← Quay lại trang sách

Chương 3 1-

Clifford Winter khởi hành đúng dự định, lúc mười giờ bốn lăm phút sáng thứ bảy, để đi về miền Tây. Ông nhét bộ đồ chơi quần vợt và chiếc vợt vào túi thể thao và khi tìm thấy chiếc xe du lịch có tài xế mà gã thư ký của ông đã thuê sẵn, ông không cần đến những hành lý khác, lên xe, chạy thẳng đến câu lạc bộ quần vợt. Tại đây, một cô gái đa năng mà ông từng gặp đã thu xếp cho ông một buổi tập dượt.

Clifford coi trọng những giờ giấc của đời sống riêng tư. Tháp tùng ông chuyến đi này là Sam Underhill, luật sư của luật sư, một trong những nhân viên trong bộ tham mưu nhỏ mà Công ty Hóa chất Hỗn hợp, cái công ty khổng lồ mà Clifford là nhân vật thứ năm, có thể thứ tư, thuê. Clifford trên đường đến San Diego để phối kiểm lại những điểm pháp lý tế nhị liên quan đến một phiếu đặt hàng của một hãng chế tạo phi cơ, cần một người đi theo có thể đọc những bản văn chữ nhỏ mà không ngủ gật. Ông đã chọn Sam, bởi qua kinh nghiệm những chuyến trước, ông biết gã không phiền lòng khi được làm những việc lặt vặt, và còn có vẻ khoái là khác. Sáng nay Clifford chơi quần vợt bởi tin tưởng có thể giao phó cho Sam mọi việc, bất cứ việc gì.

Vậy là Sam đi lấy các hành lý – của Clifford và của hắn ta, nhét lên taxi, đến giữ phòng ngủ, và ôm ghì lấy điện thoại. Nhiệm vụ chính của hắn là tìm ra Michael, con trai Winter. Nhưng gã còn phải làm những việc khác, trước khi bắt tay vào công việc mà hắn linh cảm là sẽ khó khăn. Hắn gọi điện thoại đến New York, kiểm soát xem thư ký của ông Winter có nhở nhắc bà Winter về ngày sinh nhật của bà, bằng một bó hoa, và phải là hoa cúc. Rồi hắn gọi điện thoại hẹn gặp Doris, thông báo cho nàng biết ông Winter hân hạnh chờ nàng đến dùng bữa trưa tại khách sạn, và hắn không ngạc nhiên khi biết nàng cũng đã được thông báo bằng điện thoại đường dài từ trước.

Cuối cùng là kiếm Michael.

♣ ♣ ♣

Gia đình Winter đã không nhận được thư của đứa con trai duy nhất của họ từ tháng Mười, và bà Winter, một người đàn bà kém hạnh phúc, làm được đủ mọi việc, ngoại trừ khoản trợ cấp của ông chồng sống ly thân, đã trở nên sợ hãi vì bặt tin Michael quá lâu.

Vì vậy, Clifford đã nhờ một hãng trinh thám tư nối liên lạc lại với con trai, và thông báo hành tung của cậu cho ông biết. Nhờ vậy, ông biết vụ Cesario Flores và phần dính líu của Michael vào đó.

Ông thấy gần gũi với những cảm nghĩ của con trai cùng những hành vi của nó mà ông biết. Clifford từng giao dịch với giới quân sự, có cái nhìn ngây thơ về giai tầng điều khiển quốc gia, biết cái từ trường ảnh hưởng nằm khuất dưới các tài sản có khả năng điều khiển hành động của các chánh án và luật sư. Clifford, bốn tư tuổi, hoạt bát và cởi mở, là một mẫu người đặc biệt.

Nhưng trong đời sống riêng ông có một thảm kịch, đó là cuộc hôn nhân đổ vỡ. Với khuynh hướng hiện sinh, ông không tin tưởng vào sự liên tục của bất cứ chuyện gì, và đã nhanh chóng chấp nhận một sự dàn xếp khi thấy vợ ông rơi vào tình trạng tắt kinh quá sớm.

Nỗi đau của Clifford, nhẹ nhàng nhưng dai dẳng, có nguyên nhân khác, sâu xa hơn. Ông khởi đầu cuộc đời như một kỹ sư hóa học, lại là người có cao vọng làm mới trong địa hạt của mình. Nhưng rồi ông sớm thấy mình không đủ tưởng tượng cần thiết cho cái cao vọng đó, và khám phá ra biệt tài rao hàng của mình. Trong một tập đoàn có hoạt động mang tính toàn cầu, một người biết tìm kiếm và chào bán được hàng cho thị trường mối rất được coi trọng. Không ai ở địa hạt này giỏi hơn, thành công hơn Clifford Winter.

Sự thành công, cũng là sự đổ vỡ của ông.

Trong công việc, dĩ nhiên ông có sử dụng những hiểu biết về hóa học của mình, nhưng lợi khí chính của ông là sức quyến rũ, mà cái nguồn gốc của nó là vẻ buồn phiền tế nhị, dịu dàng luôn rực sáng một cách bất ngờ trên khuôn mặt ông, có thể là trong chầu rượu sau cuộc họp với khách hàng, hay đôi lúc, ngay trong cuộc họp. Khi cái năng lực rao hàng của ông được phép buông thả (ông bán đủ các món hàng, kể cả thời tiết ngày mai) thì con người ông đáng được thưởng thức lắm. Sự buồn phiền ở ông là có thực. Nó bắt nguồn từ niềm thất vọng dịu dàng mà chua chát về sự đổi chiều đời sống của ông.

Vì vậy, trong lúc hầu hết thế hệ của Michael coi thường lớp cha ông thì gã lại phải cưỡng chống sức quyến rũ của ông bố gã. Có lần gã nói với cha. “Cái điều con ức nhất, là ba không cho con cái gì để chống lại ba."

Khi Michael bặt tin hàng tháng trường, khi gã cắt đứt liên lạc bằng mọi cách có thể, thì đó là vì gã cần thấy rõ mình trên tư thế con người độc lập. Michael chống lại cha, để tự cứu mình.

♣ ♣ ♣

Lúc Clifforđ đi vào phòng ngủ khách sạn, mồ hôi nhễ nhại, thì cô gái đã ở đó. Ông hôn nhẹ nàng, rồi cởi quần áo để đi tắm. Sam nói:

- Không thuận lợi trong vụ Michael. Tôi...

- Nó ra sa mạc.

Sam than phiền:

- Một vùng rộng lớn. Biết chỗ nào?

- Bọn trẻ có một chỗ cạnh khu biệt cư da đỏ. Chúng ta chỉ việc đến hiệu buôn bán hàng cho da đỏ mà hỏi.

- Nhưng hiệu buôn bán hàng cho da đỏ ở...?

- Doris là người vùng này, có thể chỉ cho chúng ta.

Ông biến vào phòng tắm. Doris nói:

- Tôi không ưa nổi sa mạc.

Clifford trở ra, nước nhỏ giọt trên thân thể, nói:

- Này, không chừng sẽ rất thích thú nếu kiếm được lô sách về sa mạc, về súc vật trên sa mạc, về các loại xương rồng? Tôi vẫn luôn muốn biết kỹ về đời sống sa mạc, và làm cách nào có thể sống ở đó mà không cần nhiều nước như ta quen cần. Sam, chịu khó một chút nào, đến đại học đi, ở đó chắc họ có những cuốn sách mà chúng ta cần về đề tài đó. Kiếm một mớ, nhưng chỉ một giờ thôi nghe. Tôi có sẵn giầy chơi quần vợt đây rồi, nhưng anh nhớ mua cho mình một đôi nào...

- Chúa ôi, Clifford, chúng ta không thể đi bộ ra sa mạc được. Tôi không thuộc loại thám hiểm đó. Ông hãy đi mà không có tôi...

- Không được, Sam. Đừng yếu xìu vậy, coi dở lắm. Doris còn có thể đi được, chẳng lẽ anh...

- Ai bảo là tôi sẽ đi? Doris ngơ ngác.

- Chắc chắn thú vị lắm.

Clifford vào phòng ngủ, rồi đi ra, trên tay là tiền.

- Này, hãy mua cho Doris đôi thật xinh. Số mấy?

- Sáu. - Doris trông như người đang muốn bỏ chạy.

- Mua cho nàng ba đôi số sáu khác kiểu nhau.

- Ở đâu? Tôi không biết tiệm bán giầy đàn bà nào.

- Tôi đi với anh. - Doris nhanh nhảu.

- Em khỏi đi đâu. Sam, ông bạn già, tôi khoái thấy anh mang đôi giầy cao bồi...

- Tôi không thể mang thứ giầy đó. Hai chân tôi cứ giạng ra...

- Sam. Có phụ nữ trong phòng!

- Tôi phải mang loại giầy đế cao...

- Tùy, kệ xác anh. Cút đi. Doris, rót giùm anh ly rượu mạnh, bỏ đá nhiều vào.

Một giờ sau, Sam trở lại, Clifford đang bắt Doris đọc cái gì đó mô tả các loại thực vật trong vùng sa mạc miền Tây Nam. Ông nói với Sam:

- Dễ thương quá, khi ta hiểu biết về vạn vật học qua giọng miền Tây trầm ấm của nàng.

Cuộc phiêu lưu sau đó thật là khủng khiếp, ngoại trừ với Clifford. Ông bắt Doris mở sách, cho đến khi thấy có cái gì làm ông chú ý, bèn dừng xe lại, và so sánh nó với ảnh trong sách. Lúc đầu Doris và Sam còn hùa theo ông, nhưng sau đành đầu hàng.

Cuối cùng, họ đi qua con đường không rõ nên liệt vào loại đường gì, để đến khu biệt cư da đỏ, dừng lại trước một khu gồm hiệu bách hóa, sở bưu điện, xưởng sửa chữa xe, và một hội trường có vẻ bỏ hoang. Clifford mua những cục đá trong suốt làm kỷ niệm, ba chai nước suối, bông băng cấp cứu... vứt dưới gầm ghế. Họ hỏi tin tức Michael. Không ai biết gì về gã, nhưng họ nói ông tù trưởng đang đi ra đó, và đưa tay chỉ về một hướng chẳng có đường xá gì hết. Họ nói ông ta quen nhiều người da trắng, có thể cho họ biết cậu trai ở đâu.

Đoàn của Clifford lại lên đường. Đi bộ. Doris đã thấm mệt, im lặng và bực bội, nhưng không có cách nào khác ngoài đi theo. Nàng không thể ở lại biệt cư với đám trẻ da đỏ bẩn thỉu vây quanh hoặc từ trong các cửa sổ nhìn nàng. Vậy là cả ba đi tới, Clifford vác theo cả ba đôi giầy của Doris, còn Sam thì ôm đống sách.

Niềm vui của Clifford càng lúc càng phình ra vì tin là sắp gặp con trai, mặc cho Sam cứ hoài nghi, và Clifford đã đúng. Michael chờ họ trong lều tù trưởng.

Gã hôn cha, và cười lớn khi nhìn tình trạng toán thám hiểm của ông, rồi giới thiệu họ với Arthur, người bạn da đỏ của gã. Tên này chứng tỏ sự hiểu biết đúng đắn của hắn bằng cách tỏ ra thích Clifford. Hắn mời mọi người ăn tối. Clifford không do dự nhận lời ngay, nhưng Sam nhìn vào đôi bàn tay và quần áo của bà vợ Arthur, kẻ sẽ nấu món ăn đãi họ, hỏi ông có thể dùng xe Clifford về khách sạn, rồi cho xe trở lại hay không?

Clifford lúc đó đang mải chuyện với Arthur, không nghe thấy Sam nói gì. Sam gọi:

- Clifford, ông có nghe tôi nói không?

- Sam, tôi đang nói chuyện với tù trưởng.

- Clifford, trời sắp tối rồi.

- Hoàng hôn ở đây đẹp lắm. Đêm lại có trăng tròn.

Tù trưởng hỏi:

- Quí vị có thích ở lại đêm nay với chúng tôi không?

- Tôi đang hy vọng được mời đây. - Clifford đáp.

Đó là lúc Doris bật khóc. Nàng khóc kín đáo, không cố ý làm ai chú ý đến mình. Nàng ngồi trên một tảng đá, và để nước mắt nhỏ giọt xuống. Clifford giải thích:

- Cô ta chỉ mệt thôi. Doris, cưng, chuyện gì vậy?

- Tôi thù sa mạc. Tôi thù nó, và tôi thù anh.

- Tốt lắm. Hầu hết mọi người đều đâm ra thù tôi một khi họ hiểu được tôi. – Clifford nói. Michael cười. Ông tiếp. - Tôi cho cô biết việc này. Tôi tặng Sam cho cô đấy, và ngược lại. Hai người có thể lấy xe về khách sạn với nhau, uống vài ly, rồi thưởng thức nhau. Trước hết, dĩ nhiên hai người phải đi bộ từ đây đến chỗ để xe, theo hướng này này.

Sam nhìn chòng chọc vào Clifford:

- Tôi biết đường rồi. Ông nên nhớ ngày mai chúng ta có hẹn từ tám giờ đến mười giờ.

- Hủy vụ đó đi. Hẹn lại vào buổi chiều. Tìm được thằng con hoang này khó quá! – Ông chỉ Michael. - Vì vậy tôi không thể để ai hối thúc tôi được.

- Họ chờ chúng ta ở San Diego.

- Sam, mai là ngày chủ nhật, cứ việc nghỉ ngơi đi.

Sam đến gần ông ta, rỉ tai:

- Ông biết là tôi dư sức kiếm gái cho tôi mà.

- Vui mừng được nghe vậy. Và anh đang có quyền lựa chọn. – Quay sang Doris, ông thêm. - Lần sau đến đây, tôi sẽ gọi em.

Nàng lắc đầu và bỏ đi.

♣ ♣ ♣

Đó là một đêm tuyệt đẹp.

Sau bữa tối, Arthur dẫn họ lên sân thượng. Mái tôn vẫn còn giữ chút hơi nóng của ngày trong khi không khí đã mát lạnh. Ánh trăng chiếu xuống sa mạc như xuống mặt biển, để lại một vùng sáng mênh mông. Hai cha con hút chung thứ cần sa hảo hạng, chuyền nhau điếu thuốc, cùng ngẩng nhìn trời.

Một lúc sau, họ nghe tiếng ngáy của Arthur, và hiểu giờ chỉ còn họ với nhau. Clifford nói như giải thích cho Michael nghe:

- Tội nghiệp. Sam và cô ta tưởng ba làm vậy để hành hạ họ. Thực ra ba, đúng hơn là công ty của ba, đang làm vài cuộc thí nghiệm. Michael hiện người ta toàn chế tạo phân hóa học phải không? Chang còn thú vị gì nữa, và cũng chẳng nhiều lãi. Còn công ty của ba, mà ba có góp chút công lao vào, đi ra ngoài lề thói đó. Một trong những hóa chất mà công ty ba đang nghiên cứu, là loại có thể rải từ máy bay xuống, làm giảm nhịp độ bốc hơi nước, giúp cho cây cối có thể sinh trưởng mà chỉ cần rất ít hơi ẩm, hoặc nước tưới. Con hiểu không?

Michael, không biết tại sao lại chia sẻ niềm xúc động của ông bố. Gã đã cảm thấy tâm trạng này trước đây, nhưng bây giờ, sau khi hai người thưởng thức chung điếu cần sa, gã thích thú hơn.

- Con thấy không, với mật độ dân số tăng ngày một khủng khiếp, chúng ta sẽ phải đối phó với sự thiếu hụt thực phẩm trầm trọng, và đang bắt tay vào việc dùng rong rêu, nhưng con thấy không, những dải đất mênh mông này đang còn bỏ hoang. Ba muốn nói con biết là chính con đã cho ba cái ý tưởng đó.

- Bao giờ?

- Con có nhớ hồi năm ngoái ba đến đây không? Và ba đã nghe con nói vùng này ngày xưa là đáy biển, rồi ba hỏi con liệu có làm được một tiến trình ngược lại không? Dĩ nhiên là mực nước biển thấp hơn vùng này, nhưng bao nhiêu? Ba trăm mét? Thật nguy hiểm, song nó không khỏi làm ba suy nghĩ. Ba muốn cám ơn con về điều này. Ba nhớ ngày đó con quan tâm nhiều đến trái đất, lịch sử, và tương lai nữa. Bây giờ còn vậy không?

- Bớt rồi ba.

- Michael, ngày nay mơ ước trở thành thực tế thật mau chóng. Con đang ở vào một điểm mà ba đã đi quá lâu mới tới. Ba đang sống như cả thế giới này, bằng nhũng nhượng bộ. Nhưng con thì vẫn có thể theo đuổi một cái gì vĩ đại. Ba vẫn luôn tin ở con, luôn nhìn thấy nơi con một ánh sáng, từ ngày con còn là một đứa bé...

Điếu cần sa chuyển qua lại. Rồi Clifford nói:

- Một người quen của ba ở thành phố này gửi tới ba những bài báo về vụ án bạn con bị bắn chết.

- Ba nghĩ sao? - Michael hỏi.

- Chắc cũng giống như con. Quá rõ ràng. Cái cộng đồng này, ba muốn nói cả quốc gia này, không chỉ giới quân sự đâu, sẽ không giết một người mà họ đã tổn hàng trăm ngàn đô la để huấn luyện. Họ cũng sẽ không lên tiếng tán đồng. Dù sao thì chúng ta cũng là người Thiên chúa giáo. Vậy thì họ sẽ dung hòa, bằng cách tống nó vào tù vài ba năm gì đó, có thể tuyên án hai chục năm, rồi sẽ giảm xuống vì lý do hạnh kiểm tốt...

- Thật kỳ quái.

- Cái gì kỳ quái?

- Ai cũng nghĩ vậy, mà chẳng thấy ai phản đôi hay căm phẫn.

- Nó làm cho con căm phẫn?

- Vinnie là bạn con.

Điếu cần sa lại được chuyền qua lại, trong lúc Clifford sắp xếp điều mà ông quyết định nói ra.

- Đúng. Tên lính kia đã làm chuyện khủng khiếp. Nhưng thực ra, con cứ sửa nếu ba nói sai, bạn con có dọa giết hắn không? Và nếu có, hẳn nó phải biết một tên thượng sĩ không quân sẽ phản ứng thế nào chứ? Bạn con có quyến rũ con gái hắn bỏ nhà đi không, và con có biết điều đó có ý nghĩa gì đối với một người gốc Mehico lớn lên trong một xã hội hướng về Đức Nữ trinh Maria không? Như vậy, bạn con đã biết những nguy hiểm mà nó phải đương đầu. Ba nói đúng không?

- Ba nói đúng. Con nghĩ vậy.

- Bây giờ nó chết rồi, và điều đó là đáng buồn. Nhưng con đang sống đây. Vậy hãy thử nghĩ đến con đi. Hoặc con sẽ sống bằng cách nhìn tới, hoặc con sẽ chết trong lúc nhìn lui. Phần lớn thiên hạ không cần chọn lựa vì họ không có năng khiếu. Nhưng con có.

- Năng khiếu nào? Thôi ba, bỏ chuyện đó đi!

- Không phải. Con có muốn sống như một kẻ đao phủ? Đó có phải là vai trò con muốn đóng không, luôn giận dữ đối với tên khốn nạn bị không quân bóp méo?

- Con không còn trách gì Flores nữa.

- Tốt. Kẻ sát nhân là... là...

- Ai? – Michael gặng.

- Là một cái gì lớn hơn tên hình nộm kia. Vậy con hãy tự hỏi, ai chịu trách nhiệm về cái khuynh hướng tư tưởng khiến cho một người gặp khó khăn đứng chờ với khẩu súng để giết người? Ai tán đồng, ai khuyến khích hành vi đó? Rồi con hãy tự hỏi mình có thể cưỡng lại hay thay đổi nó được không? Ở vụ án này? Tại nơi này?

- Vậy thì ở đâu?

- Michael, sự thật thay đổi vì tư tưởng. Trước khi có một thay đổi thực sự nào, thì phải có một người nào nói ra điều gì – nghệ sĩ, triết gia, nhà tư tưởng, chính khách... Tư tưởng, đó mới chính là thứ mạnh nhất.

- Con không có năng khiếu đó.

- Con có.

- Con chẳng khoái nói cái gì. Trái lại.

- Michael, con không chịu thử mà. Con nên rời khỏi nơi này đi. Đây chỉ là ao tù. Con hãy ra đại dương, nơi có chuyển động, có những luồng nước và những bão tố, nơi đó các vấn đề được tranh luận, và thiên hạ tranh đấu cho những gì họ tin tưởng. Hãy đi đến một nơi nào đó, bất cứ đâu. Hãy nghĩ đến những vùng thế giới đang bốc lửa. Hãy mạo hiểm mạng sống của con, nhưng trong một trận chiến đáng chiến thắng.

- Con có cảm tưởng nơi đó chính là ở đây, trong cái hàng rào đó.

- Hàng rào nào?

- Hàng rào quanh căn cứ không quân.

Đêm sa mạc trở lạnh, Clifford cảm thấy điều đó, đầu hàng. Rồi gắng thêm một lần nữa?

- Ba muốn nói với con một chuyện. Chiều nay, lúc thấy con ba tự nhủ, nó đã thay đổi. Ba không biết thay đổi cụ thể thế nào, nhưng ba muốn làm một cái gì trong sự thay đổi đó.

- Con không nghĩ ba sẽ làm được, dù là bất cứ cái gì. Con không muốn trở thành như ba đâu.

- Ba cũng chẳng thích con sẽ giống như ba, song nếu muốn sống một cuộc sổng vĩ đại, con cần phải có một lý tưởng vĩ đại. Ba không cần biết ba có đồng quan điểm với con hay không, nhưng ba tin quốc gia này vẫn còn nhiều sự tốt đẹp, và nó sẽ tự cứu nó. Đúng không?

- Không.

- Con không thấy gì tốt đẹp cả sao? Những truyền thống của chúng ta, lịch sử chúng ta?

- Không gì cả. Chúng ta nói một đằng làm một nẻo, nên mọi điều chúng ta nói ra đều giả dối hết, Còn đối với lịch sử của chúng ta, thì cái phần mà con biết đến đều nhục nhã. Đó luôn là một vùng khủng khiếp.

- Vậy thì thật đáng buồn. Đáng buồn.

- Con cũng nghĩ vậy.

- Không. Con không nghĩ vậy đâu. Trong đầu con, khi chỉ một mình, con thực sự nghĩ gì?

- Ba muốn nghe không?

- Thì ba đến để nghe con đây.

- Ba thật sự muốn nghe ư? Con nghĩ... Chẳng có ý nghĩa gì cả. – Clifford chờ đợi. - Con đã nghĩ đến việc giết ba.

- Cái gì?

- Vậy đó.

- Bởi vì tên đó đã giết người bạn thân nhất của con, nên con...?

- Con nói với ba rồi. Chỉ nghĩ thì có nghĩa gì đâu, Và cũng không phải vì con không thương ba đâu.

Clifford cố gắng:

- Ba cho rằng ý nghĩ đó cũng thật tự nhiên. Và... cổ điển nữa, cái việc con cái mong giết cha mẹ đó.

- Không phải mong, mà là nghĩ.

- Nhưng tại sao lại là ba?

- Con không giải thích được điều đó. Cái ý nghĩ tự nó đến với con. Vậy thôi.

- Ba nghĩ là ba hiểu được.

- Con không nghĩ vậy.

- Đừng coi thường ba, con! – Clifford đã luyện để không nổi giận, không bao giờ. Ông tiếp. - Đừng để ý.

- Không sao đâu, ba, Con không coi là vấn đề nếu ba nổi giận với con đâu.

Hai cha con im lặng, nhìn sao trời.

- Ý con muốn nói là trên phương diện nào đó ba cũng có trách nhiệm trong việc bạn con bị bắn chết?

Một chú dơi bay ngang, đôi cánh đen bất động.

Michael nằm sấp lại:

- Con buồn ngủ quá. Ba, có lần ba đã cố giết con.

- Con muốn nói gì... bao giờ?

- Trước khi con ra đời.

- Michael, con nói kỳ quá.

- Ba không thuyết phục mẹ con phá thai sao?

- Chỉ là phá thai, nhưng bả không chịu. – Clifford không biết nổi gì thêm. Michael nói:

- Con mong mình không đưa chuyện này ra.

- Thôi, không sao đâu con.

- Dù sao con cũng đã nghe những gì ba nói, và con mong có thể làm vui lòng ba. Dù sao, con xin cám ơn ba.

Gã quay đầu lại, mỉm cười, rồi hôn lên má ông.

- Con vui mừng vì ba đến thăm, vì chúng ta đã nói chuyện với nhau. Ba đừng quan tâm đến điều con nói.

- Chỉ vì mẹ thôi. Bà rất buồn, do con chẳng chịu trả lời thư bà.

- Ba, chẳng bao giờ ba quan tâm đến mẹ con buồn hay vui. – Giọng gã thật dịu dàng. Clifford im lặng. Gã tiếp. - Có một chuyện mà con trông mong nơi ba.

- Bất cứ chuyện gì, con.

- Đừng gửi tiền cho con nữa. Được không ba?

- Nếu con thực sự muốn như vậy.

Clifford cảm thấy đang mất dần liên hệ với con.

Giọng Michael thật điềm tĩnh:

- Con nghĩ, một trong những rắc rối của con là lúc nào cũng có tiền. Ba có tiền, và con chỉ cần cầm.

- Michael! Bảy mươi lăm đôla một tháng?

- Đừng gửi cho con nữa, được không?

- Được.

- Sáng mai con gặp lại ba. Bây giờ con buồn ngủ rồi. Buồn ngủ thật sự.

Michael trở mình, nằm nghiêng, co người lại như con tôm, và nằm thật yên.

Lát sau, khi Clifforđ đã ngủ, Michael nằm ngửa ra, nhìn lên sao trời. Rồi gã nhìn sang cha. Khuôn mặt của người đàn ông bây giờ không còn được nghị lực nâng đỡ, như rời rã từng mảnh, trông thật tội.

♣ ♣ ♣

Sáng sớm, Clifford ra đi. Ông nói:

- Ba nghĩ có thể kịp chuyến bay sớm. – Rồi thay cho lời biệt, ông thêm. - Con ạ, ba không buồn con đâu, vì những gì con nói đêm qua.

Trong lúc Michael nhìn ông đi bằng dáng điệu đẹp nhất, hai vai đưa qua lại, và đôi chân vẫn còn nhẹ nhàng, gã biết ba gã đã nói sự thật. Clifford tồn tại bằng cách mỗi buổi sáng đóng kín những kinh nghiệm của hôm trước lại. “Ba không buồn đâu.”

Hôm nay là một ngày gió lớn, vòm trời như tấm vải thẳng căng, không chỗ nào chùng. Gió hú qua những nhánh xương rồng, tung bay cát.

Đến cửa hiệu đầu tiên, Michael gọi về căn cứ, ngạc nhiên vì gặp Alan ngay. Gã nói:

- Tôi muốn gặp anh.

- Michael, anh đang ở đâu?

- Anh có thể cho tôi vào trong căn cứ không?

- Với cả tóc và râu?

- Chắc mà. Kệ tóc râu.

- Tôi muốn anh gặp vợ tôi. Và muốn vợ tôi gặp anh. Bây giờ anh ở đâu, nói rõ hơn? - Michael nói. Nghe xong, Alan bảo. - Ở yên đó. Tôi đến đón anh. Tôi không tham dự gì vào vụ án nữa, anh biết chưa?

2

Vừa lái chiếc Karmann-Ghia về thành phố, Alan vừa tự giải thích lý do chàng bị loại khỏi vụ án. Nhưng Michael lại cảm thấy như Alan đang muốn nói một điều gì khác, khá riêng tư, về vợ, và là một vấn đề khó nói.

Cuối cùng, Michael quyết định giúp đỡ:

- Anh muốn nói anh không thể chơi nàng được?

- Không, ờ phải, phải. Đúng thế. Trước chưa hề có chuyện đó. Điều này làm cho Marian tức điên lên.

- Nó không chịu lên?

- Không. Không phải vậy. Nó lên một cách đàng hoàng lắm, nhưng rồi xxxììì... Chàng làm một âm thanh diễn tả làn khí thoát ra từ ruột xe bị chọc thủng. Michael cười lớn. Alan tiếp. - Phải. Buồn cười thật. Nhưng thực tế là chẳng buồn cười tí nào.

- Vì vậy mà họ loại anh ra khỏi vụ án?

- Tôi phải kể đầu đuôi thì anh mới có thể hiểu.

- Hay anh không còn yêu nàng nữa?

- Không. Sự thật nàng vẫn hấp dẫn lắm. Dù sao thì đêm thứ sáu nàng cũng đã nổ súng, nói. “Được rồi. Em không kích thích anh nổi nữa, nhưng này, có cái gì đáng cười đâu mà anh cười vậy? Nói thật là tôi không hề biết mình đã cười. Nhưng khi lúng túng thì dĩ nhiên là tôi biết. Và tôi lúng túng, nói. “ Lúc đầu anh rất thèm, khi được em kích thích. Nhưng rồi chẳng hiểu có chuyện gì xảy ra mà anh lại...” Nàng lại trở nên dịu dàng. “Anh nói hết ra với em đi, cưng?” Lúc đó tôi mới ý thức được sự vô dụng kia có liên quan tới vụ án, và tôi đoán chừng nó ảnh hưởng đến tất cả mọi người có liên quan, cách này hay cách khác. Vì vậy tôi bèn kể ra hết vụ án. Thì nàng lại nổi sùng. “Anh có chịu câm mồm lại không? Đầu óc anh chỉ còn nghĩ đến vụ án thôi!”

- Thật vậy không?

- Thật. Tôi đã bị nó ám ảnh. Khi nàng dùng lối tấn công trực diện hơn, như là... chộp lấy nó vậy; có lần tôi thấy con chó nhỏ ngoạm con chuột chết để giỡn chơi, như vậy đấy... dĩ nhiên lúc đầu nó chịu lên. – Alan bật cười, rồi nói. - Tại sao tôi cười nhỉ. Tôi cười cái gì?

- Tại sao chuyện đó làm anh băn khoăn dữ vậy?

- Anh thì không ư?

- Không.

- Nó làm tôi băn khoăn. Tôi có thể thấy nàng bắt đầu nghị kỵ, và nàng nói. “Này, khai thật đi, anh đem cho con nào vậy?” Tôi trả lời là chẳng có con nào cả, và đó là sự thật, vào lúc đó. Nhưng rồi tôi đâm ra lo lắng, và đêm hôm sau, cứ lang thang trong căn cứ, để khỏi phải cởi quần áo lên giường với vợ. Rồi tôi gặp cô gái trong vụ án, đang sống cùng mẹ và các em. Nàng cũng đang lang thang, bởi chẳng ai dám mời nàng đi đâu nữa, họ sợ cha nàng có thể lập lại hành động của ông ta, Tôi bèn kéo nàng đến bãi phi cơ phế thải, nơi chẳng bao giờ có ma nào mò đến. Nàng áp mặt vào hàng rào, khóc, nói ra lý do, và tôi thấy thương nàng. Lúc quay về, nàng tò mò về những chiếc phi cơ hỏng kia, về những thứ bên trong của nó, và bảo tôi dẫn lên xem. Trong đó chật, nhưng tôi cũng chỉ hết cho nàng những thứ nàng muốn xem. Anh biết không, nàng là cô gái đầu tiên không phải sinh viên đại học mà tôi làm tình. – Alan cười. - Và là lần đầu tiên tôi lừa dối vợ. Khi chúng tôi nằm xuống đó, nàng nói rất nhiều – về đêm xảy ra án mạng, về cách thức giết người của cha nàng, và về cách thuyết phục của Gavin. Nàng có vẻ mê hắn, chiến thuật của hắn có cái gì thật gần gũi, với nàng. Và tôi biết chắc chắn là thằng nhỏ của tôi chẳng vấn đề gì hết, bởi chỉ sau nửa tiếng tôi lại leo lên bụng nàng lần nữa, việc mà tôi hiếm lắm mới làm nổi với Marian. Rồi anh biết chuyện gì xảy ra không?

- Về nhà, anh lại muốn chơi vợ?

- Đúng. Tôi tựa như một tên quái dâm vậy. Rồi lại vẫn cái trò đó. - Alan cười lớn, và Michael thấy trong tiếng cười đó có vẻ gì đau đớn. - Lúc đó, tôi nhìn vợ tôi, thấy thật giống ba nàng, đại tá Dowd. Và lại xìxxxìiii!

- Vậy là chỉ vì anh không còn yêu vợ nữa.

- Tôi nghĩ nàng là một mẫu người đặc biệt. Anh sẽ thấy khi gặp nàng. Vì vậy tôi muốn nói ra hết, và tôi bắt đầu kể cho nàng nghe chuyện Juana, không phải chuyện tôi chơi nàng, mà là những gì Juana kể tôi nghe về sự chuẩn bị để giết người của ba nàng, Marian lại nổi sùng, bảo không muốn nghe một tiếng nào nữa về vụ án đó. Nàng nói, nguyên văn. “Từ khi có vụ án, anh không đéo em lần nào ra trò!” Và đột nhiên nàng ra khỏi giường, trần truồng, chạy sang phòng bên, khóa cửa lại, và ngủ suốt đêm trong đó. Tôi nghe thấy nàng khóc trong đó.

Alan nhìn Michael, nhưng nếu định trông đợi chút thiện cảm nào với Marian trên mặt gã thì đừng hòng.

- Vậy, sáng hôm sau, khi chơi tenis về, tôi thấy có mảnh giấy do ông bố quí hóa của nàng viết, loại tôi khỏi vụ án. Anh có biết họ giao cho tôi việc gì không?

- Viết một cuốn sách về tình dục cho vợ lính?

- Không. Họ giao cho tôi nghiên cứu luật pháp xứ Perou. - Alan cười.

- Chúng ta định xâm lăng Perou sao?

- Nếu thế, tôi rất sẵn sàng. Vậy là đêm đó vợ tôi trở lại ngủ chung và nói. “Dù sao em vẫn yêu anh, và em... không tùy thuộc vào chuyện đó.”

- Rồi anh chơi nàng được?

- Hoàn toàn đúng. Và khi xong xuôi, tôi hỏi nàng. “Có phải em lôi anh ra khỏi vụ đó không?” Nàng nhìn tôi, thật dịu dàng, nói. “Cưng ơi, cưng bị ám ảnh rồi.” Sau đó nàng ngủ thiếp đi, trông thật ngon, và hài lòng với chính mình. Tôi thì không ngủ nổi. Tuy vui mừng vì thoát khỏi vụ án nhưng tôi không thể hài lòng...

- Là do vợ anh yêu cầu ông bố? - Michael đỡ lời. - Vậy là từ đây tôi không còn thấy anh ở tòa án nữa?

- Vì tôi đâu còn trong vụ án? Vợ tôi chưa từng nói chuyện với một ai giống như... Juana Flores. Hoặc gặp người nào trong bọn các anh. Với nàng, các anh là bọn hoang đàng, bệnh hoạn. Vì vậy, tôi muốn nàng ngồi lại với anh và nghe câu chuyện từ phía các anh. Hơn thế, tìm hiểu về các anh. Tôi thường nói với nàng là tôi phục anh, và nàng nên mở rộng trí óc để thấy phía bên kia. Nàng được giáo dục, và có thể cởi mở nếu có cơ hội. Tôi muốn nói nàng là một phụ nữ rất tuyệt. Anh chịu gặp nàng không? – Họ chạy xe qua cổng. Alan nói. - Tôi chưa hỏi sao anh muốn đến đây?

- Tôi muốn gặp đại tá Dowd.

- Anh muốn nói anh định nói chuyện với ông ta?

- Tôi chỉ muốn nhìn ông ta.

- Phải, tại sao không được? Nó có thể giúp phá đổ bức tường ngăn cách. Chưa hẳn ông ta đã chịu gặp nhưng tôi sẽ nói đỡ. Tại sao không?

Alan cho xe vọt lên:

- Đây là văn phòng của đại tá. Họ biết ông ta ở đâu.

Vài phút sau, chàng chạy vội ra:

- Anh nghĩ sao? Đại tá về nhà, Marian thì đi vắng.

Michael đang đứng trước tấm bản đồ căn cứ lồng kính kính, hút điếu cần sa và ghi chú gì đó vào sổ.

Cư xá Vinson sáng chủ nhật này thật sáng sủa. Âm thanh của những vòi nước xoay tròn tưới cỏ, tiếng TV làm bầu không khí rộn rã hẳn lên. Vài phi công trẻ, ngồi trước nhà Flores nói chuyện tự nhiên. Bên trong vọng ra tiếng trẻ cười đùa.

Alan tắt máy. Lúc đi tới, chàng nghe được:

- Phải, Chihuahua là vùng nguy hiểm trước khi người Mỹ đến. Quân đội từ phía Nam đến đã chiếm đóng ngôi làng của cha tôi. Nửa đêm, cánh cửa nhà tôi bị đá tung ra, và một ông tướng già đi vào. ông ta bước như thế này, gần như sắp ngã chúi xuống, rồi như thế này, tưởng như sắp ngã ngửa ra. – Trẻ con cười rộ lên. - Ông tướng có bộ râu dữ lắm, râu cá chốt, như thê này này – quặp xuống, phần lớn đâm vào trong miệng ông ta. Giọng ồ ồ, ông ta hỏi. “Hê, tên kia, mày ở phe nào?” – Trẻ con cười khi nghe tiếng nói nhại theo. - Ba tôi không biết trả lời sao, bởi rất có thể sai, quí vị không biết, thời buổi đó, toàn là bọn sát nhân.

Michael đang bước về phía ngôi nhà, chầm chậm.

- Để trì hoãn, cha tôi mời ông tướng ngồi, ông ta ngồi cách này, đại tá biết chứ? Và nói. “Mày không dám xưng. Như vậy là mày thuộc đạo quân của thằng Villa. Vậy bây giờ vấn đề của tao là thế này.” Ông ta có hai khẩu súng ngắn, đặt cả lên bàn, và nhìn từ khẩu này đến khẩu kia, một cách đắn đo, thế này này. “Vấn đề của tao là phải giết mày bằng khẩu súng nào. Khẩu này, hay khẩu này? Hê, tên kia, mày muốn khẩu nào?’

Trẻ con cười ré lên. Michael bỗng nghe một giọng nói khác, có lẽ là giọng đại tá Dowd:

- Tôi nghĩ thật may là chúng tôi đã đến giải phóng cho các người.

- Vâng, thưa đại tá, vâng. Đúng thế.

- Có một điều tôi học được từ những chuyện tiếu lâm của Mehico, là chúng không cần có đoạn kết. Giờ xin phép, tôi phải lên văn phòng làm việc. Nhớ nhé, tôi đã hứa với sếp Burns là anh sẽ trở lại đó, vào trưa nay.

- Thưa đại tá, đúng mười hai giờ trưa.

Đại tá Dowd bước ra, đi xuống các bậc thềm, trung sĩ Jones theo sau. Đám quân nhân ngồi chơi đứng lên.

Lúc đó Alan mới để ý thấy Marian ngồi sau xe của đại tá, và nàng đã không gọi chàng.

Michael đứng lại ngay trên một bậc thềm, giữa lối đi, và đại tá Dowd đi thẳng tới, trước khi ông kịp nhìn thấy gã. Michael nhìn ông chăm chú, có lẽ gã đang phải suy tính điều gì dữ lắm. Trung sĩ Jones hét:

- Hầy, tránh sang bên chứ! Thằng khốn nạn nào cho mày vào đây?

- Anh này đi vào đây với tôi. – Alan bước đến.

Michael đang nhìn đại tá, và ông ta đang nhìn gã.

- Tôi có thể thưa với ông vài lời không? - Gã hỏi.

Vừa lúc Juana bước ra. Thấy Michael, nàng làm một cử chỉ kinh hãi. Và có lẽ họ nghĩ Juana đã nhìn thấy một cái gì mà họ không thấy, vì hai quân nhân đang giữ chặt gã trong lúc Jones lục soát gã. Alan quát:

- Trung sĩ Jones. Thả người này ra. Lệnh tôi.

Alan chưa từng nói bằng giọng đó, nhưng giờ nghe vẫn đủ vẻ uy quyền. Jones nhảy lùi lại, nhìn quanh. Họ có nghe những gì mà ông ta vừa nghe không?

Đại tá Dowd thấy vẻ mặt Jones, bật cười. Những người kia, được thể, cười theo. Marian ngồi trong xe, tưởng mọi người cười vì cái cảnh chồng nàng ra lệnh. Được thả ra, Michael đến gần đại tá và hỏi:

- Tôi có thể gặp riêng ông một chút không?

- Ờ... anh muốn gì?

- Đại tá Dowd, hắn là một tên trong bọn chúng.

Tiếng Cesario từ trong nhà nói ra. Jones thì thầm với đại tá. “Gã không có vũ khí gì, không làm hại ai được đâu.” Đại tá Dowd đến gần Michael, nhìn gã với vẻ thân thiện nhất:

- Được. Anh có thể nói chuyện với tôi. Chuyện gì?

Michael lúng túng vì vẻ thân thiện bất ngờ đó, có vẻ đang cố gắng nghĩ ra cái gì. Cuối cùng gã nói:

- Tôi cũng không biết nữa.

Trung sĩ Jones hỏi xung quanh:

- Nó nói gì vậy? Nó nói cái quái gì vậy?

- Nó nói là nó không biết.

Michael lại nói.

- Tôi thật sự muốn nói chuyện với ông.

- Tốt. Về chuyện gì?

Lại thêm chờ đợi, và Alan, cũng như tất cả, ngơ ngác thấy Michael bỏ đi, đầu cúi gục, có vẻ không biết mình đang ở đâu.

Đại tá Dowd chờ đợi. Cuối cùng, ông nói bằng giọng nhẫn nại, khoan dung:

- Thôi được. Bao giờ biết, anh có thể nhờ trung úy Kidd đây dẫn vào lại.

Michael lắc đầu, lẩm bẩm gì đó, hình như là không thiết nữa.

Thật quá rõ. Gã ngớ ngẩn. Thậm chí cũng không nhìn lên khi đại tá Dowd bỏ đi. Có lẽ gã quên, hoặc thay đổi ý định về lý do đến đây.

Ông đại tá, lúc đó nắm tay Alan, nói chuyện với chàng bên cạnh chiếc xe của ông bằng cái giọng rõ, đanh và không ai khác có thể nghe được, để không làm nhục con rể mình. Xong, ông lên xe. Và xe chạy đi.

Marian đã giữ được vẻ mặt không cảm xúc, và còn quay đi phía khác, suốt thời gian Alan bị khiển trách.

Trung sĩ Jones ở lại nhằm canh chừng Michael, cho đến lúc gã an toàn rời khỏi căn cứ. Gã vẫn đứng như bất động tại chỗ. Alan phải kéo tay mới làm gã chú ý:

- Ông ta muốn anh phải ra khỏi căn cứ.

- Anh có thể chở tôi đến đâu đó không?

Lúc xe ra khỏi căn cứ, Alan hỏi muốn đến đâu. Michael chỉ nói:

- Văn phòng ông Cy Walker. – Rồi lại im lặng.

- Anh muốn hỏi đại tá Dowd chuyện gì? – Alan gợi ý. Michael không trả lời. - Đại tá không thích anh biết Flores có mặt ở đây. Không thích một chút nào.

- Chẳng ăn nhằm gì. Cũng vậy thôi. – Michael nói. Rồi gã hỏi. - Có phải vợ anh ngồi trong xe đó không?

- Phải.

- Tại sao thiên hạ cứ phải cưới hỏi nhau? Họ tin nhau đến mức đó được sao. – Gã mỉm cười. - Anh biết hắn ta ở trong đó, phải không? Anh làm bộ kinh ngạc, nhưng anh biết Flores ở trong đó.

- Phải. Nhưng tôi quên khuấy mất. Nên khi nghe giọng hắn, tôi ngạc nhiên thực sự.

- Anh không cần nói dối tôi. Sự thật là anh muốn tôi biết Flores ở trong đó, đúng không?

- Đúng.

- Họ có cho làm như thế là đúng luật lệ không?

- Tôi không hiểu. Đây là tôi nói thật. Lúc nghe tới chuyện đó, lần đầu tiên, tôi nghĩ đó cũng là tự nhiên. Không, hơn thế, tôi còn nghĩ vậy là nhân đạo. Để hắn ta về thăm gia đình, tại sao không? Và, tôi vẫn nói sự thật với anh đây, tôi vẫn không hiểu tại sao anh phải tức tối vì chuyện đó.

- Anh thì không, khi nghe giọng hắn trong đó?

- Tôi có cần phải tức tối không?

- Không. Anh là người tốt, dễ thương. – Gã nhún vai, ngừng một lát, rồi tiếp. - Không ai tức tối vì hắn, vì tôi cả. Đêm qua, tôi nói một điều khủng khiếp với ba tôi, và ông nói là ông không giận tôi. Cũng như tôi có thể nói với ông đại tá là tôi đái vào mặt ông, nhưng ông vẫn sẽ nói chuyện với tôi thật lịch sự, phải vậy không? Tuy vậy, hình như ai cũng mong cho tôi chết. Họ nghĩ tôi là kẻ nguy hiểm.

- Vì cái lối họ lục soát anh như vậy, phải không? Tôi đoán họ nghĩ anh vào đây để bắn ai.

- Và điều đó phi lý?

- Dĩ nhiên.

- Không dĩ nhiên đâu.

- Michael, anh nói gì vậy?

Này, anh biết kẻ duy nhất tôi nghĩ là lương thiện là ai không? Không phải anh đâu, mà chính là tên trung sĩ to béo kia, hắn tên gì vậy?

- Jones. Một cục cứt tổ bố. – Michael gật đầu. - Tôi không nghĩ anh là kẻ sát nhân.

- Flores cũng vậy.

- Và tôi không nghĩ có ai muốn anh chết.

Alan lo lắng nhìn cái vẻ tuyệt vọng của gã, cảm thấy chàng phải làm một cái gì, nhưng cái gì?

- Anh có cho rằng đại tá Dowd đã khuyến khích hắn không? - Michael hỏi.

- Khuyến khích ai, và làm cái gì?

- Flores, để giết Vinnie.

- Trời đất! Làm sao anh nghĩ vậy được.

- Có thể ông ta ra lệnh cho Flores làm chuyện đó.

- Michael, anh làm sao vậy?

-Anh không hề có chút nghi ngờ nào ư?

- Không. Những lúc bị đại tá xỉ vả, tôi căm tức ông ta, nhưng thường tôi nghĩ ông ta là người đàng hoàng. Thực chất, ông ta là một người tử tế, dễ thương nữa.

- Mọi người đều vậy cả. – Michael nói. - cả Flores nữa. Có lần tôi đã chuyện trò với hắn suốt buổi chiều, qua cả đêm nữa, và tôi khoái hắn, nghĩ, đây là một tên dễ thương. Tôi còn có thể nhìn thấy vấn đề từ phía hắn, nghịch với phía Vinnie, kẻ bị hắn giết. Và ba tôi nữa, ông cũng là một kẻ dễ thương. Tôi thương ông. Và vợ anh, sau khi anh khám phá ra nàng đã làm gì cho anh, anh vẫn chơi nàng được, chứng tỏ thâm tâm anh nghĩ nàng cũng dễ thương nữa. Kể cả Gavin McAndrews, hắn làm sao nhỉ, như một nhân vật quan trọng.

- Đúng vậy. Hắn là một cái gì!

- Và luật sư Cy Walker, của phía chúng tôi? ông ta là người đàng hoàng thật sự, mời tôi uống cà phê, ăn bánh, nói với thư ký của ông ta, một cô gái tuyệt diệu, hãy trông nom tôi, làm như nàng là mẹ tôi vậy. Và nàng tuân lệnh, làm hơn cả lệnh nữa. Rồi ông Chánh án Breen, mọi người đều cho ông ta là một người vĩ đại. Tôi muốn nói cả xã hội này gồm toàn những người dễ thương, đàng hoàng cả. Tôi nhìn những bức hình trên những tạp chí trong văn phòng ông Walker, tờ Life và Newsweek và Forbes... Mọi người có hình trong đó đều ở trên thượng tầng. Và tôi thì là một tên bệnh hoạn. Tôi biết vậy. Nhưng anh có muốn biết tôi nghĩ gì không?

- Tôi muốn, thực sự muốn.

- Thôi, quên đi. - Michael đột ngột. - Chúng ta đến rồi à. Cám ơn về tất cả mọi chuyện.

- Anh cho tôi biết anh sẽ làm gì đi.

- Không. Tôi không còn nói chuyện gì theo lý theo lẽ nữa. Tôi nghi kỵ hết mọi người. Tôi thấy những động cơ thầm kín, cả ở anh. Tốt hơn, anh nên tránh xa tôi đi. Đừng coi tôi như người bạn nữa, tôi không còn là một người bạn, đúng nghĩa bạn, khiến ai yên tâm được nữa. Chẳng hạn, tôi đã nghiêm chỉnh nghĩ đến chuyện giết cha tôi. Tôi đã giết cha tôi, trong tâm trí. Như thế là bệnh hoạn quá, phải không? Và đây là câu chuyện...

Michael ngưng nói, lắc đầu.

- Câu chuyện thế nào? - Alan hỏi.

Michael do dự, rồi nói:

- Thôi được. Tôi bất cần anh có nói lại với chúng hay không, những gì tôi sẽ nói với anh đây.

- Michael, tôi sẽ không đâu.

- Thôi được, tùy anh nói hay không, khi họ hỏi anh, và họ sẽ hỏi anh. Chuyện thế này. Sẽ có một vết tích gì còn lại. Phải không? Một bằng chứng nào tỏ ra đã có người nào quan tâm đến, lúc Vinnie bị bắn chết như vậy? Nó không thể thấm hết xuống đất như máu một con chó bị xe ai cán trên xa lộ. Có thể vậy không?

- Michael, Flores sẽ ngồi tù hết đời hắn, có thể đến hai mươi năm.

- Có thể. Mọi người đều nhìn thấy nó bắn.

- Nhưng hắn không chủ động.

- Chúng ta đã từng xử tử người này đến người khác, năm này sang năm khác. Nhưng không bao giờ đụng đến được kẻ bấm nút.

- Không có chuyện nào tương tự như chuyện này.

- Trong vụ này, thủ phạm thực sự là ai? Hắn có bị trừng phạt không? Thử nói nghe?

Đột nhiên Alan thấy không dám chắc điều gì để có thể trả lời câu đó. Michael bước xuống khỏi xe:

- Cám ơn lần nữa.

- Rồi anh sẽ ở đâu? Sáng nay tôi qua chỗ anh, chẳng có ai hết. Tôi đoán chừng chủ nhà đã đuổi hết đi. Anh biết chuyện đó không?

- Không quan trọng.

- Tôi mong có thể mời anh vào ở lại với tôi, nhưng...

- Thôi được.

- Tôi muốn nói chuyện với anh, Tôi thắc mắc...

- Chúng ta đã nói chuyện với nhau. – Michael mỉm cười. - Tuần rồi, tuần trước đó, trong phòng tòa án, anh ngồi cạnh tôi, còn nhớ không? – Alan lại cảm thấy lúng túng. - Ông McAndrews có bảo anh đến ngồi cạnh tôi và tìm hiểu xem có gì trong đầu tôi không?

- Không.

- Nhưng ông ta chắc có hỏi tôi nói gì?

- Có.

- Mỗi ngày?

- Thỉnh thoảng. À, không, mỗi ngày. Này, anh ngồi đó yên lặng, với lối nhìn mơ hồ của anh, vậy anh không nên trách hắn tò mò. – Michael bước đi. - Cám ơn, và đừng có băn khoăn gì nữa. – Gã cười. - Đúng! Đúng!

Lúc Michael đi được nửa đường vào cổng tòa án, Alan theo kịp.

- Còn anh, anh không phải là một người dễ thương?

- Tôi là một người dễ thương. Và đó là điều làm tôi băn khoăn.

Chỉ có Donna trong văn phòng. Nàng cho biết:

- Ông Cy Walker đang soạn diễn văn mở đầu cho ngày mai, và tôi chờ để đánh máy lại.

- Soạn ở đâu?

- Ở nhà. – Nàng thấy vẻ mặt gã, nói thêm. - Đừng hỏi địa chỉ, ông không muốn bị ai tới quấy rầy.

- Ông còn điện thoại đến nữa không?

- Có thể.

- Vậy tôi chờ.

- Ông ta nói là đừng để anh quanh quẩn ở đây nữa.

- Michael thôi đi, thôi. – Alan theo vào, nói.

- Anh nên đi đi. – Michael đột nhiên lạnh nhạt:

Alan bỏ đi. Donna hỏi:

- Anh muốn uống cà phê không? Ngồi chơi. Tôi có mang theo vài bánh nướng do cô bạn ở chung nhà làm. Ngồi xuống đi.

3

Vài ngày trước phiên xử, ảnh hưởng đã lan rộng.

Hôm nay, Cy cần yên tĩnh. Nhưng có một cái gì đã xáo trộn trật tự trong gia đình Walker. Ba đứa con trai, bị giới hạn mỗi ngày xem TV một giờ theo lệnh ông, thì chủ nhật này đã ngồi xem từ sau bữa sáng đến giờ, và chúng đang cãi lộn về việc nên mở tiếp kênh nào.

Cy nhào vào sào huyệt, nguyên là của ông, bây giờ thành sào huyệt của truyền hình, rút dây điện ra, cuộn lại, rồi đi tìm vợ.

Corky đang nằm trên sàn nhà xem bài tây, nét mặt đăm chiêu.

- Bà biết hôm nay là ngày tôi phải làm việc mà!

- Ngày nào anh cũng phải làm việc hết, và ngày nào tôi cũng phải chịu đựng chúng nó.

- Bảo chúng nó ra ngoài chơi.

- Bên ngoài nóng như nung.

- Tất cả những đứa trẻ khác đều chơi bên ngoài.

- Con chúng ta khôn hơn. Chúng không muốn hít khói bụi. Chúng không muốn chết.

- Nếu vậy bà tính sao, nói đi?

- Bắt chúng đeo mặt nạ chống hơi độc. – Bà xếp bộ bài lại, - Tôi không định sống ở đây lâu đâu. Tôi thù ghét nơi này. Đây chán quá, nóng quá, không khí bẩn thỉu quá. Ít nhất nơi mình sống thì không khí, cái món rẻ tiền nhất, cũng phải trong sạch một chút chứ!

- Tôi nói với bà rồi, ngay khi kiếm ra tiền, chúng ta sẽ kiếm một chỗ không bụi bặm.

- Không có chỗ nào như vậy cả. Đó chỉ là một cách, để bắt các bà vợ phải nín thinh.

- Điện thoại reo. Donna gọi đến, có vẻ vội vàng.

- Ông có thể cho tôi biết lúc nào ông cần tôi không? Nếu ông cần?

- Làm một chầu xinê đi, Donna, và trở lại khoảng bốn giờ... – Corky đứng lại nghe, giật mình thấy chồng nổi khùng. - Này, còn đứng đó làm gì? Tôi đã nói không muốn anh luẩn quẩn ở văn phòng tôi kia mà. – Corky tưởng ông chồng mắng bà. - Trao điện thoại cho Donna đi, và cút cho khuất mắt. Donna đó hả. Tôi đã bảo đừng ôm lấy thằng nhỏ đó nữa mà... Đúng, trước thì tôi nói hãy trông nom nó một chút, nhưng tôi đã nói lại là stop, vậy cô thôi đi cho tôi nhờ. Tôi biết cô không phải cảnh sát, nhưng không cần phải là cảnh sát mới có thể tông cổ hắn đi. Cả cô nữa. Kệ xác cô. Cứ việc nghỉ. Có ai cần cô đâu. Cô không làm gì nên thân hết, từ việc pha một ly cà phê! Cả hai có thể cút hết đi. – Ông nhìn Corky. - Tất cả các người đều có thể cút đi, cút hết.

- Corky ngồi xích lại gần ông:

- Anh muốn một ly cà phê ngon như thế nào?

Ngay lúc đó, cuộc cãi vã tay ba vang lên từ phòng bên kia, sào huyệt, và có cái gì rơi đổ. Corky chạy sang.

Ông nghe tiếng bà, tiếng những thằng bé, rồi im lặng. Cửa ra vào đóng ập lại mạnh mẽ. Máy lạnh rung lên.

♣ ♣ ♣

Chủ nhật này rơi đúng ngày đãi tiệc của Chánh án Bo Barton. Ông là nhân vật quyền thế hàng đầu của giới pháp luật tiểu bang. Thiên hạ đã chờ ông chết từ hai lăm năm nay, nhưng giống như cây sa mạc khắng khiu, ông vẫn cứ sống mà không cần chất nuôi dưỡng gì cả. Ngày ông càng gầy đét lại, cau có hơn, nhưng vẫn không về hưu, càng không chịu chết. Và hằng năm vẫn giữ lệ đãi tiệc. Đó là cơ hội tốt nhất để gặp các khuôn mặt mới trên sân khấu chính trị và để tính toán, hầu thiết lập những liên minh mới cũng như củng cố những liên minh cũ, để đo lường tiến trình đi lên hay xuống của bạn cũng như thù. Nhiều thực khách bị cấu xé cùng lúc với một mảnh sườn heo, nhiều ông chủ được vuốt ve cùng lúc với miếng thịt chấm nước tương chua.

Mọi khách khứa đều nóng lòng chờ gặp ông luật sư trẻ sắp được tấn phong nhờ vụ án Flores.

Bà Sally Breen từ chối đến dự.

Thoạt đầu, bà không cho Teddy biết lý do thực. “Tôi không thích đậu nấm hầm, và bò quay. Tôi không khoái thịt gà nướng chấm tương chua, và...”

- Anh nghĩ em muốn ông gặp Chánh án Bo.

- Tôi mến ông ấy, đúng, ít ra ông ta là người cứng rắn. Nhưng năm nay tôi không muốn liếm cái đít già đầy gai xương rồng của lão nữa. Bây giờ tôi không làm cái công việc đó nữa.

- Công việc gì?

- Bú.

- Vậy anh sẽ nói với lão ta sao đây?

- Em sẽ cho anh biết phải nói gì. Sally cảm, Sally bệnh, thưa ông Chầnh án khả kính Bo. – Sally nhại giọng chồng. - Nhưng sáng mai, nhà tôi chắc khỏe lại.

- Em đúng là người hai mặt. Lúc nhờ vả ai việc gì thì em quấn quít lấy họ, anh nhớ trước đây em đã vuốt ve lão già đó hết nói nổi!

- Nhưng năm nay thì không.

- Sare, cái chức Thống đốc sẽ tiêu ma! Đi thôi. Em biết chuyện đó đối với anh quan trọng như thế nào?

- Dĩ nhiên. Anh cứ việc.

♣ ♣ ♣

Don Wheeler gọi xe cứu thương đúng vào chủ nhật.

Hope đang mê sảng. Ngay khi nằm trên xe cứu thương bà vẫn mơ đang đi về nông trại của họ bên sườn núi phía Bắc tiểu bang.

Don ngồi trên chiếc đôn nhỏ, nắm tay vợ, trong lúc Hope mê sảng nhớ lại buổi tiệc mà họ khoản đãi nhiều năm trước. Khách khứa của họ hôm đó, những giám đốc có trách nhiệm về khoản thù lao béo bở cho Wheeler, đã được mời đến nghỉ cuối tuần và tham dự chầu săn bắn nai. Mặc dù đều đã qua cả tuổi trung niên, họ vẫn được cắt đặt đứng trên những vị trí cao, những cái “bục”, và đàn chó được tung đi lùa nai đến. Đàn ông ăn mặc theo lối nông dân, địa chủ, nhưng chẳng phải làm việc gì khác ngoài nâng súng lên và bấm cò. Mỗi người ít nhất đều bắn được một con.

Ngay cạnh ngôi nhà, một cái giá vững chắc đã được dựng lên, và khi đống thú được xe Jeep chở về, liền được mổ lòng cho chó ăn, rồi treo lên giá, bằng hai chân sau, và để đó khoe thành tích.

Còi hụ xe cứu thương vang lên, khi vào khúc quẹo.

Hope nói:

- Em không biết làm gì với từng này con nai, Don.

- Cưng, lo gì, mấy ông khách sẽ mang phần lớn về nhà họ, phần còn lại ta sẽ đem ướp lạnh. Nhắm mắt lại.

Bà ngủ thiếp đi một lúc. Wheeler thấy mình đang lên kế hoạch sau khi bà mất. Chỉ gần đây ông mới nhận ra đã không làm được việc gì, những việc ông mong mỏi nhất, như đi săn lâu ngày trong rừng đông Phi Châu, bắn gấu trên đảo Kodial, câu cá dọc bờ biển Perou.

- Bốn mươi? Có phải anh nói bốn mươi...?

- Bốn mươi bốn con, em.

- Hãy hứa với em sẽ không giết thêm con nào nữa, Don. Em thích nhìn chúng mỗi sáng đi xuổng đồng cỏ.

Hope đã để những cục muối lớn trong đồng cỏ, ngay bên dưới cửa sổ nhà họ.

Don, em chỉ không thích anh mỗi chuyện đó. Anh tốt với em quá. Hứa với em vậy đi.

- Anh hứa, cưng. Em nằm yên đi.

♣ ♣ ♣

Suốt đoạn đường từ văn phòng Cy trở về, Alan càu nhàu với chính mình, “Nhà mình mà, mình có quyền mời bất cứ ai.”

Về đến nhà, chàng giận dữ chất mấy đĩa hát cũ lên, loại nhạc mà Marian ghét nhất, rồi nằm dài ra ghế.

Sau vài đĩa, nàng chạy xuống tắt nhạc, nói:

- Vợ chồng McCord đã đến.

Alan quên khuấy mất việc này.

Chàng rót rượu cho ông McCorđ, gài bẫy:

- Công lý là mệnh lệnh mà kẻ cầm vũ khí buộc kẻ không vũ khí phải tuân theo.

McCord bỏ qua câu triết, lý, cạn ly.

Marian đã dự trù dùng bữa ăn tối này để hàn gắn các xích mích. McCord và Alan không nói gì với nhau từ miếng thịt chiên cuối cùng đến ly rượu mạnh thứ hai.

Marian tiễn khách ra xe, khóa cửa, cởi áo ngoài.

Alan lại cho đĩa hát chạy.

- Anh sao vậy? – Nàng dùng cái giọng nữ gia chủ.

- Anh muốn mời một người về nhà ngủ lại, nhưng anh đã không làm vậy vì nghĩ em không thích.

Marian cười lớn, thấy nhẹ nhõm:

- Một trong những cô híppi móng tay đầy đất bẩn?

- Anh không đùa đâu.

- Alan, cưng. Thật mà. Anh có thể đem bất cứ ai về đây, nếu anh muốn. Bây giờ chúng ta hãy nói chuyện tại sao anh bất lịch sự với trung tá McCord như vậy.

- Anh đã do dự khi muốn mang một người mà anh quí về nhà.

- Nhưng... lỗi đâu ở em. Mà ai vậy, cưng?

- Michael Winter.

- Dĩ nhiên anh có thể mời hắn về, nếu anh muốn.

- Vậy anh sẽ mời.

Nàng đi lên cầu thang:

- Nhưng, nếu đã quyết định, hãy cho em biết trước, vì em không muốn có mặt chứng kiến hiện tượng đó.

Như vậy... nghĩa là gì? Này, bà sếp, tại sao?

Nàng dừng lại:

- Anh biết ý nghĩ của em về vụ án, về mọi người trong vụ, mọi thứ trong vụ đó. Cái vụ án suýt làm đổ vỡ cuộc hôn nhân của em.

- Nhưng hắn ăn nhằm gì đến việc đó?

- Hắn bẩn.

- Chỉ vậy thôi à?

- Hôm nay em nhìn hắn khá kỹ. Hắn bay mùi. Từ xa. Hắn xông mùi thuốc. Tại sao hắn không ăn nhậu?

- Anh nghĩ nó... anh muốn nói hắn chỉ là một thanh niên, nhưng ở hắn có một cái gì...

- Giống Chúa Cứu thế?

- Đừng chế giễu hắn.

- Chỉ cần cắm bộ râu vào một tên nghiện, hủy ý chí và sinh lực của hắn đi, làm cho hắn bẩn thỉu khắp người, và rồi nếu hắn có thọc cổ ai, thi trông hắn vẫn như Chúa Cứu thế. Thôi, cứ giới hạn lại là: Hắn bẩn.

- Hắn là kẻ duy nhất quanh đây lo âu đến chuyện phải, trái...

- Nếu anh muốn đem nó về đây, cứ việc, đừng phải lúng túng, dù việc đó làm em khó chịu, làm ba em khó chịu – ông đã cấm anh đem nó vào trong căn cứ rồi. Nhưng đây là nhà anh, vậy hãy cứ làm việc gì anh muốn. Hài lòng chưa?

- Chưa.

- Nếu vậy, Alan, em đề nghị một việc, thành thật. Đã khoái nó, khoái cái lối sống của nó, thì tại sao anh không ra sống trong cái ổ híppi của nó một thời gian?

- Đêm nay nó không biết ngủ đâu. – Alan đứng lên.

- Đây có phải lần đầu tiên của nó không?

Marian bước tiếp lên cầu thang. Alan cười nhạt.

- Marian, lý do khiến anh không làm tình được với em là vì anh không thể nói chuyện với em được.

- Anh có chắc lý do đó là thật không?

- Anh đã thử để biết chắc.

- Hay quá. Tin đáng mừng. – Nàng đã lên hết cầu thang. - Em đi ngủ đây. Anh có thể ngủ ở đây, hay trong phòng dành cho khách, ngủ một mình,