← Quay lại trang sách

Chương 17

TOBIAS KỂ TÔI nghe câu chuyện như sau:

Khi mấy tên Erudite tới chỗ cầu thang dưới sảnh tầng dưới, có một người đã không lên tầng hai. Thay vì vậy chị ta lại chạy tuốt lên tầng cao nhất của tòa nhà. Ở đó chị ta đã sơ tán một nhóm Dauntless trung thành — bao gồm cả Tobias — bằng một đường thoát khẩn cấp trong trường hợp hỏa hoạn mà bọn phản phé Dauntless còn chưa kịp phong tỏa. Những Dauntless trung thành đó tập trung ở sảnh dưới lầu một và chia làm bốn nhóm, cùng một lúc xông lên cầu thang, bao vây lũ phản phé Dauntless đang tụ tập quanh khoảng nghỉ giữa mấy cái thang máy.

Những tên phản phé Dauntless không chuẩn bị cho một sự kháng cự dữ dội như vậy. Bọn chúng cứ tưởng rằng ngoại trừ chúng ra thì ai cũng bất tỉnh mất rồi, vậy nên chúng chỉ còn biết đánh bài chuồn.

Người phụ nữ Erudite đó là chị Cara. Chị của Wil.

Hít một hơi thật sâu, tôi để cái áo khoác trượt khỏi người và kiểm tra cái vai. Một chiếc đĩa kim loại nhỏ bằng cái móng tay đang dán chặt vào da tôi. Viền xung quanh là một đường màu xanh dương, như thể ai đó đã tiêm thuốc nhuộm xanh vào những mạch máu li ti ngay dưới da tôi. Nhíu mày, tôi cố cạy cái đĩa kim loại khỏi tay, và cảm thấy một cơn đau tới cắt da.

Nghiến chặt răng, tôi thọt mũi dao xuống dưới cái đĩa và nạy nó lên. Tôi hét lên qua hai kẽ răng khi cơn đau đâm xuyên qua người tôi, làm mọi thứ tối sầm trong một tích tắc. Nhưng tôi cứ đẩy tiếp, mạnh hết sức có thể, cho tới khi cái đĩa tróc khỏi da đủ để có thể dùng ngón tay mà cầm nó được. Bên dưới cái đĩa là một mũi kim.

Tôi nín thở, cầm cái đĩa bằng mấy đầu ngón tay và giựt ra lần cuối cùng. Lần này, cái mũi kim rốt cuộc cũng rời ra. Nó dài bằng ngón tay út và tanh mùi máu tôi. Tôi lờ đi dòng máu đang chảy dọc cánh tay và cầm cái đĩa với cái mũi kim lên soi dưới cái đèn ngay trên bồn rửa.

Cứ nhìn vết mực màu xanh trên tay tôi và trên cái mũi kim cũng biết bọn chúng chắc chắn đã tiêm thứ gì đó vô người chúng tôi. Nhưng là cái quái gì chứ? Thuốc độc?

Thuốc nổ?

Tôi lắc đầu. Nếu chúng muốn giết chúng tôi thì phần lớn đã nằm bất tỉnh sẵn ra đó rồi, bắn chết chúng tôi dễ như ăn cháo mà. Cái thứ này bất kể là gì thì cũng không phải nhằm mục đích giết chúng tôi.

Có tiếng gõ cửa. Tôi không biết tại sao — tôi đang ở trong nhà vệ sinh công cộng mà.

“Tris, có ở trong đó không?” Cái giọng nghẹt nghẹt của Uriah hỏi.

“Có,” tôi gọi đáp.

Uriah nhìn đỡ hơn một tiếng trước — nó đã rửa sạch máu dính trên miệng, và mặt mũi cũng đã có chút màu sắc trở lại. Tự nhiên tôi bị bất ngờ bởi vẻ đẹp trai của nó — các đường nét trên mặt nó đều cân đối, đôi mắt sẫm màu và đầy sức sống, làn da màu đồng chắc khỏe. Và có lẽ chắc nó vốn đã đẹp trai như vậy từ trước tới giờ rồi. Chỉ có mấy thằng con trai đẹp trai như vậy từ nhỏ mới mang cái vẻ kiêu hãnh đó trên nụ cười của mình.

Không như Tobias, người cứ mỗi lần cười là xấu hổ, như thể anh thấy ngạc nhiên khi ngay từ đầu người ta đã bận tâm đến mặt mũi anh.

Cổ họng tôi đau rát. Tôi đặt cái mũi kim và cái đĩa lên thành bồn rửa.

Uriah nhìn từ tôi tới cái mũi kim trên tay tới vệt máu đang chảy lỏng tỏng từ vai xuống cổ tay tôi.

“Eo ơi,” nó kêu.

“Lỡ lơ là mất một chút đó mà,” tôi nói. Tôi đặt cái mũi kim xuống và vớ lấy một tờ giấy vệ sinh, chùi vết máu trên cánh tay. “Những người khác thế nào rồi?”

“Marlene đang tếu táo như thường lệ.” Nụ cười của Uriah nở rộng hơn, làm lộ cái lúm đồng tiền. “Lynn thì đang càu nhàu. Mà khoan đã, cậu tự cạy cái đó ra khỏi tay đó hả?” Nó chỉ vào cái mũi kim. “Trời đất mẹ ơi, Tris. Thần kinh cậu làm bằng xi măng hả?”

“Mình nghĩ mình cần một miếng băng gạc.”

“Cậu nghĩ vậy hả?” Uriah lắc đầu. “Nên chườm tí đá lên mặt luôn đi. Mà bà con đang tỉnh dậy hết rồi đó.

Ngoài kia y chang cái nhà thương điên.”

Tôi sờ mặt. Chỗ bị Eric lấy báng súng thụi vô mềm oặt — phải bôi thuốc vô không thôi nó lại thâm tím lại.

“Eric chết chưa?” tôi không biết mình muốn nghe câu trả lời như thế nào, rồi hay chưa.

“Chưa. Có mấy Candor quyết định đem hắn đi chữa trị.” Uriah cau mày với cái bồn nước. “Cái gì đó về việc đối xử nhân đạo với tù nhân. Lão Kang đang thẩm vấn riêng hắn. Không muốn tụi mình ở đó, quấy rầy hòa bình hay cái mèo gì không biết.”

Tôi khịt mũi.

“Vậy đó. Mà chẳng ai hiểu mô tê gì hết,” nó nói tiếp, chống tay lên cái bồn nước kế bên. “Sao lại đùng đùng xông vô đây, bắn mấy cái thứ đó vô người tụi mình rồi hạ cả đám bất tỉnh làm gì chứ? Sao không giết tụi mình luôn cho rồi?”

“Mù tịt,” tôi nói. “Mình thấy tác dụng duy nhất của chuyện này là giúp chúng biết được ai là pergent và ai không. Nhưng đó không thể là lý do duy nhất giải thích cho hành động của chúng được.”

“Mình không hiểu chúng nhắm tới tụi mình làm cái gì nữa. Ý mình là, hồi trước lúc chúng cố điều khiển trí óc người ta để tạo ra cho mình một đội quân thì không nói làm gì, nhưng còn bây giờ? Có vẻ đâu còn ích lợi gì nữa đâu?”

Tôi nhíu mày trong lúc ấn một cái khăn giấy sạch lên vai để cầm máu. Nó nói đúng. Mụ Jeanine đã có một đội quân rồi. Vậy sao giờ cần giết những pergent nữa?

“Ả Jeanine không muốn giết chết hết tất cả mọi người,”

tôi chầm chậm nói. “Cô ta biết như vậy là phi logic. Cả xã hội sẽ ngưng hoạt động nếu thiếu bất kỳ một phái nào, bởi vì mỗi phái đào tạo thành viên của mình cho những công việc đặc thù riêng. Đó là thứ mụ ta muốn điều khiển.”

Tôi liếc nhìn mình trong gương. Hàm tôi đang sưng vù lên, và dấu ngón tay còn in hằn trên cánh tay tôi.

Thật tởm.

“Cô ta hẳn phải đang âm mưu cho một trình mô phỏng khác,” tôi nói. “Giống như lần trước, nhưng lần này, cô ta muốn bảo đảm rằng tất cả mọi người điều nằm trong tầm ảnh hưởng của nó hoặc là chết.”

“Nhưng trình mô phỏng chỉ có hiệu lực trong một khoảng thời gian nhất định thôi,” nó đáp. “Nó sẽ vô dụng trừ khi cậu đang cố đạt được một mục tiêu đặc biệt nào đó.”

“Đúng thế.” Tôi thở dài. “Mình không biết. Mình chẳng hiểu nữa.” Tôi lượm cái mũi kim lên săm soi.

“Mình cũng không biết cái này là cái quái gì nữa. Nếu như nó giống những mũi tiêm vào trình mô phỏng khác thì nó chỉ xài được một lần. Vậy tại sao lại bắn tụi mình với những thứ này chỉ để làm chúng ta bất tỉnh không thôi? Chuyện này không có lý gì hết.”

“Mình không biết, Tris, nhưng ngay bây giờ tụi mình đang có cả một tòa nhà bự đầy nhóc những con người đang bay hết hồn vía để giải quyết đây nè. Thôi đi kiếm cho cậu cái băng dán coi.” Thằng nhỏ ngừng một lúc và nói, “Giúp mình một việc được không?”

“Việc gì?”

“Đừng nói ai biết mình là pergent.” Nó cắn môi.

“Shauna là bạn mình, và mình không muốn chị ấy tự nhiên quay qua sợ mình như sợ cọp đâu.”

“Chắc rồi,” tôi nói, cười gượng. “Mình sẽ giữ bí mật.”

Cả đêm tôi không ngủ để lấy kim ra khỏi tay mọi người.

Sau vài giờ tôi thôi không cố nhẹ nhàng nữa. Chỉ lấy hết sức mà nhổ ra thôi.

Tôi phát hiện ra là thằng bé Candor mà Eric đã bắn chết tên là Bobby, và rằng Eric đã ở trong trạng thái ổn định, và rằng trong số hàng trăm người trong Trung Tâm Ác Ôn, chỉ có tám mươi người là không bị mấy mũi kim đâm vô thịt mà thôi, bảy mươi trong số đó là Dauntless, một trong số đó là Christina. Nguyên buổi tối tôi cứ suy nghĩ mãi về những cái kim và huyết thanh và trình mô phỏng, cố gắng nhìn thấu được tâm trí của kẻ thù.

Sáng hôm sau, tôi đã hết sạch kim cần nhổ và đến căn tin, dụi mắt liên tục. Ông Jack Kang đã thông báo là chúng tôi sẽ có một cuộc họp vào buổi trưa, cho nên có lẽ ăn xong tôi sẽ đánh được một giấc dài.

Khi bước vô căn tin, tôi thấy anh Caleb.

Anh Caleb chạy ào tới và cẩn thận ôm tôi. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Tôi tưởng mình đã tới được “cảnh giới” không cần anh trai mình nữa, nhưng tôi không nghĩ có tồn tại một cấp độ như thế. Tôi thả lỏng người dựa vào anh một lát, và bắt gặp ánh mắt Tobias qua vai anh Caleb.

“Em có sao không?” Anh Caleb hỏi, lùi lại. “Mặt em...”

“Không sao đâu,” tôi đáp. “Chỉ bị sưng thôi à.”

“Anh nghe nói bọn chúng lùa một nhóm pergent vô một chỗ rồi bắt đầu nổ súng. Ơn trời chúng không tìm thấy em.”

“Thiệt ra là có. Nhưng chúng mới chỉ giết được một người thôi,” tôi nói. Tôi bóp bóp cánh mũi để xả bớt áp lực trong đầu. “Nhưng em không sao. Anh tới đây hồi nào?”

“Khoảng mười phút trước. Anh tới với chú Marcus,”

anh nói. “Với tư cách là thủ lĩnh chính trị duy nhất hiện giờ của bọn anh, chú ấy thấy trách nhiệm của mình là phải đến đây — bọn anh không biết gì về cuộc tấn công cho tới một tiếng trước. Một người vô môn phái đã thấy bọn Dauntless xông vào tòa nhà, và tin tức mất một lúc mới lan truyền được hết trong cộng đồng những người vô môn phái.”

“Ông Marcus còn sống hả?” tôi hỏi. Chúng tôi chưa bao giờ thật sự thấy ông ta chết khi trốn khỏi khu Amity, nhưng tôi chỉ tự cho là vậy thôi — tôi không chắc về cảm giác của mình nữa. Thất vọng, có lẽ, vì tôi ghét việc ông ta đã đối xử tệ bạc với Tobias? Hay nhẹ nhõm, vì vị thủ lĩnh cuối cùng của phái Abnegation vẫn còn sống? Có thể nào cảm thấy cả hai không?

“Chú ấy với Peter đã thoát được, và quay lại thành phố,” anh Caleb kể.

Tôi không hề nhẹ nhõm khi biết Peter vẫn chưa chết.

“Vậy Peter đâu?”

“Em sẽ chẳng ngạc nhiên gì khi biết nơi nó đang ở đâu,” anh Caleb trả lời.

“Erudite,” tôi nói. Tôi lắc đầu. “Thật là cái đồ...”

Tôi còn không nghĩ được từ nào đủ thâm để mô tả cái thằng đó. Rõ ràng tôi phải tăng cường vốn từ vựng của mình thôi.

Mặt anh Caleb nhăn lại một chút, rồi anh gật đầu và chạm vào vai tôi. “Em có đói không? Muốn anh lấy gì cho ăn không?”

“Dạ, làm ơn,” tôi nói. “Em sẽ quay lại ngay, được chứ?

Em phải nói chuyện với Tobias.”

“Được rồi.” Anh Caleb siết chặt tay tôi và bỏ đi, chắc là đứng xếp hàng trong cái hàng dài cả dặm trong căn tin.

Trong một lúc, Tobias và tôi đứng cách nhau cả mấy mét.

Anh từ từ tiến lại gần tôi.

“Em ổn chứ?” anh hỏi.

“Trả lời câu này thêm một lần nữa là em ói luôn cho coi,” tôi nói. “Em không bị viên đạn nào găm vô đầu, đúng không? Vậy nên em ổn.”

“Cái mặt em sưng tới mức nhìn em như đang ngậm cả họng thức ăn trong miệng vậy, và em còn mới đâm Eric một dao,” anh cau mày. “Vậy mà anh không được phép hỏi thăm em sao?”

Tôi thở dài. Tôi nên nói với anh về ông Marcus, nhưng tôi không muốn nói ở đây, khi có quá nhiều người xung quanh như thế này. “Vâng. Em ổn mà.”

Tay anh lọng cọng cứ như anh đang nghĩ tới chuyện chạm vào tôi nhưng rồi quyết định không làm vậy.

Rồi anh suy nghĩ lại và quàng tay qua người tôi, kéo tôi lại gần.

Đột nhiên tôi nghĩ có lẽ mình sẽ để cho ai khác đi mà mạo hiểm đi, có lẽ tôi sẽ chỉ bắt đầu cư xử vị kỷ để mình có thể ở gần Tobias mà không làm tổn thương anh. Tất cả những gì tôi muốn làm là vùi mặt lên cổ anh và quên hết tất cả mọi thứ trên đời đi.

“Anh xin lỗi đã mất nhiều thời gian như vậy mới đến được chỗ em,” anh thì thầm với tôi.

Tôi thở dài và khẽ chạm lên lưng anh chỉ bằng mấy đầu ngón tay. Tôi có thể cứ đứng đây mãi cho đến khi bất tỉnh vì kiệt sức, nhưng tôi không nên thế; tôi không thể.

Tôi lùi lại và nói, “Em có chuyện muốn nói với anh. Tụi mình đi chỗ nào khác yên ắng hơn được không?”

Anh gật đầu, và chúng tôi đi ra khỏi căn tin. Một Dauntless mà chúng tôi đi ngang qua la lên, “Ôi, nhìn nè! Tobias Eaton kìa!”

Suýt nữa tôi quên béng mất cuộc thẩm vấn, và cái tên mà Tobias đã phải tiết lộ cho tất cả những Dauntless.

Một người khác la, “Hồi nãy tôi thấy ba cậu ở đây đó, cậu Eaton! Cậu có định đi trốn không?”

Tobias thẳng người lên và cứng đơ ra, như thể có ai đang chĩa súng lên ngực anh chứ không phải trêu chọc anh thế này.

“Đúng rồi đó, có định đi núp không, đồ hèn?”

Vài người xung quanh phá lên cười. Tôi nắm cánh tay Tobias và dẫn anh đến thang máy trước khi anh kịp phản ứng lại. Nhìn anh như thể sắp sửa đấm vô mặt ai đó. Hoặc tệ hơn.

“Em đang định nói với anh — ông ta đi chung với anh Caleb,” tôi nói. “Ông ấy và Peter đã thoát khỏi khu Amity...”

“Vậy em còn chờ gì nữa hả?” anh nói, nhưng không gay gắt. Giọng anh nghe như xa rời khỏi con người anh, như nó đang trôi nổi giữa hai chúng tôi.

“Đó không phải loại tin tức để thông báo trong căn tin,” tôi nói.

“Cũng đúng,” anh nói.

Hai đứa tôi im lặng chờ đợi trong thang máy, Tobias cứ cắn môi và nhìn xa xăm vào khoảng không. Anh cứ như vậy miết tới tầng mười tám, cái tầng đang trống không. Ở đó, sự im lặng bao trùm lấy tôi như cái ôm của anh Caleb lúc nãy, làm tôi thấy bình tĩnh. Tôi ngồi xuống một cái ghế dài ngoài rìa căn phòng thẩm vấn, và Tobias kéo cái ghế của ông Niles lại ngồi đối diện tôi.

“Không phải có hai cái này lận hả ta?” anh nói, nhíu mày nhìn cái ghế.

“Có,” tôi nói. “Em, ờ... nó bị quăng ra ngoài cửa sổ rồi.”

“Lạ thật,” anh nói. Anh ngồi xuống. “Rồi, giờ em muốn nói về chuyện gì? Chuyện gì về ông Marcus hả?”

“Không, không phải. Mà anh... có sao không?” tôi cẩn thận nói.

“Anh không có viên đạn nào găm trong đầu, đúng không?” anh nói, nhìn hai tay. “Cho nên anh không sao.

Anh muốn nói về chủ đề khác.”

“Em muốn nói về những trình mô phỏng,” tôi nói.

“Nhưng trước tiên, có chuyện khác — mẹ anh nghĩ tiếp theo mụ Jeanine sẽ nhắm đến những người vô môn phái. Rõ ràng là bà đã sai — và em không biết tại sao.

Đâu có giống như phái Candor sẵn sàng tham chiến hay gì đâu...”

“Chà, nghĩ về chuyện đó xem,” anh nói. “Suy xét mọi lẽ, như một Erudite.”

Tôi lườm anh.

“Gì chứ?” anh nói. “Nếu em mà không nghĩ được thì những người còn lại bọn anh mất hết hy vọng rồi.”

“Được rồi,” tôi nói. “Ừm... nó phải là vì phái Dauntless và Candor là những mục tiêu thích hợp nhất. Bởi vì...

những người vô môn phái thì ở rải rác khắp nơi, trong khi chúng ta thì đang ở cùng một chỗ.”

“Chính xác,” anh nói. “Còn nữa, khi ả Jeanine tấn công phái Abnegation, cô ta có trong tay mọi dữ liệu của Abnegation. Mẹ anh nói với anh là phái Abnegation có lưu hồ sơ về dân số pergent của những người vô môn phái, điều này có nghĩa là sau cuộc tấn công, mụ Jeanine hẳn đã biết được tỉ lệ pergent trong cộng đồng vô môn phái cao hơn trong phái Candor. Điều đó biến họ thành một mục tiêu không thích hợp.”

“Được rồi. Vậy nói em nghe lại về cái huyết thanh coi,”

tôi nói. “Nó có vài thành phần đúng không?”

“Hai,” anh gật đầu. “Bộ phát tín hiệu và chất lỏng dẫn nhập trình mô phỏng. Bộ phát tín hiệu đưa các thông tin từ máy tính đến bộ não, và ngược lại, chất lỏng biến đổi bộ não để đưa nó vào trong trạng thái mô phỏng.”

Tôi gật đầu. “Và bộ phát tín hiệu chỉ có tác dụng cho một trình mô phỏng thôi đúng không? Sau đó thì sao?”

“Nó tự hủy,” anh đáp. “Theo như anh biết, phái Erudite chưa tạo ra được một bộ phát có thể tồn tại cho hơn một trình mô phỏng, mặc dù cái trình mô phỏng tấn công kéo dài lâu hơn bất cứ trình mô phỏng nào anh từng thấy trước đây.”

Mấy tiếng “theo như anh biết” đọng lại trong đầu tôi.

Jeanine đã dành cả đời để chế ra các loại huyết thanh.

Nếu cô ta vẫn đang săn lùng pergent như thế này thì hẳn cô ta vẫn đang bị ám ảnh với việc phải tạo ra cho công nghệ này nhiều phiên bản cải tiến hơn nữa.

“Mấy chuyện này là sao, Tris?” anh hỏi.

“Anh thấy cái này chưa?” tôi nói, chỉ vô miếng băng đang dán trên vai.

“Chưa nhìn kĩ,” anh nói. “Uriah và anh bận khiêng mấy Erudite bị thương lên tầng bốn suốt cả sáng nay.”

Tôi lột một góc miếng băng lên cho anh coi, để lộ vết thủng — máu đã ngừng chảy, ơn trời — còn vết mực xanh không có dấu hiệu gì cho thấy đã mờ đi cả. Rồi tôi đút tay vô túi để lấy ra cái mũi kim đã găm vô tay tôi.

“Khi chúng tấn công vô đây, chúng không cố giết bọn em. Chúng chỉ bắn bọn em với cái này,” tôi nói.

Anh chạm vào vùng da bị nhuộm xanh quanh vết thương. Lâu nay tôi không để ý vì ngày nào cũng nhìn thấy trước mặt, nhưng nhìn anh khác so với trước đây, so với kỳ nhập môn. Anh đã để râu trên mặt mọc nhiều một chút, và chưa bao giờ tôi thấy tóc anh dài hơn vậy —

nhiều đủ để cho tôi thấy nó màu nâu, không phải đen.

Anh cầm cái mũi kim từ tay tôi và vỗ lên cái đĩa kim loại. “Hình như nó rỗng ruột. Nó chắc chắn để chứa cái thứ xanh lè kia trên tay em. Sau khi em bị bắn có gì xảy ra không?”

“Chúng quăng vô phòng mấy cái ống hình trụ xịt khói ra từ hai đầu, rồi mọi người lăn ra bất tỉnh. Vậy đó, tất cả mọi người ngoại trừ Uriah, em và những pergent khác.”

Tobias không có vẻ gì ngạc nhiên. Tôi nheo mắt.

“Anh đã biết Uriah là pergent rồi?”

Anh nhún vai. “Dĩ nhiên. Anh cũng chạy trình mô phỏng của nó mà.”

“Và anh không nói cho em biết?”

“Thông tin đặc quyền,” anh nói. “Thông tin nguy hiểm.”

Tôi cảm thấy một ngọn lửa giận dữ bùng lên trong người — anh định giấu tôi bao nhiêu chuyện nữa đây?

— và cố gắng kìm nó lại. Dĩ nhiên anh không thể kể tôi biết Uriah là pergent rồi. Anh chỉ tôn trọng quyền riêng tư của Uriah thôi mà. Cũng hợp lý thôi.

Tôi hắng giọng. “Anh đã cứu mạng bọn em, anh biết đó,” tôi nói. “Eric đang cố săn lùng và xử đẹp bọn em.”

“Anh nghĩ tụi mình bắt đầu mất đầu mối coi đứa nào cứu mạng đứa nào rồi.” Anh nhìn tôi một lúc lâu.

“Mà,” tôi lên tiếng để phá tan sự im lặng. “Sau khi phát hiện mọi người đều đã bất tỉnh, Uriah đã chạy lên tầng trên để cảnh báo mấy người ở trên đó, còn em thì lên tầng hai để coi tình hình. Eric lùa hết những pergent đến thang máy, và hắn cứ cố chọn coi sẽ giữ lại ai để bắt về theo hắn. Hắn nói hắn được phép đem về hai người.

Em không biết hắn đem người về để làm gì.”

“Lạ thật,” anh nói.

“Anh có ý tưởng gì không?”

“Theo phỏng đoán của anh thì cái mũi kim là để tiêm vô người em một bộ chuyển phát tín hiệu,” anh nói, “và khí ga là một dạng thuốc xịt của cái chất lỏng biến đổi bộ não. Nhưng tại sao...” Một nếp nhăn xuất hiện giữa hai hàng lông mày anh. “À. Mụ ta làm mọi người ngủ để biết ai là pergent.”

“Anh nghĩ đó là lý do duy nhất để bắn mấy cái bộ chuyển phát vô mọi người hả?”

Anh lắc đầu, mắt anh dán chặt lên mắt tôi. Màu xanh của chúng thẫm và quen thuộc tới nỗi tôi có cảm giác nó có thể nuốt chửng cả người mình. Trong một tích tắc tôi ước gì nó nuốt luôn cho rồi, để tôi có thể thoát khỏi cái chốn này và khỏi tất cả những thứ đã xảy ra.

“Anh nghĩ là em đã biết rồi,” anh nói, “nhưng em muốn anh phản biện lại. Và anh không làm thế đâu.”

“Bọn chúng đã chế tạo được một loại bộ chuyển phát dài hơi,” tôi nói.

Anh gật đầu.

“Vậy là bây giờ tất cả chúng ta đều bị nối với rất nhiều trình mô phỏng,” tôi bổ sung. “Có lẽ là mụ Jeanine muốn nhiều chừng nào là có chừng đó.”

Anh gật đầu thêm một lần nữa.

Hơi thở của tôi run lên khi tôi mở miệng nói những từ tiếp theo. “Chuyện này vô cùng không hay, Tobias ạ.”

Trong hành lang bên ngoài căn phòng thẩm vấn, anh dừng bước, tựa lưng vào tường.

“Vậy là em đã tấn công Eric,” anh nói. “Suốt trong lúc bọn chúng xâm nhập hả? Hay khi em ở cạnh thang máy?”

“Lúc ở cạnh thang máy,” tôi đáp.

“Có một điều anh không hiểu,” anh nói. “Em đang ở tầng dưới. Em có thể bỏ chạy mà. Nhưng thay vào đó, em lại quyết định một mình một bóng dấn thân vào một đám Dauntless vũ trang đầy mình. Và anh sẵn lòng cá là em còn không có khẩu súng nào trong tay.”

Tôi mím môi.

“Có đúng không?” anh hỏi.

“Điều gì khiến anh nghĩ em không cầm súng?” tôi cau có.

“Kể từ cuộc tấn công tới giờ em có đụng được vô khẩu súng nào đâu,” anh nói. “Anh hiểu lý do, vì chuyện của Wil, nhưng...”

“Không liên quan gì tới chuyện đó hết.”

“Không ư?” Anh nhướn mày.

“Em chỉ làm việc phải làm thôi.”

“Đúng. Nhưng em đã có thể tiêu đời rồi,” anh nói, thôi không dựa tường nữa mà đứng thẳng dậy để đối mặt với tôi. Những cái hành lang trong khu Candor rất rộng, đủ để tôi giữ khoảng cách giữa hai chúng tôi rộng chừng như tôi muốn. “Đáng lẽ em nên ở lại bên Amity.

Đáng lẽ em phải tránh xa tất cả những chuyện này ra.”

“Không, em không nên,” tôi nói. “Anh nghĩ anh biết điều gì là tốt nhất cho em hả? Anh không biết gì hết. Em đang muốn phát điên lên với phái Amity. Còn ở đây em thấy... sảng khoái trở lại.”

“Đó chính là điều kì cục, xét trên việc em đang cư xử như một bệnh nhân tâm thần bạo lực vậy,” anh nói. “Nó không phải là can đảm, cái việc em chọn ở trong vị trí ngày hôm qua ấy. Nó còn hơn cả ngu ngốc — nó là tự sát. Em không có chút quan tâm nào tới cái mạng của mình hay sao?”

“Dĩ nhiên là có!” Tôi nạt lại. “Em chỉ cố làm điều gì đó có ích thôi!”

Mất vài giây anh chỉ nhìn tôi chằm chằm.

“Em còn hơn cả một Dauntless,” anh trầm giọng.

“Nhưng nếu như em muốn chỉ giống họ thôi, tự đẩy mình vào những tình huống nực cười chỉ vì những lý do không đâu vô đâu và ăn miếng trả miếng với kẻ thù mà không màng gì tới đạo đức thì cứ việc. Anh cứ tưởng em tốt đẹp hơn như vậy chứ, nhưng có lẽ anh lầm rồi.”

“Anh không nên sỉ nhục phái Dauntless,” tôi nói. “Họ đã tiếp nhận anh khi anh không còn nơi nào để đi. Tin tưởng giao cho anh một công việc tốt. Cho anh gặp tất cả bạn bè của anh.”

Tôi dựa lên tường, mắt dán xuống đất. Những viên đá lát sàn trong Trung Tâm Ác Ôn lúc nào cũng là màu đen và trắng, và ở đây, chúng được xếp kiểu ca rô. Nếu hai mắt không quá tập trung, tôi sẽ thấy chính xác thứ mà phái Candor không đặt lòng tin — màu xám. Có lẽ Tobias và tôi không cũng không tin nó. Không hẳn.

Người tôi quá nặng nề, hơn mức mà bộ khung xương của tôi có thể đỡ được, quá nặng nên lẽ ra tôi phải rơi xuyên sâu qua sàn nhà mới phải.

“Tris.”

Tôi vẫn mở mắt trừng trừng.

“Tris.”

Cuối cùng tôi cũng nhìn anh.

“Anh chỉ không muốn mất em thôi.”

Chúng tôi cứ đứng đó một lúc. Tôi không muốn nói ra điều đang nghĩ trong đầu, rằng anh có thể đã nói đúng.

Có một phần trong tôi khao khát được tiêu biến đi, đấu tranh để đến với ba mẹ và Will để tôi không phải đau đớn vì họ nữa. Một phần trong tôi muốn chứng kiến bất cứ thứ gì sắp sửa đến.

“Vậy ra anh là anh của nó hả?” Lynn hỏi. “Vậy là tui đoán được ai là người được di truyền gen tốt rồi.”

Tôi phá ra cười khi thấy cái vẻ mặt của anh Caleb, mắt chữ O miệng chữ A luôn.

“Khi nào anh phải về?” tôi nói, thúc cùi chỏ vô người anh.

Tôi cắn một miếng từ cái bánh sandwich anh Caleb xếp hàng lấy cho tôi trong căn tin. Có anh ở đây làm tôi lo lắng, khi trộn cái phần hẩm hiu còn sót lại của gia đình với phần hẩm hiu còn sót lại của cuộc sống Dauntless của tôi. Anh sẽ nghĩ gì về bạn bè tôi, về môn phái của tôi? Môn phái của tôi sẽ nghĩ gì về anh?

“Sớm thôi,” anh nói. “Anh không muốn ai phải lo lắng.”

“Em không biết là Susan đã đổi tên thành ‘Ai’ đó,” tôi nhướn mày.

“Ha-ha,” ảnh nói, làm mặt hề với tôi.

Anh em trong nhà đùa cợt với nhau đáng ra phải đem lại cảm giác quen thuộc, nhưng với chúng tôi thì không.

Phái Abnegation không khuyến khích bất cứ gì có khả năng làm cho ai đó cảm thấy không thoải mái, bao gồm cả việc đùa cợt.

Tôi có thể thấy hai chúng tôi cẩn trọng với nhau như thế nào, nhất là bây giờ, khi chúng tôi đã khám phá ra một cách liên hệ khác giữa hai đứa sau khi mỗi đứa gia nhập một phái mới và sau cái chết của ba mẹ tôi. Mỗi lần nhìn anh, tôi nhận ra anh là gia đình duy nhất còn sót lại của tôi và tôi cảm thấy khao khát, khao khát đến tuyệt vọng có anh ở gần bên, khao khát đến tuyệt vọng được thu hẹp khoảng cách giữa hai anh em.

“Susan có phải là một người bỏ phái Erudite khác không?” Lynn hỏi, lấy nĩa đâm một miếng đậu leo. Uriah và Tobias vẫn đang xếp hàng lấy đồ ăn, đứng chờ sau cả hai tá Candor đang bận cãi vã để lấy được đồ ăn.

“Không, nhỏ đó là hàng xóm của tụi này hồi nhỏ. Nó là Abnegation,” tôi nói.

“Và anh đang dây dưa với con nhỏ hả?” nó hỏi anh Caleb. “Bộ anh không nghĩ vậy hơi ngu hả? Ý tui là khi tất cả chuyện này kết thúc, hai người sẽ ở hai phái khác nhau, sống ở những nơi hoàn toàn khác nhau...”

“Lynn,” Marlene nhắc, chạm lên vai con nhỏ, “im cái miệng bồ giùm cái được không?”

Bên kia phòng, một cái bóng xanh làm tôi chú ý. Chị Cara mới vừa bước vào. Tôi để miếng bánh kẹp xuống, cơn đói biến mất, và tôi liếc mắt lên nhìn chị ấy trong khi vẫn cúi đầu thấp xuống. Chị ta đi đến tuốt cái góc bên kia căn tin, nơi những người tị nạn Erudite đang ngồi thành mấy bàn. Hầu hết bọn họ đều đã trút bỏ những bộ đồ màu xanh, thay bằng đồ màu trắng và đen, nhưng họ vẫn còn mang kính. Tôi cố tập trung vào anh Caleb — nhưng cả anh Caleb cũng đang nhìn mấy Erudite kia.

“Tôi không thể quay lại Erudite hay khá gì hơn bọn họ,” anh Caleb nói. “Khi chuyện này kết thúc, tôi sẽ không có phái nào để thuộc về cả.”

Lần đầu tiên tôi mới để ý nhìn anh Caleb buồn như thế nào khi nhắc đến phái Erudite. Tôi đã không nhận ra quyết định rời bỏ nó đã khó khăn với anh tới dường nào.

“Anh có thể đến ngồi với họ,” tôi nói, hất đầu về phía những người tị nạn Erudite.

“Anh không quen mấy người đó.” Anh nhún vai. “Anh mới chỉ ở đó vỏn vẹn có một tháng, nhớ chứ?”

Uriah thả cái khay xuống bàn, càu nhàu. “Mình nghe lén được ai đó nói về cuộc thẩm vấn Eric trong lúc xếp hàng. Rõ ràng là tên đó hầu như chẳng biết cái quái gì về kế hoạch của mụ Jeanine cả.”

“Cái gì?” Lynn dộng cái nĩa lên bàn. “Vậy cũng được hả?”

Uriah nhún vai và ngồi xuống.

“Anh chẳng ngạc nhiên,” anh Caleb nói.

Ai nấy hết thảy đều nhìn anh ấy.

“Sao chứ?” anh Caleb đỏ mặt. “Sẽ rất ngu ngốc khi gửi gắm cả kế hoạch của mấy đứa chỉ cho một người. Sẽ khôn ngoan hơn nhiều nếu cho những người làm việc chung với mấy đứa mỗi người biết một chút. Bằng cách đó, nếu có ai phản bội thì mất mát cũng không quá lớn.”

“Ồ,” Uriah thốt lên.

Lynn lượm cái nĩa lên và bắt đầu ăn lại.

“Mình nghe nói phái Candor làm được kem,”

Marlene nói, ngó nghiêng qua lại để nhìn cái hàng lấy cơm. “Mấy bồ biết đó, kiểu như ‘bị tấn công thì đúng là tệ thật nhưng bét ra còn có món tráng miệng mà ăn’ đó.”

“Chưa gì đã thấy khá hơn rồi đó,” Lynn nói khô khốc.

“Mà chắc nó không ngon bằng bánh của Dauntless đâu,” Marlene rền rĩ. Con nhỏ thở dài, một túm tóc màu nâu xỉn phủ xuống mắt nó.

“Tụi em có bánh ngon tuyệt cú mèo,” tôi nói với anh Caleb.

“Tụi anh có nước uống có ga,” anh nói.

“A, nhưng anh có cái gờ nào nhìn ra một con sông ngầm dưới lòng đất không?” Marlene hỏi, quẹt lông mày. “Hay một căn phòng nơi anh có thể đối mặt với tất tần tật những cơn ác mộng của mình cùng một lúc?”

“Không,” anh Caleb đáp, “và nói thật, anh thấy vậy ổn với anh.”

“Nhát-cáy,” Marlene ngân nga.

“Tất tần tật những cơn ác mộng hả?” Anh Caleb hỏi, mắt sáng rực lên. “Nó hoạt động như thế nào? Ý anh là mấy cơn ác mộng đó được làm ra bởi máy tính hay bộ não của mọi người?”

“Trời đất quỷ thần ơi,” Lynn gục đầu xuống hai tay.

“Tới rồi đó.”

Marlene lao vào mô tả những trình mô phỏng, và tôi để giọng của nó, của anh Caleb trôi từ tai này qua tai kia trong khi ăn nốt miếng bánh. Sau đó, bất chấp tiếng lanh canh của dao muỗng nĩa và tiếng rền rĩ của hàng trăm cuộc nói chuyện xung quanh, tôi gục đầu lên bàn và chìm vào giấc ngủ.