anh hỏi, giả bộ há hốc ngạc nhiên. “Coi bộ cái huyết thanh quỷ quái đó cũng có chút ích lợi nhỉ...”

Tôi huých anh một cái thật mạnh. “Cho anh nói lại đó.

Cho anh nói lại ngay bây giờ đó.”

“Được rồi, được rồi!” Anh giơ hai tay lên. “Chỉ là...

Anh cũng không được tử tế lắm, em biết đó. Đó là lý do tại sao anh thích em...”

“Đi ra!” Tôi hét lên, chỉ ra cửa.

Cười khùng khục, Tobias hôn chụt lên má tôi và rời khỏi phòng.

Tối đó, tôi xấu hổ quá nên không thèm đi ăn tối, thế là tôi dành cả buổi vắt vẻo trên mấy cành một cái cây táo tuốt phía cuối khu vườn, vặt táo chín. Tôi trèo lên cao hết mức có thể để hái chúng, xương cốt rã rời luôn. Tôi nghiệm ra là ngồi yên một chỗ vẫn có đường cho những nỗi buồn đau len lỏi vào, thế nên tôi cứ cố gắng giữ mình bận rộn.

Tôi đang đứng trên một cành cây, kéo vạt áo lau trán thì nghe thấy tiếng động. Ban đầu rất nhỏ, lẫn với tiếng ve kêu râm ran. Tôi đứng yên lắng nghe, và sau một lúc, tôi nhận ra đó là tiếng gì: xe hơi.

Phái Amity sở hữu chừng một tá xe tải chuyên dùng để chở hàng hóa, nhưng xe chỉ chạy vào cuối tuần thôi mà. Gáy tôi ngứa ran. Nếu đây không phải là phái Amity, có khả năng là phái Erudite. Nhưng tôi phải chắc chắn.

Tôi lấy hai tay chụp nhánh cây phía trên đầu, nhưng chỉ đu lên bằng tay trái. Ngạc nhiên là tôi vẫn làm vậy được. Tôi đứng khom người, cành lá chọc vào đầu làm tóc tai tôi rối tung. Vài trái táo rụng xuống đất khi tôi đu lên. Những cây táo không được cao lắm; có thể tôi sẽ không nhìn được đủ xa.

Tôi tận dụng mấy nhánh cây làm bàn đạp, hai tay giữ cố định rồi xoay mình quanh đám cây. Tôi nhớ lại hồi trèo lên cái đu quay khổng lồ trên mấy cái trụ, từng bắp thịt run bần bật, hai tay thì lẩy bẩy. Hiện tại tôi đang bị thương, nhưng đã mạnh hơn, và chuyện leo trèo coi bộ cũng dễ hơn.

Càng lúc cành cây càng mỏng manh và yếu hơn. Tôi liếm môi và nhìn qua cành cây kế tiếp. Tôi cần leo lên càng cao càng tốt, nhưng mấy cành cây tôi đang định leo lên lại ngắn và yếu quá. Tôi đặt một chân lên, nhún nhún kiểm tra. Nó cong lại nhưng vẫn chưa gãy. Tôi bắt đầu đu người để đặt được chân kia lên, rồi cành cây gãy cái rắc.

Tôi muốn nín thở khi bị rớt xuống, may kịp níu lấy thân cây vào phút chót. Chỗ này phải đủ cao mới được. Tôi nhón chân và nheo mắt nhìn về hướng phát ra tiếng động.

Đầu tiên tôi không nhìn thấy gì ngoài cánh đồng ngút ngàn, một dải đất trống, cái hàng rào, và đồng ruộng, và vài ngôi nhà phía bên kia. Nhưng có mấy cái đốm – màu bạc, đang di chuyển về phía cánh cổng, khi đèn chiếu về phía đó. Những chiếc xe mui màu đen – tấm năng lượng mặt trời, điều đó chỉ có một ý nghĩa duy nhất. Erudite.

Một hơi thở khó khăn thoát ra từ giữa kẽ răng tôi.

Không kịp nghĩ ngợi gì, tôi chỉ thả một chân xuống, rồi tới chân kia, nhanh tới mức vỏ cây tróc khỏi cành và rớt lả tả xuống đất. Ngay khi chân chạm đất, tôi chạy.

Tôi đếm số hàng cây mình phóng qua. Bảy, tám.

Cành cây là đà dưới thấp, và tôi luồn lách ngay bên dưới chúng. Chín, mười. Tôi ép chặt cánh tay phải lên ngực khi phóng càng lúc càng nhanh, vết thương trên vai đau nhói theo mỗi bước chạy. Mười một, mười hai.

Khi chạy tới hàng thứ mười ba, tôi phóng người qua bên phải, chạy vào một trong những đường ở trong. Cây cối ở hàng thứ mười ba sát nhau hơn. Cành lá đan xen vào nhau, tạo thành một đám rậm rịt toàn lá và cành táo.

Phổi tôi kêu gào vì thiếu oxy, nhưng tôi còn cách cuối vườn không bao xa. Mồ hôi chảy thành dòng xuống lông mày tôi. Tôi chạy được tới phòng ăn và tung cửa, tông vào một đám Amity, và rồi thấy anh; Tobias ngồi ở cuối căn tin với Peter, anh Caleb và Susan. Tôi hầu như còn không nhìn thấy họ qua những đốm đom đóm đang nổ ra trong mắt, nhưng Tobias đã chạm vào vai tôi.

“Erudite,” là tất cả những gì tôi cố thốt ra được.

“Đang tới đây à?” anh hỏi.

Tôi gật đầu.

“Mình có đủ thời gian chạy không?”

Tôi không chắc nữa.

Tới lúc này thì những thành viênAbnegation ngồi cuối bàn bên kia cũng đã bắt đầu chú ý. Họ xúm quanh chúng tôi.

“Tại sao chúng ta phải chạy?” Susan lên tiếng. “Phái Amity đề ra chuyện biến nơi này thành ngôi nhà an toàn. Không có xung đột nào được cho phép mà.”

“Phái Amity sẽ khó mà thi hành chính sách này được,” ông Marcus đáp. “Làm sao ngăn được xung đột nếu không có xung đột chứ?”

Susan gật đầu.

“Nhưng chúng ta không đi được,” Peter nói. “Không có thời gian. Bọn chúng sẽ thấy chúng ta mất.”

“Tris có một khẩu súng,” Tobias nói. “Chúng ta có thể mở đường máu ra ngoài.”

Anh bắt đầu hướng về khu nhà ngủ.

“Chờ đã,” tôi nói. “Em có ý này.” Tôi nhìn khắp một lượt nhóm Abnegation. “Cải trang. Phái Erudite không biết chắc là chúng ta đang ở đây. Chúng ta có thể giả vờ mình là thành viên Amity.”

“Vậy ai đang không ăn mặc như Amity nên trở về phòng ngủ,” ông Marcus lên tiếng. “Những người còn lại, thả tóc xuống; hãy cố gắng bắt chước cách cư xử của họ.”

Những Abnegation đang mặc đồ xám rời phòng ăn theo từng nhóm và băng qua sân để về phòng ngủ dành cho khách. Khi đã vào trong, tôi chạy vèo về phòng ngủ của mình, quỳ xuống đất và thọc tay xuống dưới nệm tìm khẩu súng.

Tôi cảm thấy nó vài giây trước khi tìm thấy nó, và khi nắm được nó rồi, cổ họng tôi thắt lại, và tôi không nuốt được. Tôi không muốn chạm vào khẩu súng. Tôi không muốn chạm tới súng ống nữa.

Cố lên, Tris. Tôi nhét khẩu súng vô lưng cái quần màu đỏ đang mặc. May là nó rộng thùng rộng thình. Tôi để ý thấy cái lọ thuốc mỡ với thuốc giảm đau trên cái bàn cạnh giường và bỏ tọt nó vô túi luôn, đề phòng trường hợp chúng tôi phải xoay xở mà thoát đi thật.

Rồi tôi với tay ra sau cái tủ để lấy cái ổ cứng.

Nếu phái Erudite tóm được chúng tôi – một điều rất ư là khả dĩ – bọn họ sẽ khám xét chúng tôi, và tôi không muốn đơn giản ngoan ngoãn giao nộp trình mô phỏng tấn công lại cho họ. Nhưng cái ổ cứng này còn chứa cảnh quay về cuộc tấn công. Bằng chứng về những mất mát của chúng tôi. Về cái chết của ba mẹ tôi. Những thứ duy nhất của họ còn sót lại. Và bởi vì phái Abnegation không thích chụp hình, đây là dữ liệu duy nhất tôi còn, để biết họ đã từng trông như thế nào.

Nhiều năm nữa, khi trí nhớ của tôi bắt đầu thui chột, tôi còn gì để nhắc mình nhớ họ trông như thế nào?

Gương mặt họ sẽ thay đổi trong tâm trí tôi. Tôi sẽ không bao giờ còn nhìn thấy họ được nữa.

Đừng có ngu. Chuyện này đâu có quan trọng.

Tôi siết chặt cái ổ cứng tới mức đau tay.

Vậy tại sao tôi lại có cảm giác nó quan trọng vậy?

“Đừng có ngu,” tôi nói thành tiếng. Tôi nghiến răng và chụp cái đèn bàn. Tôi giật dây điện ra, ném cái chụp đèn lên giường, và quỳ xuống cạnh cái ổ cứng. Nuốt nước mắt, tôi nện cái chân đèn vào nó, tạo thành một vết lõm.

Tôi lại nện cái đèn xuống, một lần nữa, rồi một lần nữa, cho đến khi cái ổ cứng nứt ra và các mảnh vỡ văng tung tóe trên sàn. Rồi tôi đá các mảnh vỡ xuống dưới gầm tủ, để đèn lại chỗ cũ, và ra hành lang, lấy tay chùi mắt.

Vài phút sau, một nhóm những người đàn ông và phụ nữ mặc đồ xám – và Peter – xuất hiện trên hành lang, đang phân chia mấy chồng đồ.

“Tris,” anh Caleb nói. “Em vẫn đang mặc đồ xám kìa.”

Tôi níu cái áo của ba, ngần ngừ.

“Nó là của ba,” tôi nói. Nếu thay đồ có nghĩa là tôi phải bỏ nó lại. Tôi cắn môi để cơn đau giữ tôi đứng vững. Tôi phải bỏ nó. Chỉ là cái áo thôi mà.

Chỉ như vậy thôi.

“Để anh mặc chồng nó lên cho,” anh Caleb nói.

“Không ai thấy đâu.”

Tôi gật đầu và lấy một cái áo đỏ từ đống đồ đang vơi dần. Nó đủ rộng để che chỗ cây súng nhô ra. Tôi chui vào một căn phòng gần đó để thay đồ, rồi đưa cái áo xám cho anh Caleb khi ra lại hành lang. Cửa mở, và tôi nhìn thấy Tobias đang nhét mớ quần áo Abnegation vô thùng rác.

“Anh có nghĩ những Amity kia sẽ nói dối giúp tụi mình không?” tôi hỏi anh, dựa vào cánh cửa đang mở.

“Để ngăn chặn xung đột à?” Tobias gật đầu. “Chắc chắn rồi.”

Anh mặc một cái áo cổ đỏ và quần jeans bị rách ở đầu gối. Một sự kết hợp hết sức kì cục với anh.

“Áo đẹp đó,” tôi nói.

Anh nhăn mũi với tôi. “Đây là cái áo duy nhất che được cái hình xăm trên cổ, được chưa?”

Tôi cười lo lắng. Tôi quên mất mấy cái hình xăm của mình, nhưng cái áo đang mặc che chắn nó cũng đủ rồi.

Những cái xe Erudite hướng đến khu nhà. Có năm chiếc, tất cả đều màu bạc và có mui màu đen. Động cơ kêu rù rù khi bánh xe nẩy lên trên mặt đường gồ ghề. Tôi len vừa kịp vô trong nhà, để cửa mở phía sau, còn Tobias bận quăng mấy cái then cửa vô thùng rác.

Xe đỗ xịch lại, và mấy cánh cửa xe mở ra, bên trong có ít nhất năm người đàn ông và phụ nữ mặc đồ xanh Erudite.

Và chừng mười lăm bóng áo đen Dauntless.

Khi những Dauntless đến gần hơn, tôi nhìn thấy một mảnh vải màu xanh quấn quanh tay họ, điều đó chỉ có thể là biểu hiện của sự phục tùng dành cho phái Erudite.

Cái phái đã nô dịch đầu óc của họ.

Tobias nắm tay dẫn tôi đi vào phòng ngủ chung.

“Anh không nghĩ phái của chúng ta lại đần tới mức vậy,” anh nói. “Em có khẩu súng đó rồi đúng không?”

“Dạ,” tôi nói. “Nhưng không có gì bảo đảm em có thể bắn chính xác bằng tay trái đâu nhé.”

“Em nên tập luyện thêm,” anh nói. Muôn đời là một người hướng dẫn.

“Em sẽ tập,” tôi nói. Tôi khẽ lắc đầu và bổ sung, “nếu chúng ta sống sót.”

Anh chạm vào đôi tay trần của tôi. “Hơi nhún nhún một chút khi em đi,” anh hôn lên trán tôi, “và giả bộ sợ mấy khẩu súng của chúng” — một cái hôn nữa giữa hai hàng chân mày — “và cư xử như bông hoa violet mỏng manh mà không đời nào em trở thành được” — một cái hôn lên má — “và em sẽ ổn thôi.”

“Được mà,” tôi đáp. Tay tôi run run nắm lấy cổ áo anh.

Tôi kéo môi anh xuống môi tôi.

Một tiếng chuông vang lên, một lần, hai lần, ba lần.

Đó là tiếng chuông triệu tập đến sảnh ăn, nơi phái Amity hội họp trong những dịp ít trang trọng hơn cuộc họp mà chúng tôi đã từng dự. Chúng tôi nhập vào nhóm Abnegation-giả- danh-Amity.

Tôi tháo kẹp ra khỏi tóc của Susan – kiểu tóc này quá đứng đắn so với một Amity. Con nhỏ trao cho tôi một nụ cười biết ơn khi tóc xõa xuống vai, lần đầu tiên tôi thấy tóc tai nó kiểu này. Nó làm gương mặt chữ điền của nhỏ mềm mại hơn.

Tôi đáng lý phải can đảm hơn mấy Abnegation, nhưng họ thậm chí nhìn còn không lo lắng bằng tôi. Họ cười với nhau và bước cạnh nhau trong im lặng — quá im lặng. Tôi chen vô giữa họ và vỗ vào vai một cô lớn lớn.

“Nói mấy đứa con nít chơi trò dán đuôi đi,” tôi nói với cô ấy.

“Dán đuôi?” cô ấy hỏi.

“Chúng đang cư xử kính cẩn và... Cứng Đơ quá,” tôi nói, hơi dè dặt lại khi phát âm cái từ là biệt danh của tôi ở Dauntless. “Và trẻ con phái Amity thì thường quậy phá ồn ào. Chỉ cần làm theo thôi, được chứ?”

Người phụ nữ chạm vào vai một đứa trẻ Abnegation và thì thầm với thằng nhỏ, và mấy giây sau, một đám con nít chạy rần rần xuống hành lang, luồn lách và la hét với nhau, “Tui đụng được bạn rồi nha! Bạn bị rồi!”

“Không, bạn mới đụng được tay áo tui thôi!”

Anh Caleb bắt kịp, chọc vô sườn Susan làm nó ré lên cười. Tôi cố thư giãn, cố gắng bơm thêm chút nhún nhảy vô bước chân mình như Tobias khuyên, hai tay vung vẩy mỗi khi quẹo qua góc. Cũng thật ngạc nhiên là giả bộ ở trong một phái khác có thể thay đổi mọi thứ — ngay cả cái cách đi lại. Đó hẳn phải là lý do chuyện tôi dễ dàng thuộc về một lúc ba phái lại lạ lùng đến vậy.

Chúng tôi bắt kịp những Amity đằng trước khi băng ngang qua sân để đến phòng ăn và hòa vào chung với bọn họ. Tôi giữ Tobias trong tầm nhìn của mình, không muốn cách anh quá xa. NhữngAmity không đặt câu hỏi; họ chỉ để chúng tôi nhập chung với phái họ.

Một cặp Dauntless phản phé đang đứng gác hai bên cánh cửa dẫn vào phòng ăn, súng cầm trên tay, và tôi cứng người lại. Đột nhiên, thực tế ập đến rằng tôi đang không có vũ trang và bị lùa vào trong một tòa nhà bị bao vây bởi cả hai phái Erudite và Dauntless, và nếu bọn chúng phát hiện ra tôi, sẽ không có đường nào mà chạy.

Bọn chúng sẽ bắn tôi ngay tắp lự.

Tôi cân nhắc coi có nên mở đường máu hay không.

Nhưng tôi sẽ đi đâu ngay cả nếu bọn chúng không tóm được tôi? Tôi cố gắng thở bình thường. Tôi sắp đi qua chúng rồi — đừng nhìn, đừng nhìn. Còn mấy bước nữa — nhìn đi chỗ khác, chỗ khác.

Susan khoác tay tôi.

“Để kể cho bồ nghe chuyện này,” nó nói. “bảo đảm vui.”

Tôi đưa tay che miệng và cố ép ra được một tiếng cười khúc khích hơi chói tai và nghe như tiếng nước ngoài, nhưng căn cứ vô nụ cười con nhỏ đang trao cho tôi thì nó cũng thuyết phục. Hai đứa tôi cặp kè với nhau giống mấy đứa con gái Amity hay làm, liếc nhìn mấy Dauntless rồi lại khúc khích cười. Tôi ngạc nhiên là mình cũng xoay xở được trong lúc bụng dạ đang nặng trình trịch thế này.

“Cảm ơn bồ,” tôi thì thầm khi đã lọt được vào bên trong.

“Không có chi,” nhỏ trả lời.

Tobias ngồi đối diện tôi trên một cái bàn dài, và Susan ngồi kế tôi. Phần còn lại của nhóm Abnegation rải rác khắp phòng, anh Caleb và Peter ngồi cách tôi mấy bước.

Tôi gõ gõ ngón tay lên đầu gối khi chúng tôi ngồi chờ xem điều gì sẽ xảy ra. Bẵng một lúc, chúng tôi chỉ ngồi đó, và tôi vờ như đang lắng nghe một đứa con gái Amity kể chuyện bên trái tôi. Nhưng tôi cứ liếc mắt thăm chừng Tobias, và anh nhìn lại tôi, như thể chúng tôi đang chuyền qua chuyền lại nỗi lo sợ giữa hai đứa vậy.

Cuối cùng cô Johanna cũng bước vào cùng với một người đàn bà Erudite. Cái áo sơ mi xanh sáng dường như đang tỏa sáng, chỏi với làn da nâu sậm của bà ta.

Bà ta vừa nhìn quanh phòng vừa nói chuyện với cô Johanna. Tôi muốn nín thở luôn khi ánh mắt bà ta lướt qua tôi — và thở phào khi bà ta bỏ qua mà không mảy may lưỡng lự. Bà ta không nhận ra tôi.

Ít ra là chưa.

Ai đó đập tay lên bàn, và căn phòng chìm vào im lặng.

Chính nó đây. Giây phút cô Johanna, hoặc là giao nộp chúng tôi, hoặc là không.

“Những người bạn Erudite và Dauntless của chúng ta đang tìm kiếm vài người,” cô Johanna nói. “Một vài thành viên của phái Abnegation, ba thành viên Dauntless, và một bạn khai tâm Erudite.” Cô ấy cười. “Trên tinh thần hợp tác toàn diện, tôi đã thông báo với họ rằng những người họ đang tìm kiếm quả thật đã từng ở đây, nhưng cũng đã rời đi. Họ muốn xin phép được kiểm tra khu vực của chúng ta, đồng nghĩa với việc chúng ta phải bỏ phiếu. Có ai phản đối cuộc kiểm tra này không?”

Sự căng thẳng trong giọng nói của cô nói lên rằng nếu có ai phản đối thật thì tốt hơn họ nên im cái miệng lại đi. Tôi không biết liệu pháiAmity có chịu cái kiểu đó không nhưng không ai nói năng gì. Cô Johanna gật đầu với người đàn bà Erudite.

“Ba ngươi gác ở đây,” bà ta nói với mấy tên lính Dauntless đứng ở cửa vô. “Những người còn lại, lục soát các tòa nhà và báo cáo lại nếu phát hiện ra bất kỳ thứ gì. Đi.”

Có quá nhiều thứ bọn chúng có thể tìm thấy. Những mảnh vụn của cái ổ cứng. Quần áo tôi quên ném đi.

Sự thiếu thốn đáng ngờ đồ trang sức và trang trí trong phòng của chúng tôi. Tôi cảm thấy tiếng tim đập thình thịch trong tai khi ba tên lính Dauntless đảo lên đảo xuống mấy dãy bàn.

Gáy tôi ngứa râm ran lúc một tên bước đến đằng sau tôi, tiếng chân vang to và nặng nề. Không phải lần đầu tiên trong đời tôi mừng là mình nhỏ xíu và không có gì nổi bật. Tôi không thu hút sự chú ý của người khác.

Nhưng Tobias thì có. Sự kiêu hãnh của anh rõ rành rành trong dáng vẻ anh, trong cái cách ánh mắt anh đánh giá mọi thứ chúng nhìn. Đó không phải là một đặc điểm của Amity. Đó chỉ có thể là đặc điểm của Dauntless.

Người phụ nữ Dauntless đang đi về phía anh chiếu tướng anh ngay tức khắc. Mắt ả ta nheo lại khi tiến gần hơn, và dừng ngay phía sau anh.

Tôi ước gì cái cổ áo anh cao hơn một chút. Tôi ước gì anh không có quá nhiều hình xăm như vậy. Tôi ước gì...

“Tóc ngươi khá là ngắn đối với một Amity thì phải,”

bà ta lên tiếng.

... anh không cắt tóc giống như một Abnegation.

“Trời nóng,” anh đáp.

Lý do đó có thể hữu hiệu nếu anh nói đúng cách, nhưng anh lại nói như nạt vô mặt người khác.

Ả ta vươn tay ra và dùng ngón trỏ kéo cổ áo anh ra để nhìn mấy cái hình xăm.

Và Tobias hành động.

Anh tóm cổ tay người phụ nữ, giật mạnh tới trước để ả mất thăng bằng. Ả đập đầu lên thành bàn và ngã xuống. Bên kia căn phòng, một tiếng súng nổ ra, ai đó thét lên, và ai nấy đều thụp xuống gầm bàn hay bò núp cạnh mấy cái ghế.

Mọi người, trừ tôi. Tôi ngồi nguyên tại chỗ trước khi có tiếng súng vang lên, bám chặt thành bàn. Tôi biết mình đang ở đâu, nhưng tôi lại không thấy cái căn tin đâu nữa. Tôi nhìn thấy con hẻm nơi tôi chạy thoát sau khi mẹ tôi chết. Tôi nhìn trân trối vào khẩu súng trên tay, và vùng da mượt mà giữa hai hàng lông mày Will.

Một âm thanh mơ hồ ùng ục trong cổ tôi. Nó đã có thể là một tiếng hét nếu như hai hàm răng tôi không nghiến chặt như thế. Mảnh ký ức nhoáng qua đã kết thúc, nhưng tôi vẫn không nhấc tay nhấc chân lên được.

Tobias nắm gáy ả Dauntless và vặn ả xuống đất. Anh đã tước được súng của ả. Anh dùng ả như tấm chắn để bắn trả qua vai phải của ả về phía mấy tên lính Dauntless phía bên kia phòng.

“Tris!” anh la lớn. “Giúp một tay chứ?”

Tôi kéo áo lên vừa đủ cao để nắm được báng súng, và ngón tay tôi chạm phải lớp kim loại lạnh toát. Lạnh tới nỗi đầu ngón tay tôi phát đau, nhưng không thể như thế được; trong này nóng hầm hập mà. Một tên Dauntless đứng cuối hành lang chĩa khẩu súng lục của hắn vào tôi.

Đốm đen trên đầu nòng súng lớn dần và bao trùm xung quanh tôi, và ngoài tiếng tim mình đập, tôi không nghe thấy bất cứ thứ gì khác nữa.

Anh Caleb lao tới trước và chộp lấy khẩu súng của tôi.

Anh cầm nó bằng cả hai tay và nã đạn vào đầu gối tên Dauntless đứng cách anh chỉ vài mét.

Tên Dauntless thét lên và sụm xuống, tay ôm chân, cho Tobias có cơ hội bắn tiếp một phát vô đầu hắn. Cơn đau của hắn chỉ tồn tại có chốc lát.

Cả người tôi đang run lên cầm cập và không ngừng được. Tobias vẫn đang nắm cổ người phụ nữ Dauntless, nhưng lần này, anh chĩa súng vào người đàn bà Erudite.

“Phun ra một từ nào nữa,” Tobias nói, “là tôi bắn.”

Ả Erudite há miệng, nhưng không nói gì.

Những Abnegation đồng loạt đứng dậy từ gầm bàn và gầm ghế, và bắt đầu hướng về phía cửa. Anh Caleb kéo tôi đứng lên. Tôi bước ra cửa.

Bỗng tôi thấy cái gì đó. Một cái gì đó giật giật, một cử động nhẹ. Ả Erudite lôi ra một khẩu súng nhỏ, chĩa vô người mặc áo vàng đứng trước mặt tôi. Bản năng, không phải lý trí, đẩy tôi hụp xuống. Tay kéo theo người đó, và viên đạn bắn trúng bức tường thay vì người đó, thay vì tôi.

“Hạ súng xuống,” Tobias ra lệnh, chĩa khẩu súng lục vào ả ta. “Tôi đang có tầm ngắm rất tốt, và cá là bà không có đâu.”

Tôi chớp chớp mắt để hết nhòe. Peter nhìn tôi. Tôi mới vừa cứu mạng nó. Nó không cảm ơn tôi, và tôi không nhận ra sự có mặt của nó.

Người phụ nữ Erudite thả súng xuống. Peter và tôi cùng hướng về cửa ra vào. Tobias theo chân chúng tôi, đi giật lùi để vẫn chĩa súng vào ả ta. Vào giây cuối cùng trước khi bước qua ngưỡng cửa, anh đóng sập cửa giữa hai người.

Và chúng tôi chạy.

Chúng tôi làm thành một bầy phóng muốn hụt hơi qua luống đường trung tâm của vườn cây ăn trái. Không khí ban đêm nặng nề như một tấm chăn và có mùi như mùi mưa. Những tiếng la hét đuổi theo chúng tôi. Tiếng cửa xe đóng sầm. Tôi chạy nhanh hơn nhiều so với khả năng của mình, như thể tôi đang hít thở adrenaline chứ không phải không khí. Tiếng động cơ rù rù đuổi theo tôi qua đám cây. Tobias nắm chặt tay tôi.

Chúng tôi chạy thành một hàng dài băng qua cánh đồng ngô. Những cái xe đã bắt kịp chúng tôi. Đèn pha rọi xuyên qua đám cây cao, chiếu sáng lúc lá ở đây, lúc trái ngô ở kia.

“Tản ra!” ai đó la lên, nghe giống ông Marcus.

Chúng tôi chia ra và tản đi khắp cánh đồng như nước tràn. Tôi chụp tay anh Caleb. Tôi nghe tiếng Susan thở hổn hển phía sau anh ấy.

Chúng tôi vướng phải hàng đống thân cây ngô. Những cái lá nặng trịch cứ cắt phải mặt và cánh tay tôi. Tôi tập trung vào giữa hai vai của Tobias trong lúc chạy. Tôi nghe thấy tiếng đấm đá và la hét. Tiếng la hét vang lên khắp nơi, bên trái, bên phải. Tiếng súng. Những Abnegation lại đang bỏ mạng; giống như khi tôi đang giả vờ bị điều khiển bởi trình mô phỏng. Và tất cả những gì tôi đang làm bây giờ là bỏ chạy.

Cuối cùng chúng tôi cũng đến được chỗ hàng rào.

Tobias chạy dọc theo nó, thử đẩy cho tới khi tìm được một cái lỗ. Anh nhấc mấy sợi xích lên để Anh Caleb, Susan và tôi bò qua. Trước khi tiếp tục guồng chân chạy, tôi dừng lại và quay lại nhìn cánh đồng ngô mà mình vừa mới chạy khỏi. Tôi thấy những ánh đèn pha rọi sáng phía xa. Nhưng không nghe thấy gì.

“Những người khác đâu rồi nhỉ?” Susan thì thầm.

Tôi nói, “Đi rồi.”

Susan nấc lên. Tobias thô bạo kéo tôi tiến tới. Mặt tôi đau rát vết cắt của lá ngô, nhưng mắt thì khô khốc. Cái chết của những Abnegation chỉ thêm một gánh nặng nữa mà tôi không tài nào kham được thôi mà.

Chúng tôi tránh xa con đường đất mà mấy tên Erudite và Dauntless dùng để đi đến khu Amity, đi theo đường ray xe lửa hướng về thành phố. Ở ngoài này không có chỗ nào để trốn, không cây cối hay nhà cửa có thể che chắn cho chúng tôi, nhưng điều đó không thành vấn đề.

Bọn Erudite đằng nào cũng không thể lái xe qua hàng rào, còn đến cánh cổng thì cũng phải tốn cả giờ đồng hồ.

“Em phải... dừng lại...” tiếng Susan vang lên trong bóng tối từ đâu đó sau lưng tôi.

Chúng tôi dừng lại. Susan đổ sụp xuống đất, khóc nấc lên, và anh Caleb quỳ xuống cạnh con nhỏ. Tobias và tôi nhìn về hướng thành phố, nơi vẫn đang sáng đèn, vì vẫn chưa tới nửa đêm. Tôi muốn có cảm giác gì đó. Sợ hãi, giận dữ, đau đớn. Nhưng không có. Tất cả những gì tôi cảm thấy là cần phải tiếp tục di chuyển.

Tobias quay người về phía tôi.

“Vậy là sao, Tris?” anh hỏi.

“Sao cơ?” tôi nói, và tự thấy xấu hổ là sao giọng mình nghe yếu xìu vậy. Tôi không biết anh đang nói về Peter hay chuyện trước đó nữa hay là chuyện gì khác.

“Em đã hóa đá! Có người sắp sửa giết anh và em chỉ ngồi đó!” Giờ thì anh đang hét lên. “Anh nghĩ anh có thể tin tưởng em ít ra cũng tự cứu lấy cái mạng em chứ!”

“Này!” Anh Caleb gọi. “Cho nó nghỉ một chút chứ, được không?”

“Không,” Tobias trừng mắt nhìn tôi. “Cô ấy không cần nghỉ ngơi.” Giọng anh mềm lại. “Chuyện gì vậy?”

Anh vẫn tin rằng tôi kiên cường. Kiên cường đủ để không cần sự cảm thông của anh. Tôi từng nghĩ rằng anh đúng, nhưng giờ thì tôi không chắc nữa.

Tôi hắng giọng.

“Em đã phát hoảng,” tôi nói. “Sẽ không xảy ra nữa đâu.”

Anh nhướn một bên mày.

“Không xảy ra nữa,” tôi lặp lại, lớn tiếng hơn.

“Được rồi.” Anh có vẻ không bị thuyết phục. “Chúng ta phải tới được nơi nào đó an toàn. Bọn chúng sẽ tập hợp lại và truy lùng chúng ta.”

“Anh nghĩ bọn chúng quan tâm tới tụi mình nhiều vậy sao? Tôi hỏi.

“Tụi mình, đúng thế,” anh đáp. “Tụi mình có khả năng là những người duy nhất bọn chúng thật sự truy lùng, ngoại trừ ông Marcus, lão có nguy cơ đã tiêu đời rồi.”

Tôi không biết mình đã trông mong anh nói về chuyện này như thế nào — với một sự nhẹ nhõm, có thể, vì ông Marcus, ba của anh và mối đe dọa của cuộc đời anh, cuối cùng cũng đã chết. Hay với đau thương và buồn não, vì ba anh có lẽ đã bị sát hại, và thỉnh thoảng đau buồn cũng không có nghĩa lý gì nhiều lắm. Nhưng anh nói về nó chỉ như một sự thật hiển nhiên, như hướng đi của chúng tôi hay thời gian trong ngày.

“Tobias...” tôi mở miệng, nhưng chợt nhận ra không biết phải nói gì tiếp theo.

“Tới lúc phải đi rồi,” Tobias nói mà không thèm ngoái lại.

Anh Caleb đỡ Susan đứng dậy. Con nhỏ di chuyển được chỉ nhờ tay anh tôi đang đỡ lưng nó, đẩy nó tới trước.

Tới lúc đó tôi mới chợt nhận ra, rằng quá trình nhập môn của phái Dauntless đã dạy tôi một bài học quan trọng: làm thế nào để luôn tiến về phía trước.