Chuong 36
NHƯNG TÔI VẪN đang thở. Không sâu; không đủ dễ chịu, nhưng vẫn đang thở. Peter vuốt mắt tôi xuống. Nó có biết tôi chưa chết không? Mụ Jeanine biết không? Mụ ta có thấy tôi thở không?
“Đem cái xác tới phòng thí nghiệm,” mụ ta nói. “Lịch mổ xác đã được lên cho chiều nay rồi.”
“Tuân lệnh,” Peter đáp.
Peter đẩy cái bàn tới. Tôi nghe nhiều tiếng rì rầm xung quanh khi chúng tôi đi ngang qua nhóm khán giả Erudite. Tay tôi trượt khỏi thành bàn khi chúng tôi rẽ qua một khúc cua, và đập vô tường. Đầu ngón tay tôi có cảm giác đau nhói nhưng tôi không nhúc nhích gì được bàn tay, dù đã cố hết sức.
Lần này, khi chúng tôi bước qua hành lang nơi có những tên phản phé Dauntless, hành lang im phăng phắc. Thoạt đầu Peter còn đi chầm chậm, rồi sau đó nó rẽ qua một góc khác và tăng tốc. Nó gần như bay xuyên qua cái hành lang tiếp theo, rồi đột ngột dừng lại. Tôi đang ở đâu? Không lý nào đã tới phòng thí nghiệm rồi được. Sao nó lại dừng lại?
Tay Peter lòn xuống dưới đầu gối và vai tôi, rồi nó nhấc bổng tôi lên. Đầu tôi gục lên vai nó.
“Nhỏ người vậy mà nặng quá đó, Cứng Đơ à,” nó lầm bầm.
Nó biết tôi còn tỉnh. Nó biết.
Tôi nghe một loạt tiếng bíp, và tiếng cửa trượt — một cánh cửa bị khóa, đang mở ra.
“Cái gì...” Giọng của Tobias. Tobias! “Ôi trời. Ôi...”
“Tha cho tôi, đừng bù lu bù loa lên, được chứ?” Peter nói. “Con nhỏ chưa chết đâu; chỉ bị tê liệt tạm thời thôi.
Nó chỉ kéo dài khoảng một phút à. Giờ chuẩn bị vắt giò lên cổ mà chạy đi là vừa.”
Tôi không hiểu.
Làm sao Peter biết?
“Để tôi bế cô ấy,” Tobias nói.
“Không. Anh bắn giỏi hơn tôi. Cầm lấy súng tôi nè.
Tôi sẽ cõng nó.”
Tôi nghe tiếng khẩu súng được rút khỏi bao. Tobias xoa lên trán tôi. Hai người họ bắt đầu chạy.
Đầu tiên tất cả những gì tôi nghe được là tiếng chân của họ, và đầu tôi cứ nẩy lên nẩy xuống đau muốn chết.
Tay chân tôi thì ngứa ran như có kiến bò. Peter hét lên với Tobias, “Trái!”
Rồi một tiếng kêu vang lên bên kia hành lang. “Này, cái gì...!”
Một tiếng đùng. Rồi im re.
Chạy nhanh hơn. Peter la, “Phải!” Tôi nghe một tiếng nổ khác, thêm một tiếng nữa. “Chu cha,” nó lầm bầm.
“Chờ đã, dừng lại ở đây!”
Cơn ngứa chạy dọc xương sống tôi. Tôi mở mắt ra khi Peter đang mở một cánh cửa khác. Nó phóng qua đó, và ngay trước khi tôi bị đập đầu lên khung cửa, tôi dang tay ra và ngăn cả bọn lại.
“Coi chừng!” tôi gượng giọng. Cổ họng tôi vẫn đang nghẹn ứ như lúc nó tiêm tôi và tôi thấy thật khó thở.
Peter nghiêng người để đem được tôi qua cửa, rồi lấy gót chân đá nó đóng lại và thả tôi xuống đất.
Căn phòng gần như trống không, ngoại trừ một dãy mấy cái thùng rác rỗng không dọc một bức tường và một cái cửa kim loại hình vuông ở tường bên kia, vừa đủ to để nhét vừa cái thùng.
“Tris,” Tobias gọi, cúi xuống tôi. Mặt anh tái mét, gần như vàng vọt.
Có quá nhiều thứ tôi muốn nói. Câu đầu tiên phun ra là “Beatrice.”
Anh bật cười yếu ớt.
“Beatrice,” anh sửa lại, và chạm môi lên môi tôi. Tôi cong ngón tay nắm áo anh.
“Trừ khi hai người muốn tôi ói hết lên người, còn không thì để dành sau đi.”
“Chúng ta đang ở đâu đây?” tôi hỏi.
“Đây là lò đốt rác,” Peter đáp, vỗ vỗ lên cánh cửa hình vuông. “Tôi đã tắt nó rồi. Tôi sẽ dẫn chúng ta ra con hẻm. Và rồi tài ngắm bắn của anh tốt nhất là phải ‘bách phát bách trúng’ đó, Số Bốn, nếu anh muốn sống sót mà thoát khỏi khu Erudite.”
“Đừng có lo về tài ngắm bắn của tôi,” Tobias nạt lại.
Anh, giống tôi, đang đi chân đất.
Peter mở cánh cửa ra cái lò đốt rác. “Tris, đi trước đi.”
Cái máng đổ rác rộng khoảng chừng một mét và cao một mét hai. Tôi thò một chân vô cái máng, và với sự giúp đỡ của Tobias, quăng nốt chân còn lại vô. Dạ dày tôi muốn rớt ra ngoài khi trượt xuống một cái ống ngắn bằng kim loại. Rồi một loạt con lăn lăn qua lưng tôi khi tôi trượt qua chúng.
Tôi ngửi thấy mùi lửa và tro, nhưng tôi không bị cháy.
Rồi tôi rớt xuống, tay đập lên bức tường kim loại, khiến tôi phải rên lên. Tôi đáp xuống một cái sàn xi măng, mạnh, và cơn đau từ cú va đập nện lên cẳng chân tôi.
“Ôi.” Tôi lách qua khỏi cái lỗ và la lên, “Tới luôn bác tài!”
Lúc Peter rớt xuống, té nghiêng qua một bên chứ không đáp xuống bằng chân, thì chân tôi cũng hết đau rồi. Nó rên lên và lết khỏi cái lỗ để còn sửa sang lại.
Tôi nhìn quanh. Chúng tôi đang ở trong cái lò đốt, nếu không có những đường sáng tạo thành hình một cái cửa nhỏ nhỏ ở bên kia thì chắc đã tối thui tối mò rồi.
Sàn chỗ này thì làm bằng kim loại đặc, chỗ kia thì làm bằng lưới kim loại. Không khí nồng nặc mùi rác rến thối rữa và lửa.
“Đừng có nói là tôi chưa bao giờ dẫn mấy người tới chỗ nào hay ho đó,” Peter nói.
“Không mơ xa như thế,” tôi nói.
Tobias rớt xuống sàn, hạ cánh đầu tiên bằng chân rồi chúi tới trước, quỳ trên đầu gối, nhăn nhúm lại. Tôi kéo anh đứng lên và nép sát vào người anh. Tất cả các mùi hương và hình ảnh và cảm giác của cả thế giới có cảm giác như đều được phóng đại lên. Tôi suýt nữa đã chết, nhưng thay vào đó lại đang còn sống. Nhờ Peter.
Trong số tất thảy mọi người.
Peter bước ngang qua cái vỉ lò và mở một cánh cửa nhỏ nhỏ. Ánh sáng tràn vào trong lò đốt. Tobias cùng tôi bước ra khỏi cái mùi lửa, ra khỏi cái lò kim loại, vào trong căn phòng tường bằng xi măng chứa cái lò đó.
“Có súng đó không?” Peter nói với Tobias.
“Không,” Tobias đáp. “Tôi phát hiện ra là mình có thể bắn đạn bằng lỗ mũi nên để nó trên lầu rồi.”
“Ôi, im đi.” Peter chìa một khẩu súng khác ra trước mặt nó và rời khỏi lò đốt. Một cái hành lang tối tăm với những đường ống lồ lộ trên trần chào đón chúng tôi, nhưng nó chỉ dài chừng hơn ba mét. Cái biển treo cạnh cánh cửa ghi LỐI RA. Tôi còn sống, và tôi đang rời đi.
Mảnh đất giữa khu tổng hành dinh Dauntless và Erudite nhìn từ hướng ngược lại khác hẳn. Tôi đồ rằng mọi thứ nhất định nhìn khác đi khi người ta không đang trên đường đi gặp Diêm Vương.
Khi chúng tôi tới cuối con hẻm, Tobias nép sát vô tường và rướn tới một chút vừa đủ để nhìn qua góc bên kia. Mặt anh không biểu lộ cảm xúc gì, anh thò một tay qua bên kia chỗ ngoặt, giữ thăng bằng với bức tường, và bắn hai phát. Tôi nhét hai ngón tay vô lỗ tai và cố không chú ý tới tiếng súng nổ cùng những thứ khiến tôi phải nhớ đời.
“Nhanh lên,” Tobias gọi.
Chúng tôi vắt giò lên cổ mà chạy, Peter trước, tới tôi, rồi tới Tobias, xuyên qua Đại lộ Wabash. Tôi ngoái ra sau lưng để nhìn coi Tobias đã bắn ai, và thấy hai người đang nằm dưới đất sau tổng hành dinh Erudite. Một người không nhúc nhích gì, còn người kia thì đang bấu chặt một cánh tay và chạy về phía cánh cửa. Bọn chúng sẽ cử người đuổi theo chúng tôi.
Đầu óc tôi mụ mị đi, có lẽ vì kiệt sức, nhưng adrenaline giữ cho tôi chạy tiếp.
“Hãy đi đường nào bất hợp lý nhất ấy!” Tobias la.
“Cái gì?” Peter hỏi lại.
“Đường bất hợp lý nhất,” Tobias nói. “Để bọn chúng không tìm ra chúng ta!”
Peter lượn qua bên trái, xuống một con hẻm khác, con hẻm này chất đầy những thùng cạc-tông chứa những cái mền xơ bung và một đống gối dơ òm — chỗ trú ngụ cũ của những người vô môn phái, tôi nghĩ vậy. Nó nhảy phóc qua một cái hộp, tôi đi sau vấp phải ngay cái hộp đó, đá nó lăn lông lốc ra sau.
Đến cuối hẻm nó rẽ trái, hướng về phía đầm lầy.
Chúng tôi quay lại Đại lộ Michigan. Từ tổng hành dinh Erudite có thể nhìn thấy chỗ này mờ mờ, nếu có ai đó thèm nhìn xuống đường.
“Ý tồi rồi!” Tôi hét lên.
Peter tiếp tục rẽ phải. Ít nhất đường phố ở đây còn thoáng đãng — không có cây đèn đường nào để né hay cái ổ voi nào để nhảy qua. Phổi tôi muốn bốc cháy như thể tôi đang hít khí độc vô người vậy. Chân tôi, ban đầu chỉ đau thôi, còn giờ thì tê cứng luôn, thiệt ra vậy tốt hơn. Từ nơi nào đó xa lơ xa lắc, tôi nghe thấy tiếng kêu.
Rồi đột nhiên tôi nhận ra: Việc làm vô lý nhất đó là ngừng chạy.
Tôi chụp tay áo Peter và kéo nó tới tòa nhà gần nhất.
Nó cao sáu tầng, có nhiều cửa sổ rộng xếp thành một hàng kẻ ô, phân chia bởi những cây cột bằng gạch. Cánh cửa đầu tiên tôi mở thử bị khóa, thế là Tobias bắn vô ô cửa sổ kế bên cho tới khi nó bể tan nát, và mở cửa từ bên trong.
Tòa nhà hoàn toàn trống không. Không có lấy một cái ghế hay cái bàn nào. Và có quá nhiều cửa sổ. Chúng tôi tiến tới chỗ cầu thang thoát hiểm, và tôi bò xuống dưới đợt cầu thang đầu tiên để nó che chắn cho chúng tôi.
Tobias ngồi xuống kế bên tôi, và Peter ngồi đối diện cả hai đứa, đầu gối co lên ngực.
Tôi cố thở đều lại và lấy lại hồn vía, nhưng chẳng dễ gì. Tôi đã chết. Tôi đã chết rồi mà, và rồi không phải vậy, tại sao? Nhờ Peter? Peter ư?
Tôi trợn mắt nhìn nó. Nó trông vẫn hết sức ngây thơ vô tội, dù thành tích của nó chứng tỏ điều ngược lại. Tóc nó vẫn nằm mượt mà trên đầu, bóng láng và đen tuyền, cứ như không phải cả bọn mới vừa chạy bán sống bán chết cả dặm đường xong vậy. Đôi mắt tròn to của nó lướt qua cầu thang rồi chiếu lên mặt tôi.
“Sao?” nó hỏi. “Sao nhìn tui cái kiểu đó?”
“Ông đã làm cách nào vậy?” tôi hỏi.
“Cũng không khó lắm đâu,” nó nói, “tui nhuộm tím một loại huyết thanh gây tê liệt tạm thời rồi tráo nó với tử huyết thanh. Thay cái dây đáng ra là để ghi nhịp tim bằng một cái dây bị hư. Cái phần với cái máy điện tâm đồ thì khó hơn; tui phải cầu viện tới sự giúp đỡ của vài Erudite với mấy cái điều khiển từ xa và này nọ — mà tui có giải thích bà cũng không hiểu đâu.”
“Sao ông lại làm vậy?” tôi nói. “Ông muốn tui chết mà. Ông còn sẵn sàng tự xuống tay mà! Cái gì đã thay đổi vậy?”
Nó mím môi và quay đi, không lâu lắm. Rồi nó mở miệng, hơi do dự, và nói, “Tui không muốn nợ nần ai hết. Được chứ? Cái chuyện tui nợ bà cái gì đó làm tui muốn bệnh. Tui tỉnh dậy giữa đêm mà cảm giác như sắp ói ra hết tới nơi. Mắc nợ một đứa Cứng Đơ ư? Thật nực cười. Nực cười kinh khủng. Và tui không chịu được.”
“Ông đang nói gì vậy? Bộ ông nợ tui cái gì sao?”
Nó đảo mắt. “Khu Amity. Có người bắn tui — viên đạn bay ngang tầm đầu; đáng lẽ nó đã găm ngay vô giữa hai mắt tui rồi. Và bà đã xô tui ra khỏi đường đạn. Trước đó nữa tụi mình đang huề nhau — tui suýt giết bà trong kỳ nhập môn, bà thì suýt giết tui trong vụ tấn công mô phỏng; tụi mình huề, đúng chứ? Nhưng sau đó...”
“Cậu điên rồi,” Tobias nói. “Đó không phải cách thế giới tồn tại... cái cách ai ai cũng lo quân bình tỉ số như thế.”
“Không phải ư?” Peter nhướn mày. “Tôi không biết thế giới anh sống thì sao, nhưng trong thế giới của tôi, người ta chỉ làm điều gì đó cho người khác khi có một hoặc hai lý do. Lý do đầu tiên là khi họ muốn được đáp trả thứ gì. Lý do thứ hai là khi họ cảm thấy họ mắc nợ anh thứ gì.”
“Đó không phải là lý do người ta làm điều gì đó cho ông,” tôi nói. “Thỉnh thoảng họ làm bởi vì họ yêu quý ông thôi. Chà, có lẽ không phải ông, nhưng...”
Peter khịt mũi. “Đó chính xác là thứ rác rưởi tui đợi nghe từ miệng một tên Cứng Đơ bị hoang tưởng đó.”
“Thôi, tôi đoán là chúng ta nên chắc là cậu nợ chúng tôi,” Tobias nói. “Nếu không, cậu sẽ lại chạy tới đầu quân cho bất cứ ai hứa hẹn mà cậu thấy xuôi tai nhất mất.”
“Đúng thế,” Peter nói. “Rất có khả năng như vậy đó.”
Tôi lắc đầu. Tôi không tưởng tượng được sống theo cái cách của nó sẽ như thế nào — lúc nào cũng phải ghi nhớ coi ai đã cho tôi cái gì và tôi nên cho lại người ta cái gì, không thể yêu hay trung thành hay tha thứ, một người chỉ có một mắt với một con dao lăm lăm trong tay, tìm kiếm con mắt của người khác để chọc lòi ra. Đó không phải là cuộc sống. Đó là một phiên bản nhợt nhạt hơn của cuộc sống. Tôi băn khoăn không biết nó học điều đó từ đâu.
“Vậy anh nghĩ khi nào chúng ta ra khỏi đây được?”
Peter hỏi.
“Mấy tiếng nữa,” Tobias đáp. “Chúng ta nên đến khu Abnegation. Giờ này thì đó là nơi những người vô môn phái và những Dauntless không bị kết với trình mô phỏng đang ở rồi.”
“Tuyệt,” Peter phán.
Tobias quàng tay qua người tôi. Tôi tựa lên lưng anh, và nhắm nghiền mắt lại để không phải nhìn thấy Peter.
Tôi biết có rất nhiều thứ để nói, dù tôi không chắc chắn chính xác nó là gì, nhưng chúng tôi không thể nói ra ở đây, hay bây giờ.
Khi chúng tôi rảo bước trên những con đường tôi từng gọi là nhà, những cuộc trò chuyện đi từ lắp ba lắp bắp đến hết hẳn, và mọi cặp mắt đổ dồn lên mặt, lên người tôi. Theo như họ biết — và tôi chắc là họ biết, vì mụ Jeanine rất biết cách loan báo tin tức — tôi đã đi chầu ông bà từ sáu tiếng trước rồi. Tôi để ý thấy vài người vô môn phái tôi đi ngang quang được đánh dấu bởi vết mực xanh. Bọn họ đã ở trong trạng thái trực-mô phỏng.
Giờ tôi đã ở đây, và an toàn, tôi mới nhận ra bàn chân tôi đầy vết cắt do chạy chân không trên vỉa hè gồ ghề và những đống kính vỡ. Mỗi bước đều nhói đau. Tôi tập trung vào đó thay vì những tia nhìn.
“Tris?” ai đó gọi to phía trước chúng tôi. Tôi ngẩng đầu lên, và tôi nhìn thấy Uriah với Christina trên lề đường, đang so súng. Uriah làm rớt luôn khẩu súng lên cỏ và phóng tới. Christina theo chân nó, nhưng với tốc độ chậm hơn.
Uriah dang tay ra định ôm tôi, nhưng Tobias đã đặt một tay lên vai nó ngăn lại. Tôi thấy trào lên sự biết ơn.
Tôi không nghĩ mình chịu được cái ôm của Uriah, hay những câu hỏi han của nó, hay sự ngạc nhiên của nó vào lúc này.
“Cô ấy đã trải qua rất nhiều chuyện,” Tobias nói. “Cô ấy chỉ cần được ngủ thôi. Cô ấy sẽ ở ngay cuối đường —
số ba mươi bảy. Ngày mai hãy đến thăm nhé.”
Uriah cau mày nhìn tôi. Dauntless thường không hiểu được rằng đôi khi cũng phải dè dặt một chút, và Uriah trước giờ luôn vang danh là một Dauntless. Nhưng nó hẳn phải tôn trọng những điềuTobias vừa phán về tôi, vì nó gật đầu và nói, “Được rồi. Ngày mai.”
Christina giơ tay ra khi tôi đi ngang qua nó và siết nhẹ vai tôi. Tôi cố đứng thẳng dậy, nhưng cơ bắp của tôi như một cái lồng, giữ vai tôi gù xuống. Những cặp mắt dõi theo tôi suốt trên đường, dán chặt lên gáy tôi.
Tôi cảm thấy nhẹ nhõm khi Tobias dẫn đầu đoàn lên cái cầu thang trước căn nhà màu xám từng thuộc về ông Marcus Eaton.
Tôi không biết sức mạnh nào đã giúp Tobias bước qua ngưỡng cửa. Với anh, căn nhà này hẳn phải chứa toàn âm thanh dội lại của hai vị phụ huynh đang la hét và tiếng dây thắt lưng vụt vun vút và hàng tiếng đồng hồ ngồi bó gối trong cái tủ đựng đồ chật chội, tăm tối, thế mà nhìn anh vẫn bình thường khi dẫn Peter và tôi vào trong phòng bếp. Nếu có gì thì là anh đứng còn cao hơn.
Nhưng có thể đó mới là Tobias — khi ngỡ là phải yếu đuối, anh lại mạnh mẽ.
Cô Tori, ông Harrison và bà Evelyn đang ở trong bếp.
Cảnh tượng đó làm tôi thấy ngợp. Tôi dựa vai lên tường và nhắm nghiền mắt lại. Hình ảnh cái bàn hành hình như dán chặt lên mi mắt tôi. Tôi mở mắt ra. Tôi cố hít thở. Họ đang nói chuyện nhưng tôi không nghe được họ đang nói gì. Tại sao bà Evelyn lại ở đây, trong nhà ông Marcus? Ông ấy đâu rồi?
Bà Evelyn vòng một tay qua người Tobias và tay kia vuốt má anh, chạm má lên má anh. Bà nói gì đó với anh.
Anh mỉm cười với bà trong lúc lùi lại. Mẹ và con trai, đã giảng hòa. Tôi không chắc điều đó là sáng suốt.
Tobias quay người tôi lại, một tay vẫn đặt trên cánh tay tôi, tay kia đặt lên eo, để tránh vết thương trên vai tôi, đẩy tôi về phía cầu thang. Chúng tôi cùng nhau trèo lên.
Trên lầu là phòng ngủ khi xưa của ba mẹ anh và phòng ngủ cũ của anh, với một cái phòng tắm ở giữa, và chỉ có chừng đó. Anh dẫn tôi vô phòng anh, và tôi đứng đó một lúc, nhìn quanh căn phòng nơi anh đã trải qua phần lớn cuộc đời.
Anh giữ tay mình trên tay tôi. Anh cứ chạm vô người tôi bằng cách này hay cách khác kể từ lúc chúng tôi đi khỏi cái cầu thang trong tòa nhà kia, như thể anh nghĩ tôi có thể bể vụn mất nếu anh không giữ tôi lại.
“Ông ấy không hề bước vô đây sau khi anh bỏ đi, anh khá chắc đó,” Tobias nói. “Vì lúc anh quay lại đây thì không thấy có gì bị dịch chuyển hết.”
Những thành viên của phái Abnegation không sở hữu nhiều đồ trang trí lắm, vì chúng được xem là sự tự nuông chiều bản thân, nhưng trong những thứ chúng tôi được phép có thì anh có hết. Một chồng giấy vở. Một cái kệ sách nhỏ. Và, lạ lùng thay, một bức tượng thủy tinh màu xanh đặt trên tủ áo.
“Mẹ lén đưa cho anh hồi anh còn nhỏ. Nói anh giấu đi,” anh nói. “Ngày diễn ra buổi lễ, anh đã đặt nó lên tủ trước khi đi. Để ông ta nhìn thấy. Một hành động thách thức nho nhỏ đó mà.”
Tôi gật đầu. Thật lạ lùng khi đứng tại nơi gợi lại một kỷ niệm hoàn chỉnh như vậy. Căn phòng này là một Tobias-mười-sáu-tuổi, sắp sửa chọn phái Dauntless để thoát khỏi người cha của mình.
“Giờ thì xem đến cái chân của em nào,” anh nói.
Nhưng anh không cử động, chỉ nhích ngón tay lên phần bên trong cùi chỏ tôi.
“Dạ,” tôi nói.
Chúng tôi đi qua phòng tắm ở sát bên, và tôi ngồi xuống trên thành của cái bồn tắm. Anh ngồi xuống kế tôi, một tay đặt trên đầu gối tôi khi anh vặn vòi nước và bít cái lỗ thoát nước lại. Nước dâng lên trong bồn, ngập tới bàn chân tôi. Máu tôi nhuộm hồng cả nước.
Anh cúi xuống cái bồn và đặt bàn chân tôi lên lòng anh, chấm nhẹ những vết cắt sâu hơn bằng một cái khăn thấm. Tôi không cảm thấy gì hết. Ngay cả khi anh bôi bọt xà phòng lên, tôi cũng chẳng cảm thấy gì. Nước trong bồn chuyển sang màu xám.
Tôi cầm cục xà phòng lên và chà chà nó trong tay cho tới khi da tôi toàn bọt là bọt. Tôi với tới và chà những ngón tay mình lên tay anh, cẩn thận không chừa những đường chỉ tay và kẽ tay. Cảm giác thật tốt khi được làm điều gì đó, được làm sạch cái gì đó, và lại được đặt tay mình vào tay anh.
Chúng tôi để nước văng tung tóe lên sàn phòng tắm khi tự vỗ nước lên người để rửa sạch xà phòng. Nước làm tôi thấy lạnh, nhưng tôi rùng mình và không thèm quan tâm. Anh lấy khăn tắm và bắt đầu lau khô tay cho tôi.
“Em không...” nghe giọng tôi như đang bị siết cổ. “Gia đình em chết hết cả rồi, còn không thì lại là phản bội; làm sao em...”
Tôi đang lảm nhảm cái gì chẳng có nghĩa gì hết. Tiếng nấc dâng lên trong người tôi, trong tâm trí tôi, mọi thứ.
Anh kéo tôi lại gần, và nước trong bồn ngập tới cẳng chân tôi. Anh ôm chặt. Tôi lắng nghe nhịp tim của anh, và sau một lúc, tìm được cách để cho nhịp điệu đó vỗ về tôi.
“Từ giờ anh sẽ là gia đình của em,” anh nói.
“Em yêu anh,” tôi nói.
Tôi đã nói điều đó một lần, trước khi tôi đến tổng hành dinh Erudite, nhưng lúc đó anh đang ngủ. Tôi không biết sao mình lại không nói khi anh có thể nghe được. Có lẽ vì tôi đã sợ phải phó thác cho anh điều riêng tư đến thế, lòng tin yêu của tôi. Hay sợ rằng tôi đã không biết yêu một người là như thế nào. Nhưng giờ tôi nghĩ điều đáng sợ chính là không nói ra trước khi quá trễ.
Không nói ra trước khi suýt nữa là quá trễ đối với tôi.
Tôi là của anh, và anh là của tôi, trước giờ vẫn luôn là như thế.
Anh nhìn tôi. Tôi chờ đợi với hai bàn tay níu lấy tay anh để ngồi cho vững trong khi anh đang cân nhắc câu trả lời.
Anh nhíu mày với tôi. “Nói lại xem.”
“Tobias,” tôi nói. “Em yêu anh.”
Da anh trơn tuột vì nước và anh có mùi như mồ hôi và áo tôi dính lên tay anh khi anh vòng hai tay qua người tôi. Anh vùi mặt lên cổ tôi và hôn tôi ngay trên xương đòn, hôn lên má tôi, hôn lên môi tôi.
“Anh cũng yêu em,” anh nói.