Chương 8
CHÚNG TÔI QUYẾT ĐỊNH sẽ đi theo đường ray để đến thành phố, vì không đứa nào giỏi định hướng. Tôi bước từ mối nối này đến mối nối khác, Tobias thì giữ thăng bằng trên thanh ray, thỉnh thoảng lảo đảo, còn Caleb với Susan thì đi mà cứ như lết sau lưng chúng tôi. Tôi giật mình mỗi lần nghe một tiếng động nào đó không xác định được, cả người căng như dây đàn đến khi nhận ra đó chỉ là tiếng gió thổi, hay tiếng giày của Tobias kêu cót két trên đường ray. Tôi ước chúng tôi có thể tiếp tục chạy, nhưng nhấc nổi cái chân lên lúc này là cả một kỳ công rồi.
Và rồi tôi nghe thấy một âm thanh rì rì nhỏ từ đường ray.
Tôi quỳ xuống và chống tay lên đường ray, nhắm mắt lại để tập trung vào cảm giác với kim loại bên dưới bàn tay. Sự rung động như một dấu hiệu đối với tôi. Tôi nhìn qua giữa hai đầu gối Susan lên đường ray và không thấy ánh đèn tàu nào, nhưng điều đó chẳng có nghĩa gì hết. Con tàu có thể chạy không còi không đèn báo hiệu cho biết nó đang đến.
Tôi nhìn thấy ánh sáng lập lòe của một toa tàu nhỏ, xa tít tắp nhưng đang tiến lại gần rất nhanh.
“Nó đang tới đó,” tôi thông báo. Đứng dậy là một nỗ lực kỳ diệu khi tất cả những gì tôi muốn làm là ngồi phịch xuống, nhưng tôi vẫn đứng lên, phủi phủi tay lên quần. “Em nghĩ chúng ta nên lên tàu.”
“Ngay cả nếu nó được điều khiển bởi phái Erudite ư?”
Anh Caleb hỏi.
“Nếu phái Erudite điều khiển đoàn tàu thì bọn chúng đã đi tàu đến khu Amity để tìm chúng ta rồi,” Tobias trả lời. “Tôi nghĩ nó đáng để thử. Trong thành phố chúng ta sẽ ẩn náu được. Còn ở đây chúng ta chỉ có thể ngồi chờ chúng đến tóm cổ thôi.”
Chúng tôi leo xuống khỏi đường ray. Anh Caleb chỉ dẫn Susan từng bước để lên một con tàu đang chạy, cái cách chỉ có một cựu Erudite mới làm được. Tôi quan sát toa tàu đầu tiên chạy đến; lắng nghe nhịp điệu nẩy xóc của nó trên những mối nối, tiếng rì rầm của bánh xe kim loại cọ vào đường ray kim loại.
Khi toa tàu đầu tiên phóng qua, tôi bắt đầu chạy. Tôi lờ đi cái chân đang đau rát. Anh Caleb giúp Susan trèo lên một toa ở giữa trước rồi mới tự mình nhảy lên. Tôi hít một hơi ngắn và quăng mình qua phải, đập lên sàn tàu, chân vẫn vắt vẻo ngoài rìa. Anh Caleb nắm tay tôi kéo vô trong.
Tobias nắm tay vịn để đu người vô trong ngay sau tôi.
Tôi ngước lên và ngừng thở.
Những cặp mắt sáng rực lên trong bóng tối. Những hình thù đen sì đang ngồi trong toa, đông hơn chúng tôi rất nhiều.
Những kẻ vô môn phái.
+ + +
Gió thổi rít vào trong toa tàu. Tất thảy mọi người đều đứng phắt lên và lăm lăm vũ khí — ngoại trừ Susan và tôi, hai đứa không tấc sắt trong tay. Một tên vô môn phái với một bên mắt bị bịt chĩa súng vào Tobias. Không hiểu người đó lấy đâu ra cây súng.
Cạnh đó, một người phụ nữ đang cầm một con dao —
loại dao tôi hay dùng cắt bánh mì. Sau lưng người đó là một người khác, cầm một tấm ván thòi ra một cây đinh trên tay.
“Tôi chưa từng thấy tên Amity nào mang vũ khí cả,”
người phụ nữ vô môn phái cầm con dao lên tiếng.
Tên vô môn phái cầm súng nhìn quen quá. Quần áo hắn ta rách rưới tả tơi, đủ thứ màu mè khác nhau— một cái áo thun đen bên trong một cái áo khoác Abnegation rách bươm, quần jeans vá chằng vá đụp bằng chỉ đỏ, giày bốt màu nâu. Quần áo của tất cả các môn phái đang hiển thị trên nhóm người đứng trước mặt tôi đây: quần đen của Candor mặc với áo đen của Dauntless; váy vàng với áo len xanh mặc chồng bên ngoài. Hầu hết đồ đạc đều te tua xơ mướp hoặc bẩn thỉu theo nhiều cách, nhưng vài cái thì không. Mới thó được, tôi nghĩ vậy.
“Bọn chúng không phải Amity,” tên cầm súng nói.
“Bọn chúng là Dauntless.”
Rồi tôi nhận ra: nó là Edward, một đồng môn khai tâm đã rời Dauntless sau khi bị Peter tấn công bằng một con dao cắt bơ. Đó là lý do nó phải đeo bịt mắt.
Tôi nhớ lại mình đã ôm đầu nó giữ yên khi nó nằm la hét trên sàn, và lau chùi vũng máu nó để lại.
“Xin chào, Edward,” tôi nói.
Nó gật đầu với tôi, nhưng không hạ súng xuống. “Tris.”
“Là ai đi nữa,” người phụ nữ nói, “thì các người cũng phải cuốn xéo khỏi tàu nếu muốn sống sót.”
“Làm ơn,” Susan nói, môi con nhỏ run lẩy bẩy. Mắt nó ngấn nước. “Chúng tôi đang chạy trốn... và những người còn lại đã chết và tôi không...” Con nhỏ lại bắt đầu nấc lên. “Tôi không nghĩ là tôi có thể đi tiếp được nữa, tôi...”
Tôi cảm thấy một thôi thúc kỳ cục muốn đập đầu vô tường. Nghe người khác khóc lóc khiến tôi thấy không thoải mái chút nào. Tôi thật ích kỉ, có lẽ thế.
“Chúng tôi đang chạy trốn phái Erudite,” anh Caleb nói. “Nếu chúng tôi xuống, bọn chúng sẽ dễ dàng tóm được chúng tôi hơn. Nên chúng tôi hết sức biết ơn nếu các vị để chúng tôi cùng vào thành phố với các vị.”
“Vậy sao?” Edward nghiêng đầu. “Mấy người đã từng làm gì cho tụi tôi chưa?”
“Tôi đã giúp cậu khi không ai giúp cậu,” tôi nói.
“Nhớ chứ?”
“Cậu, có thể. Nhưng còn mấy người kia?” Edward nói.
“Không nhiều nhặn gì lắm thì phải.”
Tobias bước lên trước, thành ra súng của Edward gần như gí vô cổ họng anh.
“Tên tôi là Tobias Eaton,” Tobias nói. “Tôi không nghĩ các người muốn đá tôi xuống khỏi con tàu này đâu.”
Hiệu ứng mà cái tên anh gây ra cho những người trên tàu là ngay lập tức và rất khó hiểu: họ hạ vũ khí xuống.
Bọn họ trao nhau những cái nhìn đầy ẩn ý.
“Eaton? Thật sao?” Edward nhướn mày. “Phải thừa nhận là tôi bị bất ngờ.” Nó hắng giọng. “Được thôi, mấy người có thể đi cùng. Nhưng khi đến thành phố, các người phải đi với bọn tôi.”
Rồi nó nhếch mép cười. “Bọn tôi biết có người đang tìm kiếm anh đó, Tobias Eaton.”
Tobias và tôi ngồi ngoài rìa toa, chân đung đưa ra ngoài.
“Anh biết người đó là ai không?”
Tobias gật đầu.
“Ai vậy?”
“Khó giải thích lắm,” anh nói. “Anh có rất nhiều điều muốn kể cho em nghe.”
Tôi dựa vào người anh.
“Vâng,” tôi nói. “Em cũng thế.”
+ + +
Tôi không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua khi họ bảo chúng tôi xuống tàu. Nhưng lúc đó, chúng tôi đã ở một khu trong thành phố, nơi những người vô môn phái sống, cách nơi tôi lớn lên chừng một dặm. Tôi nhận ra từng tòa nhà chúng tôi đi ngang qua, tòa nhà tôi đi ngang mỗi lần lỡ chuyến xe buýt từ trường về nhà. Tòa nhà với những viên gạch vỡ. Tòa nhà có một cái đèn đường bị ngã đè lên.
Bốn chúng tôi đứng thành hàng trên ngưỡng cửa toa.
Susan khóc thút thít.
“Lỡ tụi mình bị thương thì sao?” con nhỏ hỏi.
Tôi nắm tay nó. “Tụi mình sẽ cùng nhau nhảy. Mình với bồ. Mình đã làm điều này cả tá lần rồi mà chưa bị thương lần nào.”
Con nhỏ gật đầu và siết chặt tay tôi tới phát đau.
“Đếm tới ba. Một,” tôi nói, “Hai. Ba.”
Tôi nhảy, kéo con nhỏ theo. Chân tôi nện lên mặt đất và tiếp tục chạy tới trước, nhưng Susan té xuống vỉa hè và lăn tròn qua một bên. Ngoài cái đầu gối bị trầy xước sơ sơ thì con nhỏ có vẻ ổn. Những người khác nhảy xuống không khó khăn gì — ngay cả anh Caleb, dù trước đây anh chỉ mới nhảy tàu có một lần, theo như tôi biết.
Tôi không biết ai có thể là cái người biết Tobias trong những kẻ vô môn phái. Có thể là Drew hoặc Mol y, những đứa đã rớt kỳ nhập môn Dauntless — nhưng tụi nó còn không biết được tên thật của anh cơ mà, thêm nữa, có khi bây giờ Edward xử đẹp tụi nó rồi cũng nên, căn cứ trên cái cách nó đã sẵn sàng nã đạn vào bọn tôi như thế nào. Chắc chắn phải là ai đó từ phái Abnegation hoặc từ trường học.
Susan có vẻ đã bình tĩnh lại. Con nhỏ đã tự đi được, kế bên anh Caleb, hai má con nhỏ không còn nhòe nhoẹt nước mắt nữa.
Tobias đi bên cạnh tôi, khẽ chạm vào vai tôi.
“Lâu rồi anh không kiểm tra cái vai em,” anh nói. “Nó sao rồi?”
“Ổn mà. May là em có đem theo thuốc giảm đau,” tôi đáp. Tôi mừng được nói chuyện về cái gì đó sáng sủa lạc quan — đại khái lạc quan như tình trạng vết thương.
“Em không nghĩ mình để cho nó được yên ổn mà lành lại. Cứ phải dùng tay hay hạ cánh bằng tay hoài.”
“Sẽ có nhiều thời gian cho nó lành lại một khi chuyện này kết thúc.”
“Dạ.” Hoặc có lành hay không cũng chẳng vấn đề gì, tôi im lặng bổ sung, vì em sẽ chết.
“Đây,” anh nói, rút ra một con dao nhỏ từ túi sau và đưa cho tôi. “Đề phòng thôi.”
Tôi thả tọt nó vô túi. Bây giờ tôi còn thấy lo bạo hơn.
Những người vô môn phái dẫn chúng tôi đi dọc con đường và rẽ trái vào một con hẻm bẩn thỉu bốc mùi rác rến. Mấy con chuột chạy tán loạn trước mặt chúng tôi, kêu chít chít sợ hãi, và tôi chỉ thấy những cái đuôi chui tọt vô hàng đống rác rưởi, thùng rác rỗng, thùng giấy ướt sũng nước. Tôi thở bằng miệng để khỏi phải nôn thốc nôn tháo ra.
Edward dừng lại bên cạnh một trong những tòa nhà bằng gạch đổ nát và đẩy mở một cánh cửa thép. Tôi rụt người lại, nửa như đợi nguyên tòa nhà đổ sụp xuống nếu nó đẩy quá mạnh. Cửa sổ đóng bụi dày tới nỗi hầu như không có tia sáng nào lọt qua được. Chúng tôi theo Edward vào một căn phòng tối thui. Trong ánh sáng lờ mờ của một cái đèn lồng, tôi thấy... người.
Người ngồi bên cạnh những dãy giường. Người săm soi những lon thức ăn mở. Người tu những chai nước. Và trẻ con, xúm xít quanh những nhóm người lớn, không bị gò bó trong một màu quần áo nào đặc biệt — những đứa trẻ vô môn phái.
Chúng tôi đang ở trong một nhà kho của những kẻ vô môn phái, và những kẻ vô môn phái, những kẻ đáng lý ra phải rải rác khắp nơi, bị cô lập, và không có cộng đồng... lại đang tụ họp tại đây. Cùng nhau, như một phái hẳn hoi.
Tôi không biết nên mong chờ điều gì từ họ, nhưng tôi ngạc nhiên bởi cái cách họ trông hết sức bình thường.
Họ không đánh lộn với nhau hay tránh né nhau. Vài người đùa giỡn, những người khác thì thầm trò chuyện.
Dù vậy, dần dần họ cũng nhận ra rằng chúng tôi không phải là người nên có mặt ở đây.
“Đi nào,” Edward nói, cong ngón tay vẫy chúng tôi tới gần. “Bà ấy ở đằng sau.”
Những ánh nhìn săm soi và sự im lặng chào đón chúng tôi khi theo chân Edward đi sâu hơn vào tòa nhà đáng ra là bị bỏ hoang. Cuối cùng tôi không nhịn được nữa.
“Có chuyện gì ở đây vậy? Sao các vị lại tập trung hết ở đây như thế này?”
“Cậu nghĩ bọn họ — chúng tôi — đều tan tác mỗi người mỗi ngả chớ gì,” Edward không thèm ngoái lại.
“Chà, bọn họ từng như vậy, trong một thời gian dài. Quá đói khát để làm được điều gì khác ngoài việc chăm chăm tìm thứ gì bỏ vô miệng. Nhưng rồi những Cứng Đơ bắt đầu cho họ thực phẩm, quần áo, công cụ, mọi thứ. Và họ trở nên mạnh hơn, và chờ đợi. Họ như thế đó khi tôi tìm thấy họ, và họ đã chào đón tôi.”
Chúng tôi bước vào một hành lang tối om om. Tôi thấy như ở nhà, trong bóng tối và sự im lặng giống như những đường hầm ở tổng hành dinh Dauntless. Tobias, tuy thế, lại cứ xoắn đi xoắn lại trong tay cọng chỉ sút ra từ áo anh. Anh biết người chúng tôi đang đi gặp, nhưng tôi vẫn mù tịt không có chút manh mối nào. Sao tôi lại biết quá ít về người con trai đã nói yêu tôi như thế —
người con trai có cái tên thật đủ quyền lực để giữ chúng tôi sống sót trong một toa tàu đầy ắp kẻ thù?
Edward dừng chân trước một cánh cửa kim loại và đấm rầm rầm.
“Đợi đã, cậu nói họ đang đợi hả?” Anh Caleb hỏi.
“Chính xác thì họ đang đợi cái gì?”
“Đợi thế giới sụp đổ,” Edward đáp. “Và giờ thì nó sụp thiệt rồi.”
Cửa mở ra, và một người phụ nữ nghiêm nghị với một con mắt lười nhác đang đứng sau cánh cửa. Con mắt bình thường kia lướt qua cả bốn chúng tôi “Trẻ lạc hả?” cô ta hỏi.
“Không hẳn, Therese.” Nó chỉ ngón cái ra sau, vào Tobias. “Người này là Tobias Eaton.”
Therese chằm chằm nhìn Tobias một lúc rồi gật đầu.
“Chắc chắn rồi. Chờ chút.”
Cô ta đóng cửa lại. Tobias nuốt nước bọt, yết hầu nhấp nhô.
“Anh biết cô ta sẽ đi gọi ai, đúng không,” anh Caleb hỏi Tobias.
“Caleb,” Tobias nói. “Làm ơn im miệng đi.”
Ngạc nhiên thay, anh trai tôi đã nén lại được cái bản tính tò mò rất Erudite của anh.
Cửa lại mở ra, và Therese lùi lại để chúng tôi vô.
Chúng tôi bước vào một căn phòng chưng cất cũ với những máy móc bất thình lình trồi lên từ dưới đất, va phải đầu gối và cùi chỏ tôi. Therese dẫn chúng tôi đi xuyên qua một rừng kim loại để đến cuối phòng, nơi vài ba cái bóng đèn đang treo lủng lẳng trên trần phía trên một cái bàn.
Một người phụ nữ trung niên đang đứng sau cái bàn.
Bà ta có mái tóc xoăn màu đen và làn da màu ô-liu. Các đường nét của bà rất nghiêm nghị và góc cạnh tới mức hầu như chẳng thu hút được ai, mà không hẳn như thế.
Tobias siết chặt tay tôi. Ngay giây phút đó, tôi nhận ra anh và người phụ nữ đó có cùng một cái mũi khoằm, nhìn hơi quá cỡ trên mặt bà ta nhưng lại vừa đẹp trên mặt anh. Họ cùng có bộ xương hàm chắc khỏe, cằm thon gọn, môi trên chẻ trái tim, tai hơi vểnh. Chỉ có cặp mắt bà ta là khác — thay vì màu xanh lơ, chúng lại tối tới mức gần như có màu đen.
“Evelyn,” anh nói, giọng hơn run run.
Evelyn là tên vợ của ông Marcus tức mẹ của Tobias.
Nắm tay tôi trên tay Tobias lỏng ra. Mới mấy ngày trước tôi còn nhớ về đám tang của bà ấy. Đám tang của bà ấy.
Và bây giờ bà ấy đang đứng lù lù trước mặt tôi, ánh mắt lạnh lùng hơn gấp nhiều lần đôi mắt của bất kỳ người phụ nữ Abnegation nào tôi từng thấy.
“Chào con.” Bà bước vòng qua bàn, quan sát anh.
“Nhìn con lớn hơn rồi.”
“Chà, thì đúng rồi. Thời gian thường đưa con người ta đi theo con đường đó mà.”
Anh đã sớm biết bà ấy còn sống. Anh đã phát hiện ra điều này bao lâu rồi?
Bà ta mỉm cười. “Vậy là cuối cùng con cũng đến...”
“Không phải vì lý do bà nghĩ,” anh ngắt lời. “Chúng tôi đang chạy trốn bọn Erudite, và cơ hội thoát thân duy nhất đòi hỏi tôi phải tiết lộ danh tính cho đám tay sai vũ trang nghèo nàn đến tội nghiệp của bà.”
Chắc là bà phải chọc giận anh sao đó rồi. Nhưng tôi không thể ngăn mình nghĩ rằng nếu khám phá ra mẹ mình vẫn còn sống sau một thời gian quá dài nghĩ rằng bà đã qua đời, tôi sẽ không đời nào nói chuyện với bà cái cách mà Tobias đang nói chuyện với mẹ anh, dù cho bà ấy đã gây nên những chuyện động trời động đất như thế nào đi nữa.
Sự thật trong ý nghĩ đó làm tôi đau nhói. Tôi gạt nó qua một bên, và thay vào đó, tập trung vào những gì đang diễn ra trước mắt. Trên bàn, đằng sau bà Evelyn là một cái bản đồ lớn đánh dấu chi chít. Bản đồ thành phố, rõ rành rành, nhưng tôi không biết những vệt đánh dấu có nghĩa gì. Trên bức tường sau lưng bà treo một cái bảng đen có vẽ một biểu đồ bằng phấn. Tôi không giải đoán được thông tin trên biểu đồ; nó được viết bằng các ký hiệu tôi chẳng tài nào hiểu nổi.
“Thì ra thế.” Nụ cười của bà Evelyn không đổi, nhưng không còn nét vui vẻ như trước nữa. “Vậy hãy giới thiệu với mẹ cô bạn đồng hành của con đi nào.”
Mắt bà lướt xuống hai bàn tay đang đan vào nhau của chúng tôi. Những ngón tay của Tobias lập tức rời ra. Anh trỏ vào tôi trước. “Đây là Tris Prior. Anh cô ấy, Caleb. Và bạn của họ Susan Black.”
“Prior,” bà ấy nói. “Tôi có biết vài Prior, nhưng không có ai tên Tris cả. Tuy nhiên, Beatrice thì...”
“Chà,” tôi nói, “Tôi cũng biết vài người Eaton còn sống, nhưng không có ai tên Evelyn cả.”
“Evelyn Johnson là cái tên tôi ưa dùng. Đặc biệt là trong một tập hợp toàn Abnegation.”
“Tris là cái tên tôi ưa dùng,” tôi đáp trả. “Và chúng tôi không phải là Abnegation. Không phải tất cả, ít ra là thế.”
“Đó có phải là các điểm dân số không?” Anh Caleb lên tiếng từ sau lưng tôi. Anh bước lên trước, miệng há hốc. “Và... cái gì đây? Những căn nhà an toàn của nhóm vô môn phái hả? Anh chỉ vào đường kẻ đầu tiên trên biểu đồ, có ghi 7.......... Grn Hse. “Ý tôi là, những nơi này, trên bản đồ? Chúng là những căn nhà an toàn, như cái này, đúng không?
“Cậu thắc mắc hơi nhiều đó,” bà Evelyn nói, nhíu một bên mày. Tôi nhận ra biểu hiện này. Nó thuộc về Tobias — cũng giống như sự khó chịu của bà với những câu hỏi. “Vì lý do bảo mật nên tôi sẽ không trả lời bất kỳ thắc mắc nào trong những câu cậu vừa hỏi. Dầu sao chăng nữa, cũng đã đến giờ ăn tối rồi.”
Bà ra hiệu về phía cửa. Susan và anh Caleb bắt đầu đi ra, theo sau là tôi, Tobias và mẹ anh đi cuối cùng. Chúng tôi lại diễu ngang qua mớ máy móc dày đặc.
“Mẹ không tới nỗi khờ,” bà thấp giọng. “Mẹ biết con không muốn dính dáng gì tới mẹ — dù mẹ vẫn không hiểu tại sao...”
Tobias khịt mũi.
“Nhưng,” bà nói tiếp, “Mẹ sẽ đưa ra lời mời một lần nữa. Ở đây chúng ta có thể tận dụng sự hỗ trợ của con, và mẹ biết chúng ta có cùng ý kiến về hệ thống môn phái...”
“Evelyn,” Tobias nói. “Tôi đã chọn Dauntless.”
“Lựa chọn có thể đưa ra một lần nữa.”
“Điều gì khiến bà nghĩ tôi thích dành thời gian quanh quẩn nơi nào gần bà?” anh hỏi. Tôi nghe tiếng bước chân anh dừng lại nên đi chậm lại để nghe xem bà ấy trả lời như thế nào.
“Vì mẹ là mẹ của con,” giọng bà suýt vỡ òa, mỏng manh hơn bình thường. “Vì con là con trai của mẹ.”
“Mẹ thật sự không hiểu,” anh đáp. “Mẹ thậm chí còn không có cái khái niệm mơ hồ nhất về những gì đã gây ra cho tôi.” Anh nói nghe như không thở được. “Tôi không muốn gia nhập cái ban vô môn phái nhỏ xinh này của mẹ. Tôi chỉ muốn biến khỏi đây càng nhanh càng tốt mà thôi.”
“Cái ban vô môn phái nhỏ xinh này của mẹ đông gấp đôi nguyên cả phái Dauntless,” bà Evelyn nói. “Tốt hơn hết là con nên coi trọng nó một chút đi. Hành động của nó có thể sẽ định đoạt tương lai cho cái thành phố này đấy.”
Nói xong, bà đi một lèo, bỏ lại anh và tôi đằng sau. Lời bà nói văng vẳng trong tai tôi: đông gấp đôi nguyên cả phái Dauntless. Họ trở nên hùng mạnh như thế này từ lúc nào vậy?
Tobias nhìn tôi, lông mày chùng xuống.
“Anh biết chuyện lâu chưa?” tôi hỏi.
“Khoảng một năm.” Anh dựa lên tường và nhắm mắt lại. “Bà ấy đã gửi cho anh một tin nhắn được mã hóa lúc anh đang ở Dauntless, nói anh đến gặp bà ấy tại sân ga.
Anh đã đến đó, vì tò mò, và rồi bà ấy ở đó. Còn sống.
Không phải một cuộc hội ngộ vui vẻ cho lắm, chắc em cũng đoán được.”
“Tại sao mẹ anh lại bỏ Abnegation?”
“Bà ấy ngoại tình.” Anh lắc đầu. “Chẳng trách được, vì ba anh...” Anh lại lắc đầu. “Chà, cứ cho là ông Marcus không tử tế với bà ấy hơn là với anh đâu.”
“Có phải... đó là lý do anh giận mẹ anh không? Vì đã không chung thủy với ông ấy?”
“Không,” anh cứng giọng, mở mắt ra. “Không, đó không phải là lý do khiến anh tức giận.”
Tôi tiến về phía anh như đang tiếp cận với một con thú hoang dã, bước từng bước cẩn trọng trên nền xi măng. “Vậy thì tại sao?”
“Bà ấy phải rời xa khỏi ba anh, điều đó anh hiểu,” anh nói. “Nhưng bà ấy có nghĩ tới chuyện mang anh theo cùng không?”
Tôi mím môi. “Ồ. Bà đã bỏ anh lại cho ông ta.”
Bà ấy đã bỏ anh lại cho cơn ác mộng tồi tệ nhất của anh. Chẳng trách anh lại căm hận bà.
“Đúng thế.” Anh đá đá lên sàn. “Bà ta đã làm vậy đấy.”
Tay tôi đi tìm tay anh, lóng ngóng, và anh dẫn chúng vào giữa các ngón tay anh. Tôi biết hỏi han vậy là đủ rồi, cho nên bây giờ, tôi để sự im lặng len vào giữa hai đứa cho đến khi anh quyết định phá vỡ nó.
“Theo anh thấy,” anh nói, “tốt hơn nên để những người vô môn phái làm bạn hơn là làm kẻ thù.”
“Có lẽ. Nhưng cái giá của tình bằng hữu đó là gì?”
tôi hỏi.
Anh lắc đầu. “Anh không biết. Nhưng có thể chúng ta chẳng còn lựa chọn nào khác.”