← Quay lại trang sách

Chương 6 1-

Đám phi công lái những chiếc phản lực chiến đấu F-4 cất cánh từ căn cứ không quân Collins là lớp người ưu tú. Mục đích của căn cứ là phóng họ lên không gian sau khi đã được huấn luyện thuần thục, và được trang bị hoàn hảo. Họ đều đã sẵn sàng phụng sự.

Tất cả đều trẻ, đều bận bộ đồ bay, và thật khó mà phân biệt được những huấn luyện viên vừa từ vùng trời Á châu trở về với những khóa sinh trẻ mà họ đang huấn luyện. Chỉ khi bận quân phục diễu hành thì người ta mới có thể nhận ra những chàng thiếu tá trung tá đại tá con nít. Ở họ, vẻ thơ ngây được hòa trộn kỳ diệu với sự hiểu biết kỹ thuật đã được huấn luyện cao độ. Lối giáo dục chuyên môn hóa đã cứu họ, như nét mặt họ biếu lộ, khỏi sự khó chịu và chán ngán mà những băn khoăn trừu tượng có thể tạo ra. Về mặt cơ thể, thì tất cả đều có lối đi đứng và ngẩng đầu mà chỉ những kẻ hoặc thật trẻ, hoặc thật công tử mới có được.

Đối với bọn họ, đau đớn đã bị loại khỏi chiến tranh, giết người đã trở thành một phương trình trừu tượng và những đường ngắm, tọa độ, những mệnh lệnh được diễn tả bằng thứ ngôn ngữ của toán học. Nét ngây thơ của họ, ai cũng thấy rõ, đã không bị dơ bẩn vì sự giết chóc mà họ được huấn luyện để làm. Họ thật thoải mái, và họ làm nhiệm vụ với sự thanh thản. Họ là những thanh niên dễ thương đã được giải thoát khỏi gánh nặng của lương tâm.

Họ là tình nhân tuyệt hảo của những chiếc F-4.

Họ cũng đã được tự động hóa, điện tử hóa, và họ là biểu tượng cao nhất của một xã hội kỹ thuật.

Họ không biết họ làm gì.

Bởi không quân là tồn tại nhờ kỹ thuật nên không một ai có thể gia nhập mà không tình nguyện phục vụ bốn năm. Mỗi lần ai đó quyết định không tái đăng, là thêm một lần hao phí thì giờ và tiền bạc đã đầu tư vào kẻ đó. Vì vậy không quân sẵn sàng làm mọi việc có thể để giữ các thành viên của nó trong binh chủng.

Những phi công này được thấm nhuần đến độ cao nhất bằng truyền thống Thiên Chúa giáo, và nhu cầu quân sự. Khu họ ở trong căn cứ hơi giống một đại học xá dành riêng cho những chàng sinh viên dự bị của một đại học tỉnh nào đó. Các phi công không ở trong trại lính. Họ sống trong nhà ngủ, có những cô giúp việc, được phép uống bia trong phòng riêng, cả vấn đề giải tỏa sinh lý cũng được thượng cấp chính thức quan tâm. Những nỗ lực tuy kín đáo, nhưng cương quyết, đã được thực hiện để đem gái vào giường họ.

Hội trường Balinese trong Câu lạc bộ sĩ quan, với mái bằng tranh và vách bằng lá, với những chiếc ghế dựa êm ái có chân và tay vịn bằng gỗ quí đánh bóng trông như đồ đạc của một nông trại, và tất cả tạo thành một thứ truyền thống khá khêu gợi về một mẫu đàn ông Mỹ trung niên, về những phụ nữ hở ngực của vùng biển Nam, như hứa hẹn với những khóa sinh trẻ rằng một cảnh tượng tương tự đang chờ đợi họ Đông Nam Á.

Ở đây họ có thể tìm thấy những người đàn bà đang chờ đợi, một số lớn là góa phụ hoặc sẽ sớm là góa phụ nếu không sớm được tin chồng. Họ đến đây không phải vì đang chờ đợi, mà vì họ không chờ đợi. Có lẽ cũng là kỳ cục, khi những đàn bà này đi tìm kiếm sự chia sẻ từ những đàn ông đã, hoặc có thể sẽ, là bạn chồng họ. Nói trắng ra, chính họ đang tìm kiếm để chinh phục đàn ông. Với tỷ lệ mười đối một, họ hành động ngay thẳng, sự ngay thẳng chỉ có thể có nhờ kinh nghiệm và nhận thức thời gian qua nhanh hơn đối với họ – đàn bà. Đám đàn ông ủng hộ lập tức sự ngay thẳng đó, khôn ngoan không tạo áp lực gì, mặc nhiên mà hưởng thụ.

Sự thật những chàng phi công là một thứ hội ái hữu hoàn hảo, chỉ ra ngoài vòng bạn hữu duy nhất vì lý do sinh lý mà họ không thể chế ngự được. Điều này tạo cho họ vẻ lạnh nhạt thật hấp dẫn đối với đàn bà.

Lúc Marian Kidd, nhũ danh Marian Dowd, đang ở vào năm cuối đại học, thì cha nàng phục vụ đợt đầu trong hai đợt tại căn cứ này. Cô con gái khả ái của ông về nhà trong những ngày nghỉ, thích ngồi ở sân thượng này và được tán tỉnh một cách tế nhị.

Cái chương này gấp lại khi nàng cưới Alan Kidd.

Nhưng cuốh sách thì chưa hết. Gần đây nàng trở lại Câu lạc bộ sĩ quan, ít nhất tuần một lần, và lại bước vào cái sân thượng của hội trường Balinese, được hộ tống bởi người đàn ông mà nàng đã cưới. Song bây giờ, hình như có một cái gì lo âu trong những cử động của thân xác, có thể, nàng đến đấy để được trấn an là mình còn hấp dẫn, còn được ca tụng. So với ánh đèn trắng trợn trong phòng tắm ở nhà đã phơi bày trên gương cái nét trễ xuống của đôi môi và vài vết nhăn mờ quanh mắt, thì ở đây, thứ ánh sáng dịu dàng từ vách tre mái lá đã che khuất được những tệ hại đó. Và bọn đàn ông vẫn bu quanh nàng. Cái việc nàng đã có chồng không phải là một rào chắn hữu hiệu. Nàng càng không mong nó hữu hiệu. Phần lớn đàn bà đến đây đều có chồng.

Lúc này, trong đêm thứ bảy này, nàng đang là tâm điểm của một đám khoảng mươi chiếc ghế dựa, được đóng theo kiểu thật thấp và có chỗ ngồi thật sâu, để làm cho cả hai con đường đi vào hai kho tàng của đàn bà, từ đầu và từ đầu gối như phơi bày hết ra, mời mọc. Nó vừa là tinh hoa, vừa là ma lực của thân xác, dục tình. Marian được bao vây bởi đám người đang chờ đợi nàng ban ân, và nàng không thể ngăn họ tin vậy được. Nụ cười nàng lúc hướng bên này, lúc chiếu phía kia, là một lối bày hàng thú vị. Và tại sao không? Còn có gì khoái trá hơn nào? Được là một người đàn bà đẹp, được bao vây, được ngắm nghía, được giả vờ vô tình đụng chạm, rồi có lúc cố tình, được mời đón, được đo lường, được-hứa-hẹn-sẽ-bị-nuốt-chửng.

Nàng đã thiếu mất lạc thú này, lâu quá rồi. Vậy ai dám trách nàng muốn tìm lại?

Trên lò nướng khổng lồ bằng sắt, hai con cá đang bốc mùi thơm phức. Đứng gần đó là chồng nàng. Cạnh chàng, sát lò than, là quân nhân chuyên nghiệp hoàn hảo – trung tá Earl McCord. Và đi cùng ông là người đàn ông bận thường phục, trông như giám đốc của một công ty quảng cáo chưa mấy thành công, nên dễ bị lầm lẫn gã với một tay chào hàng điện tử, nhưng thực sự, gã chẳng đúng với trường hợp nào. Cũng như bất cứ phi công nào, hắn có dáng vẻ tự tin, và là một thành viên của lớp người ưu tú ở địa hạt khác.

Hắn nói với Alan, trong lúc lật miếng thịt rán:

- Tôi lo cho hắn. Anh là bạn thân của hắn à?

- Tôi khoái Michael, nhưng không nghĩ chúng tôi là bạn thân. – Alan thận trọng đáp.

- Tôi nghĩ chúng ta nên làm một cái gì đó để giúp hắn, đúng không anh? Tôi thấy hắn ngay hôm đầu tiên tôi đến thành phố này, trong phòng xử, nom có vẻ xúc động mạnh. – Người đàn ông bận thường phục nói.

Alan chọn cà chua xanh cho đĩa salad của mình, và chín cho đĩa của Marian:

- Hắn xúc động lắm đây. Nhưng anh tính làm gì?

- Tôi không biết. Đang định hỏi anh...?

- Tôi tưởng anh biết. Kế hoạch của anh thế nào?

Người đàn ông có vẻ bất bình vì sự ngờ vực của Alan, cắt một củ khoai tây đút lò, nói:

- Tôi nghĩ ta nên thuyết phục hắn rời khỏi thành phố này, trong một thời gian, ở đây hắn có thể gặp nguy hiểm, không phải vì những gì hắn làm, mà vì... ý tôi là... hắn khá dễ thương, dựa theo những gì tôi biết, và chẳng liên quan gì đến chính trị, phải không?

- Anh nên dùng thử loại phomat này. – Alan nói.

- Nhưng hắn đang chung đụng với một đám bất hảo, anh có nghĩ vậy không?

- Có. – Alan công nhận,

- A, anh biết hắn ở đâu không, lúc này? Tôi không hỏi chỉ để biết đâu, tôi sắp nói cho anh hay điều này, nếu anh chưa biết.

- Tôi không biết.

Alan vén chiếc khăn phủ lên rổ bánh mì nóng hổi, lấy ra hai chiếc cho chàng và hai chiếc cho vợ.

- Chúng tôi vừa được tin... à, anh biết không, tất cả bọn chúng đều ra sa mạc để chôn cất tên bị giết, và sau đám ma, đã xảy ra vụ ẩu đả lớn. Một tên được mang vào bệnh viện với vết thương khá nặng, hiện đang trong phòng hồi sức với mảng da đầu bỏ đi chơi đâu đó,

- Không phải Michael chứ?

- Không. Nhưng hắn ở ngay giữa đám đánh lộn đó.

- Làm sao anh biết, ngay khi chuyện vừa xảy ra?

- Phận sự chúng tôi là phải biết nhanh nhất có thể.

- Alan trở lại lò nướng, lật con cá. Người kia đi theo:

- Chúng tôi muốn biết tất cả những gì ảnh hưởng đến tư tưởng của hắn.

- Tôi lật giúp con cá của anh nhé?

- Cám ơn anh.

- Những chuyện đó ảnh hưởng đến tư tưởng của hắn như thế nào?

- Có phải hắn đe dọa mạng sống của anh không?

- Không.

Gã đàn ông nhìn miếng thịt bò của hắn, vẻ buồn phiền vì câu trả lời của Alan:

- Chúng tôi có lý do để tin rằng hắn đã đe dọa anh.

- Vợ tôi nói thế?

- Nếu là vợ anh, tôi cũng không thể nói ra. Nhưng không phải. – Ông ta nhìn về phía trung tá McCord, rồi quay lại Alan. - Nhưng anh nên biết.

- Phải. Tôi nên biết.

Chàng mong mình không phải nói dối, nhưng tự an ủi, gã đàn ông cũng đang nói dối. Chàng lấy miếng thịt bò của Marian ra khỏi lò, bỏ vào đĩa nàng. Chàng tức giận vợ. Gã đàn ông nhận xét:

- Vợ anh có vẻ khoái thịt bò vừa chín tới?

- Nàng quen sống trong trại lính!

Alan định bỏ đi. Người đàn ông gọi lại:

- Chờ một chút.

McCord cũng gọi theo.

- Chờ chút. Chúng tôi muốn anh giúp đỡ trong...

- Tôi không thể giúp đỡ gì các ông được.

- Sao không? – McCord gắt gỏng.

Alan bực bội vì phải giải thích:

- Bởi tôi không còn ảnh hưởng gì đối với hắn nữa. Bởi hắn không thèm nói chuyện với tôi nữa.

- Anh nên mang thịt bò cho vợ anh đã. – Gã kia nói.

Alan gật đầu, đi về phía Marian đang cười đùa với mấy gã tán tỉnh nàng. Gã mặc thường phục nói với McCord, giọng buồn phiền thực sự:

- Tôi sợ hắn nói dối chúng ta.

Trung tá McCord xấu hổ giùm cho Không quân.

Alan lo lắng. Mặc dù nghi hoặc, chàng vẫn thấy thích gã đàn ông này, cũng như cảm thấy Michael đang gặp rắc rối. Chàng giận Marian đã mách lẻo về chàng, dù nàng không bịa đặt. Và Alan lo âu việc Michael sắp làm, như gã đàn ông kia nói.

Có một thông cáo ngắn vang lên. Giờ hạnh phúc đã chấm dứt, nghĩa là cái giờ mà giá các thứ uống được giảm năm mươi phần trăm đã hết, Alan thấy McCord nói gì với người khách của ông ta, cầm những ly rỗng không của họ lên, bước lại quầy hàng.

Alan trở lại bên gã đàn ông:

- Tôi không muốn nói với anh trước mặt trung tá McCord. Nhưng tôi lo lắng cho Michael Winter.

- Tôi nhận thấy điều đó. Ngồi xuống đi.

- Anh biết, ở hắn, có một cái gì đó lương thiện.

Gã đàn ông đồng ý:

- Và chúng ta không được phép quên rằng, việc làm cho hắn xúc động mạnh như vậy, là cái chết của người bạn thân nhất. Đó là một gánh nặng quá lớn, với một chàng trai. Nhưng đồng thời chúng ta cũng không được phép quên rằng dù hắn là một tên trẻ tuổi, nhưng vài tên trẻ tuổi trong bọn lại có những thứ vũ khí giết người, và cái quyết tâm dùng vũ khí đó. Nhiều tội ác trong quốc gia này đã xảy ra từ một thứ lý tưởng nào đó, phải không? – Alan gật đầu. - Một khẩu súng, dù dài hay ngắn, trong tay một đứa trẻ, dù ngây thơ hay trong sạch nhất, cũng có thể gây chết người, phải không? – Alan gật đầu. - Anh thấy đấy, hắn không còn tin dân chúng chú ý đến những lời nói, mà chỉ chú ý đến các hành động. Và hắn đang trên bờ vực, tôi nghĩ là anh nói đúng, làm một việc gì đó có thể hủy hoại đời hắn.

- Hay đời anh?

- Ờ, tôi đoán chừng...

- Điều chúng ta lo lắng đây, là những gì có thể xảy ra nếu thượng sĩ Flores được trắng án.

- Chắc anh định nói là “khi?”

- Có thể lắm. Chúng tôi muốn sẵn sàng...

- McCord trở lại đó. – Alan đứng lên.. - Tôi sẵn sàng làm bất cứ việc gì có ích cho Michael, chứ không phải anh! Tôi không biết trong vụ này công lý nằm ở đâu, nhưng chắc chắn không trong việc tha bổng cho Flores.

- Tôi cũng không nghĩ vậy. – Gã đàn ông nói nhanh, thấy McCord đang lại gần. - Vậy bất cứ việc gì anh nhờ mà có ích cho hắn, tôi rất vui lòng thực thi.

- Tôi có thể bắt anh làm đúng như lời anh nói đó.

- Tôi chưa làm được gì cả.

Alan làm cho gã đàn ông ngạc nhiên, và cả chàng cũng ngạc nhiên, khi bắl tay gã, gật đầu gượng gạo với McCord, rồi bỏ đi.

2

Don Wheeler, tôn trọng ước muốn cuối cùng của vợ, đã lập tức hỏa thiêu xác bà. Hope muốn ông ngồi một mình trong nhà nguyện và ông cũng đã y lời, một mình ngồi trên hàng ghế đầu ở nhà hậu sự.

Gavin gửi hoa đến viếng. Chàng là người duy nhất trong số những người cộng tác của Wheeler biết tin cái chết của bà Hope.

Buổi lễ ngắn ngủi. Có một bản nhạc tang trong lúc Wheeler ngồi nhìn chiếc quan tài trắng. Rồi cánh cửa phía sau nhà nguyện mở ra, và chiếc quan tài được đẩy trên những bánh xe giấu kín, theo điệu nhạc dạo trang nghiêm. Lúc quan tài khuất thì cánh cửa được đóng kín. Điệu nhạc vang lên thánh thót, rồi dồn dập, rồi một bài thánh ca thu băng vang lên Thiên Chúa là Đấng chăn chiên của chúng tôi.

Wheeler ngồi thêm ít phút. Nhà nguyện vắng lặng.

Một người đàn ông bận áo đen tiến lại, ngồi xuống hàng ghế ngay sau lưng Wheeler một lúc, rồi kính cẩn cúi người về phía trước:

- Ông có chắc chắn về việc sử dụng tro không? Trộn lẫn, rồi bỏ chung vào vỏi tro của những người khác?

- Phải. Vợ tôi thích vậy.

- Những người nào?

- Bất cứ ai. Hôm nay, ngày mai...

- Để coi. Có một ông...

- Tôi không muốn biết tới.

Ông quay lại, đối diện với Ernest Bryant. Nét mặt của Don Wheeler trông thật kinh khủng. “Xong chưa?”

- Xong. Di thể đã tan thành tro.

- Nếu ông muốn thanh toán nhanh chóng, nên đưa hóa đơn ngay. Tôi sẽ rời khỏi đây vào thứ ba, và rất lâu.

Bryant vội vàng ra ngoài.

Lò hỏa thiêu được chất xác chết tiếp theo.

Wheeler đi bộ đến Văn phòng Luật sư Wheeler và Tổ hợp. Đường phố vắng ngắt, cả tòa nhà, cả văn phòng ông trống vắng.

Ông đột ngột quyết định thực hiện việc vừa nói: rời bỏ nơi đây vào ngày thứ ba. Ông không muốn phải trải qua những tục lệ chia tay.

Trong chiếc tủ lớn, ông thấy những thùng cacton dày mà ông đã mua sẵn. Ông cởi áo, rồi chất hồ sơ vào.

Chỉ có một việc quan trọng duy nhất mà ông cần làm trước khi bỏ đi. Ông gọi cho Gavin. Vợ chàng nhấc máy, và ông bảo Betty, “Đánh thức nó dậy!” Thì ra Betty không biết Hope đã chết. Song ông đã dặn Gavin đừng cho ai biết mà, Ông hài lòng nhận thấy có thể tin cậy ở Gavin, trong cả những việc như thế. Ông nói:

- Đến đây. Ta muốn con giúp ta dọn đồ.

♣ ♣ ♣

Sau cuộc gặp gỡ lâu và thất vọng với đại diện của ông trong thị trường chứng khoán, Chánh án Breen gọi điện cho con trai. Arthur vừa dự một cuộc họp đêm. Mặc dù đã bỏ học, nhưng cậu vẫn còn làm việc cho một tạp chí cực đoan của sinh viên có tên PHIPHI, nhờ vậy, Chánh án còn gặp được con trai.

Câu hỏi đầu tiên của nó là, “Ba đến đây làm gì?”

- Con không thích gặp bố sao?

- Con muốn nói là bố đến miền Đông này làm gì. Dĩ nhiên là con mừng.

- Ba đùa đó thôi. Con không bao giờ uống bia sao?

- Con không uống. – Chờ ông bố gọi bia xong, cậu nói. - Những tên nghiện rượu như ba đã bỏ tù bọn con vì tội hít.

Breen sợ không dám hỏi con hiện hít đến độ nào. Nó có vẻ khỏe mạnh, đôi mắt trong sáng, và trên người có một vẻ thoải mái, tự tin mà ông bố chưa từng thấy.

Rồi Thuston Breen khám phá ra Arthur biết tất cả về vụ án ông đang xử. Cậu hứa hẹn:

- Ba sẽ trở thành nổi tiếng, rát nổi tiếng, nếu thằng chó đẻ đó được tha bổng. Ba sẽ được xếp ngang hàng với tên Hoffman.

- Làm sao con biết về vụ án này? Trên báo chắc chưa có tin gì đáng đọc. – Breen hỏi.

- Báo chí ở đây là cái cứt gì, tờ New York Times à? Tờ báo của bọn con mới thật là đầy đủ.

- Ba đoán con được đặc quyền viết về ba?

- Còn ai biết ba hơn con nữa? Con sẽ gửi biếu ba một bản.

- Gửi về nhà chứ đừng về vàn phòng. Con muốn nói gì, khi bảo ba sẽ nổi tiếng? – Breen cười lớn.

Trong tờ East Village Other, họ gọi ba là ông Chánh án thi hành luật treo cổ lừng danh khủng khiếp. Họ vẽ một ký họa, trong đó ba là một hình nộm do hai nhân vật giật dây, thứ nhất là ông chủ mỏ Đồng bự, và thứ hai là đại tá Cánh Lớn.

- Thôi đi, con biết chuyện đó không đúng mà. – Cậu con chỉ nở nụ cười dễ thương. - Arthur, có phải ba gây phiền cho con không?

- Không tí nào. Con không tự coi có trách nhiệm về những gì ba đã hoặc đang làm.

- Rất đúng!

Breen bỗng cảm thấy hiếu chiến hẳn lên.

- Chỉ có việc này. Con sẽ viết thư cho ba, nhưng thôi, để con nói luôn. Con đang đổi lại tên cũ. Bây giờ con là Art Greenbaum, được không?

Breen hét lên, trước khi biết là mình hét. “Không!”

- Con đã làm vậy rồi, đâu thể ký tên Breen dưới bài báo viết về ông Chánh án Breen được, phải không ba?

Rồi mỉm cười, và nói bằng một giọng dịu dàng hơn:

- Ba không thể làm gì về vụ này nữa đâu. Con bồ của con đến rồi kìa.

Cô gái mặc chiếc quần dài cũ rách, và đi chân đất, nhưng đẹp. Breen ước sao nàng đi với ông. Arthur giới thiệu hai bên, và câu đầu tiên nàng với ông là:

- Ông định tha bổng tên sát nhân đó sao?

Breen cố gắng nói cho cả hai hiểu rằng ông chỉ ngồi chủ tọa phiên tòa, và trong chế độ bồi thẩm đoàn, thì họ mới là quan tòa thực sự. Nhưng trong lúc nói những câu đó, thì ông biết rằng họ đã biết, là Flores sẽ thoát tội, và không có cách gì thay đổi được.

Ngồi vào xe, ông nhớ là chưa đề cập đến vụ Arthur bỏ học. Song, có vẻ không đúng lúc lắm.

Vải trải giường trong phòng khách sạn toàn mùi khử trùng, ông không ngủ được, dậy mặc quần áo và đi bộ về phía Broadway. Một chiếc bánh mì kẹp bơ! Ông nhớ lại từng thích loại bánh đó khủng khiếp, nhưng bà chủ hiệu bánh, Lindy, đã biến mất, còn hàng quán mới thì bẩn thỉu và đầy những người mà ông không ưa.

Ông đi bộ vào sâu Broadway, sang bên kia đường Bốn Hai, uống rượu liên tiếp trong ba quán trên đường Số Tám, những chốn cũ với những tên mới, khách mới.

Một ả điếm đen với bộ tóc giả màu vàng chặn ông lại, mời mọc. Ông tránh ra, nhận thấy mình khiếp sợ ả. Bây giờ trò này trở nên công khai quá. Tình dục đã tràn ra đường phố. Ông đến một rạp, xem những phim tình dục suốt đêm.

Điều làm ông chú ý nhất (đây là cuốn phim tình dục đầu tiên mà ông xem), là diễn viên thật trẻ, thật thành thạo, và cũng thật đẹp, tất nhiên. Ông còn ngạc nhiên vì chúng có khả năng kéo dài cuộc chiến quá lâu.

Lúc hai giờ sáng, ông thấy mình lại lang thang trên đường phố Broadway. Vào giờ này, xem ra phố sá chỉ còn kẻ bất lương. Ông không muốn nghĩ đến viễn cảnh của những đô thị trong quốc gia này. Ông sung sướng vì còn những tiểu bang mang tên New Mexico, Arizona, Nam California...

Đêm đó, nằm trên giường, Chánh án Breen trực diện với thực tế. Ông sẽ không bao giờ trở lại New York, hay bất cứ đô thị lớn nào nữa. Dù thăng hay trầm ông vẫn sẽ vĩnh viễn gắn mình với vùng đất Tây Nam. Còn Teddy Greenbaum? Thôi đành quên hắn đi.

3

Đêm đó, lúc Marian lên gác ngủ, thì Alan xuống nhà, để đi lang thang.

Hai vợ chồng đi ngang nhau mà không nhìn nhau. Rồi từ trên đầu cầu thang, Marian nói xuống:

- Anh nghĩ sao về cái tay đó? Cái người lạ mà anh gặp trong bữa tối đó?

Alan dừng lại ở chân cầu thang:

- Anh nghĩ hắn nói nhiều điều đúng.

- Không ngờ anh còn biết khen. Và sao nữa?

- Tôi ghét những tên chỉ điểm.

- Em?

- Em có quyền gọi tên ra.

- Còn gì nữa không?

- Em cứ việc tiến tới – với lời chúc tốt lành của anh.

- Nghĩa là...

- Em đã thông báo cho những ai có mặt trong bữa ăn tối nay, là em ra tối hậu thư cho anh. Bay theo đường thẳng, nếu không em sẽ bỏ anh để theo, nếu cứ như tình hình đêm nay thì, hầu hết nhũng chàng phi công của phi đoàn Năm lăm. Đúng không?

- Alan, anh mắc chứng bệnh loạn óc rồi.

Lúc bước ra khỏi cửa chính, Alan nghe tiếng nàng từ cái nơi vốn là phòng ngủ của vợ chồng:

- Tôi căm thù anh! Tôi không muốn thấy anh nữa!

Một kết thúc, Alan nghĩ, không đúng lúc. Nó đến sau khi mọi sự đã xong xuôi. Bước đi, lòng chàng nhẹ nhõm, và chẳng bởi cái gì, tràn ngập hy vọng.

♣ ♣ ♣

Quá trưa một chút thì Wheeler và Gavin đóng gói xong xuôi. Giữa nhà, một đống bảy thùng cácton chồng lên nhau, trên đó là bộ yên cương ngựa kiểu Mehico mà Wheeler đã trưng trên giá để yên trước cửa sổ nhìn về phía bắc, để “nhắc tôi nhớ đến người đàn bà của tôi.”

Trong một góc phòng u tối xa cửa sổ, có đống hồ sơ, văn kiện luật pháp, thư tín, tóm tắt, những đe dọa, hứa hẹn, thỏa hiệp, bí mật, công khai, bản sao những lời chứng đã bị quên lãng, những hợp đồng mãn hạn từ lâu, và khoảng vài trăm danh sách các bồi thẩm đoàn và những bản án... đó là hầu hết những gì mà Wheeler sưu tập trong suốt hai mươi lăm năm, để bây giờ nhận thấy không đáng lưu giữ nữa.

Ông rửa tay, mặc áo ngoài, rồi ngồi xuống, và bảo Gavin cùng ngồi. Ông muốn nói với chàng một chuyện.

- Sau thứ ba này, ta không còn ở đây. Grace sẽ gửi những thứ này sau. – ông chỉ đống thùng và chiếc yên ngựa. - Còn những của nợ này thì cho mồi lửa. – Ông chỉ mớ giấy tờ. - Chắc ta sẽ không trở lại. Văn phòng này từ đây là của con. Ta hy vọng một ngày nào đó, đừng vội khi thấy tất cả chưa sẵn sàng, con sẽ thay ta điều khiển Tổ hợp này. Ta muốn vậy. Ta đã quyết định trao cho con các cổ phần và của ta. Việc định thời biểu là do con.

- Cám ơn... ông. Ông sẽ ở đâu ạ?

- Ra nước ngoài. Ta gom góp được ít ngoại tệ, nói riêng thôi nghe, gửi ở Thụy Sĩ, và ở Johannesburg ta có ít cổ phần tại các mỏ vàng. Ta chưa nói với ai về vụ này.

- Ông biết là có thể tin tôi được.

- Gavin, ta đã không tin từ lâu, vào tương lai quốc gia này. Bây giờ thì ta biết không còn làm được gì cho vụ án, song lại không đủ can đảm ngồi nhìn nó diễn ra. Nói thật với mày, tao không dám đọc báo nữa. Chúng làm tao lộn ruột. – ông bỗng đổi cách xưng hô..

Gavin quyết định không nói cho ông biết về con chó bị đâm của chàng. Ông như kẻ đang đứng trên bờ vực.

- Tao còn một chuyện nữa muốn nói với mày.

- Xin ông cứ nói.

- Một lý do, lý do khác là ta thật sự thương con, luôn thương con, thật sự tin con, luôn luôn, nhưng một lý do xui ta luôn quan tâm rất nhiều đến con, là bởi ta đã coi con là con trai của ta.

- Thưa vâng.

Họ nhìn thẳng mặt nhau. Cuối cùng Wheeler nói:

- Những chi tiết không quan trọng. Tuy nhiên nếu con muốn, ba có thể viết thư cho con sau, lúc nào ba rảnh rang hơn.

- Thưa, con muốn.

Nếu có ai trong họ có cái ý nghĩ ôm nhau, hoặc biểu dương cụ thế cái tĩnh cảm mới vừa tìm được, thì không ai tỏ ra dấu hiệu gì bên ngoài. Cuối cùng Gavin bảo:

- Con xin phép hỏi. Thưa, bà Wheeler biết không?

Người mới làm bố nói một cách thận trọng:

- Bà Wheeler luôn luôn tin tưởng nơi ba, tuyệt đối. Bà không có lý do nào để mất sự tin tưởng đó, ngay ở phút cuối cùng.

♣ ♣ ♣

4

Michael thức dậy, co quắp như con tôm trong một trũng thấp của biển chết, bây giờ đã thành sa mạc.

Gã nhận ra vị trí của mình ở giữa đám người đến dự lễ hạ huyệt, và chiếc xe hơi của Donna. Gã đứng lên, chúi về phía trước, rồi đi tới, không nhìn thấy ai ở cả hai bên lối đi của gã.

Những người nằm ngủ đều tụ quanh trũng thấp, rải rác từ đó lên đỉnh đồi, và phía bên kia đồi.

Bây giờ họ đều là những kẻ xa lạ.

Gã đứng yên nhìn xuống Lonnie và Rosalie. Đây là ngây thơ hay đần độn? Họ ngay thẳng, hay chỉ sống ngày nào biết ngày đó? Ngày mai, mốt, hay vài ngày sau đó họ sẽ tản mác không biết tới đâu, với nụ cười yếu đuối thân thiện còn đọng trên môi, nụ cười thương yêu, dịu dàng, vô ích, với ký ức ngắn ngủi của con vật, sống ngoài lề xã hội, vì chẳng có lý tưởng gì, mà chỉ có thụ động. Ở đây, họ đã thực sự tự biểu dương được tâm tình mình, ôm ghì nhau ngủ say.

Một vài đứa nằm dưới chân gã nói chuyện cách mạng. Cách mạng cứt chó gì. Michael nghĩ.

Chiếc xe Donna đầy người, cả băng trước lẫn băng sau. Michael đuổi bớt xuống với vài lời gắt gỏng, khoái trá nhận thấy họ không ưa gã, khi gã tỉnh táo.

Rồi gã lái xe đi. Gã để chiếc xe bên ngoài nhà của Donna, bỏ chìa khóa xe vào hộp thư, nhận ra không có cảnh sát canh chừng tòa nhà.

Michael muốn ở trong nhà, trong bóng tối, lúc này. Gã không muốn phải trả lời những câu hỏi, càng không muốn gặp người bạn nào, hay bất cứ người nào có thể nghĩ gã là bạn họ.

Chỗ mà gã chọn do một tên từ New York làm chủ, Ben Rose, đã thành người lớn, một người Do Thái ít nói, gầy guộc, thông minh, có tham gia hoạt động, quần áo lôi thôi nhưng sạch sẽ, tóc dài được buộc lại sau gáy. Đó là con người sống trật tự, và làm chủ một ngôi nhà ngăn nắp. Gã đang phải quanh quẩn trong thành phố chờ tòa xử, không lợi dụng được tại ngoại hầu tra để chuồn, dù mọi người đều biết gã có thể bị kêu án từ một đến năm năm vì tội tàng trữ.

Michael nói hết sự thật với gã, cả việc mình đang bị theo dõi, rồi hỏi ở lại được không? Ben do dự. Hắn là một thày giảng Do Thái giáo, Michael nghĩ.

Ông thày giảng gật đầu.

Ben đầu tư vào tương lai chính trị. Tất cả những tên trốn cảnh sát đều nên được giúp đỡ.

Hắn dẫn Michael qua gian phòng có một cô gái béo mập đang ngủ cùng một tên quá khích nổi tiếng liều lĩnh, cũng đang chờ bị kết án từ một đến năm năm, để sang một phòng khác. Tại đây, Ben mở cánh cửa tủ và chỉ cho Michael thấy một lỗ hổng lên trần, là lối đi lên căn gác xép ngay dưới mái nhà, nói. “Trên đó.”

Một góc của gác xép có người. Wally, chuyên viên phóng đạn, làm việc trong một hầm chứa phi đạn mà Không quân đã thiết kế trong vùng này. Wally bị giải ngũ vì hạnh kiểm xấu, nói trắng ra là đang phi trong lúc làm nhiệm vụ, khoác lác đã từng phi heroin trên một ngàn lần. Không ai tin con số đó, nhưng chắc chắn đã có một cái gì làm cho hắn lủng củng ở đầu. Hắn tặng Michael nửa liều để dành, rồi xua tay đuổi những tiếng, hay cử chỉ cám ơn của kẻ nhận.

Michael bước đến góc đối diện với hắn, nằm xuống tấm ván, và ngủ liền.

Về sau, gã không bao giờ có thể biết chắc được những gì xảy ra, hay đó chỉ là giấc mơ. Che Weil quì cạnh gã, trông giống hệt như trong tấm ảnh tuyển mộ lính, có cả chiếc mũ nồi. Michael nhớ gã có hỏi, “Mày kiếm đâu ra tiền?” Gã không chắc Che có trả lời không, nhưng khi thức dậy, gã thấy có một tờ giấy hai mươi đô trong nắm tay. Như vậy chắc là thực. Rồi gã suy ra.

Trước đây, Michael luôn cho rằng cảnh sát đã vào lục dưới sàn gỗ của ngôi nhà đường Nữ Vương và lấy mất khẩu súng, cùng lọ thủy tinh đựng heroin. Bây giờ thì gã biết chắc ai đã lấy.

Che là đệ tử của tên mập Preddie, kẻ đang có tiền, và Che chỉ có thể lấy tiền từ đó, chẳng còn đâu khác.

Và như vậy có nghĩa là tên mập Freddie hiện đang ở đâu đây trong thành phố, có tiền, cùng khẩu súng, và biết Michael đang ở đâu.

♣ ♣ ♣

Betty McAndrews lấy hai con cá ra khỏi tủ lạnh, mà nàng đã để dành mấy bữa nay. Bữa ăn tối tuy ngon nhưng không có vẻ thành công lắm. Lần thứ nhất, Wheeler và Gavin có vẻ căng thẳng với nhau.

Chẳng qua đầu óc Gavin còn quá nhiều nghi vấn chưa được giải đáp. Ngoài mặt thì mọi chuyện vẫn như trước, và chính điều đó làm chàng bối rối.

Theo như chàng thấy thì Wheeler cũng có vấn đề rắc rối. Cuối cùng ông nói:

- Tôi đã thu dọn hết quần áo của mình, nhưng không biết làm gì với quần áo của bà ấy.

Đây là lần thứ nhất Betty biết tin bà Hope mất.

Wheeler không chịu đựng được những lời chia buồn của nàng, những nỗ lực của nàng để tỏ ra buồn phiền mà càng lúc lại thành ra vui vẻ. Ông tự nhủ, ích gì, họ gần như không quen nhau, Hope và con nhỏ này.

- Tôi sẵn sàng chọn lựa và giải quyết quần áo của bà giúp ông. – Betty nói.

Wheeler không hề muốn cô ả đụng chạm đến quần áo của Hope. Ả lại nói bằng giọng rầu rĩ, nhưng thực tế.

- Hay là chúng ta đem tặng cho Viện Dưỡng lão Phương Nam?

- Chẳng ai có thể dùng quần áo của bà ấy.

- Trẻ con. Trẻ con có thể dùng được.

Betty vẫn cố, nhưng Wheeler đã đứng lên:

- Để tôi sẽ liệu lấy. Anh chị bỏ qua cho nhé. Món cá tuyệt vời, nhưng bữa nay tôi ăn không thấy ngon.

Ông đi ra. Hai vợ chồng đi theo. Ông nói với Gavin:

- Tôi sẽ viết thư ngay cho anh, như đã nói. – ông bắt tay Betty, rồi quay sang Gavin. - Mấy ngày qua anh đã rất xuất sắc trước tòa. Mai hãy làm cho chúng điên đầu luôn đi.

- Thưa ông, tôi sẽ cố gắng.

Cánh cửa đã khép lại, Betty hỏi khẽ:

- Em có làm gì sai lầm không anh?

♣ ♣ ♣

Don Wheeler lái xe xuống phố. Hai bà già da đỏ ngồi ở góc đường, đưa lên những hạt chai bùa phép mời khách qua lại. Ông cho họ mỗi người mười đô la, và chở họ về ngôi nhà của ông trên đỉnh đồi.

Cuối khu nhà ông, sau ngôi nhà chính, có một lò đốt lộ thiên có đầy đủ vách ngăn, ông khói, ống thông hơi, để tiêu hủy rác. Wheeler đốt lửa lên, rồi bảo hai bà già dọn sạch sẽ tất cả mọi quần áo, vật dụng trong các tủ áo của Hope, từ đồ lót đến đồ dạ hội, áo khoác mùa đông, áo mặc mùa hè, mọi thứ, ném vào lò đốt. Ông không tự tay làm bất cứ việc gì.

Một trong hai bà, cuối cùng đủ can đảm xin giữ lại vài món cho con gái. Wheeler cho mỗi người mười đô la nữa, rồi bảo họ thiêu hủy tất cả, cho đến khi Wheeler hài lòng nhận thấy không còn một thứ gì chứng minh Hope từng hiện diện của trên trái đất này nữa.

Họ làm xong mọi việc đúng khi trận bão thổi tới, đột ngột và dữ dội. Wheeler không muốn phải lái xe chở họ xuống phố trong mựa bão, để hai bà ngủ lại trong phòng ngủ trước kia của Hope.

♣ ♣ ♣

Tháng Bảy vùng sa mạc thường có mưa giông lớn. Gió chướng nổi lên và mưa đã được dự trữ trong những túi mây tụ trên đầu các đỉnh núi phía Bắc, đột ngột di chuyển xuống, và đổ ào ào. Dân chúng trong vùng nói đây là trận mưa lớn nhất từ nhiều năm nay, nhưng năm nào họ cũng nói vậy.

Trận mưa đã đánh thức đôi vợ chồng mới cưới, và số bạn bè của họ. Lonnie và Rosalie đã kiếm được một vị mục sư từ hôm trước, và chiếc bầu khá lớn của cô gái không đủ ngăn cản ông làm phép cưới với đầy đủ nghi lễ tôn giáo. Bà mục sư đã kiếm ra được một ban thánh ca, để hát bài Ôi, màu nhiệm huyền diệu của sự sống, rồi đến bài Con hiến dâng. Vị mục sư, để kết thúc, đã tặng đôi vợ chồng tấm danh thiếp của ông, và nhận tờ giấy bạc mười đô la cuối cùng của Lonnie.

Đêm hoa chúc đã thành lễ tưới nước của cả đám. Chỉ trong năm phút, từ ba giờ năm đến ba giờ mười, cả bọn ướt như chuột lột. Sa mạc không có chỗ ẩn mưa.

Lúc đầu, nhiều đứa lấy làm khoái lắm, giang rộng tay, ngửa mặt lên trời hứng nước. Nhưng dần dần, khi thuốc đã hết épphê, chúng thấy lạnh run. Sáng sớm, thiên hạ có thể nhìn thấy chúng lếch thếch đi ra đường, về hướng thành phố. Chẳng một ai chịu cho những con vật ướt đẫm và bẩn thỉu này đi quá giang xe.

Trừ Rosalie, thay vì đưa ngón cái lên trời, thì đã đưa bụng bầu ra. Nhờ đó, chỉ lát sau, đôi vợ chồng mới cưới đã được đi nhờ, và như thế thật may mắn, vì hôm nay là ngày Rosalie phải ra tòa làm chứng, và là cái nguyên nhân xúi Gavin mang nàng đến thành phố này.

Cả bọn thì đi bộ từ sa mạc về thành phố, một quãng đường dài trên mười lăm cây số. Lúc về đến chỗ trọ đầu tiên kiếm được trong thành phố, thì chẳng tên nào có quần áo thay đổi, đành ngủ trần truồng vậy.

Trận mưa bão dữ dội đến nỗi công rãnh đều ngập lụt, và rất lâu sau khi mưa tạnh vẫn chưa thoát hết, vì vậy những giống vật sống trong hang lỗ đều bị đuổi lên mặt đất. Sáng đó, đài phát thanh địa phương cảnh cáo dân chúng coi chừng rắn độc.

Phi trường tạm đóng cửa vì mưa bão, và Chánh án Thurston Breen phải đáp xuống một nơi cách đó trăm tám mươi cây số, vào nửa đêm. Ông đành phải chờ đến sáu giờ sáng, lúc hãng cho thuê xe đói nhất chịu mở cửa. Trong bữa ăn sáng, thiên hạ đọc báo thấy dòng tít lớn HÀNG TRIỆU NGƯỜI KHÔNG NHÀ Ở VÌ NẠN LỤT LỚN Ở PAKISTAN.

Băng qua cao nguyên, giữa mưa, quan Chánh án thúc tài xế giữ tốc độ trăm cây số giờ cho đến khi vượt được đèo Father Felipe, và về đến nhà lúc tám giờ kém mười lăm phút.

Vào nhà, ông thấy cảnh sát và vợ ông đang đứng túm tụm. Bà vợ hốt hoảng, kinh sợ. Con chó giống Đan Mạch to lớn bị dao đâm nát bụng, ruột gan vãi đầy.

♣ ♣ ♣

Ông Chánh lục sự Lansing đã biết thứ hai là ngày Gavin McAndrews lôi bọn híppi ra tòa để kết tội, vì vậy ông thức sớm hơn mọi ngày, lôi ra khẩu súng ngắn từ đáy hộc tủ, tra dầu, nạp đạn, rồi nhét vào chiếc cặp vẫn kè kè bên người. Ông đặt cặp lên bàn, khóa mở sẵn.

Chánh án Breen vừa ngồi vào chỗ thì Cy đã đứng lên hỏi ông có thể mời vị bác sĩ tâm thần học của căn cứ không quân Collins ra trước tòa được không, và khẽ nhắc lại rằng việc này trước vốn nằm trong dự tính của Gavin. Có lẽ bây giờ bên luật sư biện hộ cho rằng họ đã có đầy đủ nhân chứng chuyên môn, nhưng phía Công tố thì cảm thấy cần phải có thêm một quan điểm khác, có thể có sức thuyết phục hơn.

Ông Chánh án gọi Gavin, và chàng bảo sở dĩ thay đôi là bởi hai lý do, thứ nhất chàng đã khám phá ra bác sĩ Stevens vốn nghiện rượu nặng, và...

Alan từ giữa các hàng ghế bước lên, nói bằng giọng không chút dè dặt:

- Và lý do thứ hai là ông ta sẽ khai rằng Flores lành mạnh như bất cứ ai trong chúng ta.

Tiếng búa của Chánh án Breen vang lên.

- Thư ký tòa gạt chi tiết này ra khỏi biên bản. – Rồi ông nhìn vào Alan. - Trung úy Kidd! – Và làm hiệu cho chàng ngồi xuống. Vốn quen biết nhau trên sân quần vợt, giọng ông dịu lại. - Trung úy Kidd ông không có việc gì ở đây cả, vậy hãy nên giữ im lặng, bằng không tôi buộc lòng phải mời ông ra khỏi phòng xử.

Alan ngồi trên hàng ghế đầu, nghe thấy Cy nói:

- Thưa Chánh án Breen, lời chứng của vị bác sĩ kia tối cần thiết cho bên Công tố. Nếu ngài không cho phép, tôi sẽ không dám chịu trách nhiệm gì hết.

Cy nói lớn, đủ cho phòng xử nghe, cả các nhà báo.

Đến đây, Chánh án Breen vốn nổi tiếng về tính kiên nhẫn và hòa nhã, đã làm một việc bất ngờ, đập mạnh tay xuống bàn, gay gắt:

- Ông dám đe dọa Chánh án ư? – Ông định nói tiếp, nhưng rồi lại mời luật sư hai bên vào phòng riêng.

Cy ngỡ mình được Alan tán đồng lúc rời phòng xử. Trong phòng Chánh án, ông nói:

- Tôi xin lặp lại. Ông đã thiên vị gạt bỏ bằng chứng mà tôi coi như tối quan trọng...

- Bằng chứng đó có tính cách riêng tư, ông thừa hiểu luật pháp. Mọi công dân đều có quyền đến khám bệnh tại một bác sĩ tâm thần học, về một vấn đề cá nhân và tế nhị, mà không phải lo sợ những gì đã diễn ra giữa bác sĩ và con bệnh sẽ được khai ra trước Tòa, nên tôi không thể cho phép.

- Nếu vậy ngài sẽ phải gánh chịu hậu quả.

- Cy, đừng dọa tôi. Này, vậy ông sẽ hành động gì?

Ông đứng lên làm điệu bộ bước ra ngoài. Cy nói:

- Tôi sẽ kháng án lên Tòa trên.

- Cứ việc. Tòa phúc thẩm sẽ họp ngay...

- Tôi biết điều đó, và tôi cũng biết nơi nào. Cám ơn ông Chánh án.

Ông đi ra khỏi phòng trước cả Chánh án

♣ ♣ ♣

Trong suốt một giờ sau đó, Gavin trình diễn một loạt những tên đi hoang, bắt đầu bằng bảy sinh viên dự bị từng trú ngụ trong ngôi nhà đường Nữ Vương. Tất cả đều đã sống những ngày cuối tuần trong sa mạc, đã bị ướt đẫm vì trận mưa giông, và đã ngủ với quần áo bẩn trên người.

Để thực hiện cuộc trình diễn này, Gavin xin phép Chánh lục sự Lansing, và đã được chấp thuận, để nhân chứng có thể đi chân đất ra Tòa.

Dĩ nhiên, Gavin hỏi chúng, lần lượt, có quen biết Vinnie không? Tất cả đểu trả lời có. Đúng, tất cả đều nói, hắn hiếu động, đúng, hắn có thể trở nên nguy hiểm, đúng, hắn thường nổi chứng bất thường, dĩ nhiên là thế, lắm lúc hắn giận dữ đến khiếp, và ai nấy đều sợ hắn, đúng, đúng lắm... Và hắn, như tất cả chúng ở đây, đều phi, nhưng chúng không biết hắn sống bằng cách nào, và cũng không hiểu làm sao chính chúng vẫn sống được, chuyện đó có gì quan trọng đâu.

Nhưng đến Sandy thì Gavin vấp váp. Trước hết, nàng đã tốt nghiệp tại một đại học miền Đông nổi tiếng, Swarthmore, hạng ưu và bằng khen về môn triết học.

- Về môn gì? - Gavin hỏi.

Sandy đáp bằng giọng để nói với gia nhân:

- Này ông, ông đã nghe rõ tôi nói gì, vậy sao còn bắt tôi lặp lại? Để tôi trả lời giúp ông. Bởi vì ông muốn phơi bọn đi hoang chúng tôi ra đây như những tên điên khùng, bệnh hoạn. Tôi tốt nghiệp hạng ưu nhưng từ lâu nay, chuyện đó đối với tôi chẳng có giá trị gì. Bây giờ tôi có thể trả lời trước cho ông về những điểm khác không, bởi vì cái lối hỏi đáp này thật chán quá.

Gavin nhìn Chánh án. Ông gật đầu. Sandy tiếp:

- Vinnie hay nóng giận. Các ngài có dám trách hắn không, khi nhìn vào cái thế giới xung quanh đây? Hãy nhìn vào những khuôn mặt trong phòng xử này! Tôi đã phải ăn ba viên đỏ trước khi dám bước vào đây. Câu hỏi thứ hai. Đúng, Vinnie sống bằng cách buôn ma túy, và việc đó ít ra cũng khả kính ngang với việc đi kiếm mối cho xe cứu thương vậy. Đúng, Vinnie có thể nổi khùng, nhưng mà tôi... chắc cũng không đủ khả năng ở chung với bất cứ vị nào trong các ngài đây một phòng, nếu tôi không phi lên đến tận ngọn tóc.

Gavin cảm thấy chàng cần phải ngắt ngang, ít ra vì hình thức:

- Thưa quan tòa, tôi sợ rằng phải...

- Hãy để cô ta nói tiếp.

Trong lúc hai người trao đổi, Sandy vẫn tiếp tục:

- Đúng, tôi biết Vinnie khá nhiều, điều đó có nghĩa là tôi có làm tình với hắn, vả lại, ai mà không thế? Mấy lần? Bất cứ lúc nào tôi gặp may. Còn về binh nhất Jeff Wilson mà tên này hạ sát, người lính da đen mà không một ai trong các ngài nhắc đến? Phải, tôi có quen hắn, và tôi cũng đã ngủ với hắn, bất cứ lúc nào tôi gặp may. Hắn là người rất tốt, hắn có đánh lộn với Flores vì cãi nhau về chiến tranh, và hắn nói là hắn không chịu bắn vào những người cùng màu da. Flores bèn chế giễu hắn, đánh hắn và...

Cy không chất vấn gì Sandy.

Lúc nàng bước khỏi bục nhân chứng, cả phòng xử đều có thể thấy nàng đang sống trong một thế giới khác. Chánh lục sự Lansing phải đẩy nhẹ một chút để hướng dẫn nàng ra khỏi cửa.

Bồi thẩm đoàn ghê sợ. Và đó chính là lý do xui Gavin để cho Sandy dài dòng đến như thế.

Cái điểm nơi Rosalie khiến bồi thẩm đoàn ái ngại, là nàng có vẻ hạnh phúc quá. Trông nàng thật dễ thương, tóc tết thành bím, chiếc áo thụng ngắn phủ rộng lên người, bầu ngực căng phồng...

Trước khi Rosalie bắt đầu, Gavin đã nói cho nàng biết chiều hướng của các câu hỏi. Chàng ngập ngừng nói rằng cần phải hỏi vài câu hỏi có tính cách riêng tư, nhưng dù sao, thì họ cũng đang đối phó với một vấn đề sống và chết, vậy nàng nên thứ lỗi cho chàng.

Rosalie mỉm cười giục Gavin cứ hỏi đi.

Gavin để ý nàng luôn nhìn xuống chàng trai ngồi lẫn trong đám người dự, và chàng trai cũng nhìn nàng chăm chú. Gavin hỏi bằng giọng ông chú tốt của nàng:

- Rosalie, thứ lỗi cho, ai là cha đứa con của cô vậy?

Cy lên tiếng:

- Kính tòa, tôi phản đối. Tòa không thể cho phép luật sư bên bị can chất vấn theo chiều hướng đó được.

Rosalie mỉm cười. “Tôi không ngại trả lời.”

- Vấn đề không phải ở chỗ đó. – Cy nói.

- Kính tòa, – Gavin nói, - xin hãy tin tôi trong việc xử lý vấn đề tế nhị này, và tòa có thể tin Công tố viên rồi cũng sẽ nhận thấy đây là một điểm quan trọng.

Chánh án Breen gật đầu. “Tiếp tục.”

Gavin nhìn Rosalie làm hiệu. “Xin mời cô.”

- Tôi tin Vinnie là cha đứa bé trong bụng tôi.

- Cô tin?

- Tôi có thể nói chắc.

- Vậy hắn có biết là cô có thai với hắn không?

- Có, tôi có nói cho hắn biết,

- Phản ứng của hắn sao?

- Hắn nói cũng được.

- Cô nói như vậy là có nghĩa gì?

- Hắn không bực mình, Tôi nói với hắn là sẽ giữ để đẻ, và hắn nói đó là việc riêng của tôi.

- Rồi sao nữa?

- Rồi Juana, đứa con gái của ông này bắt đầu bám lấy Vinnie, và chẳng bao lâu hắn mê cô ả.

- Việc đó không làm cô đau khổ sao?

- Đó là quyền của hắn.

- Rồi cô gặp một chàng trai khác.

- Phải.

- Cô có buồn gì Juana trong thời gian đó không?

- Không. Chúng tôi là đôi bạn thân.

Nàng mỉm cười với chồng ngồi cuối phòng xử, và chồng nàng cũng mỉm cười đáp lại. Nàng tiếp:

- Và rồi mọi việc được dàn xếp tốt đẹp.

- Để tôi nói rõ hơn cho cô hiểu, Rosalie. Trong lúc Juana thân thiết với Vinnie, thì cô mang thai đứa con của Vinnie, và cô có ngủ với người nào khác nữa đúng không?

- Đúng thế. Đúng.

- Có phải chàng trai ở cuối phòng kia không, chàng trai mà cô đang nhìn và mỉm cười đó?

- Không. Michael, ông biết Michael chứ? Gã gầy còm đó. Tôi không thấy hắn ở đây, nhưng chắc ông biết hắn là ai rồi.

- Biết. Chiều nay hắn sẽ đến đây. Tôi có thể hỏi chàng trai cuối phòng xử là ai vậy?

- Là chồng tôi. – Nàng mỉm cười với bồi thẩm đoàn.

- Từ bao giờ?

- Chúng tôi làm phép cưới hôm qua.

Gavin chúc mừng nàng và nói:

- Cô Rosalie, một câu hỏi nữa thôi. Giả sử cô có đứa con gái, và nó bỏ nhà đi theo gã trai nào đó, và gã đó lại có con với một cô gái khác, vậy cô có tức điên lên không?

- Tôi không có những ẩn ức sinh lý kiểu đó.

Bồi thẩm đoàn chợt hiểu. Chánh án nhìn đồng hồ và ra hiệu tạm dừng. Ông nóng lòng gọi điện thoại.

Cy chạy vội vào văn phòng của ông trong tòa nhà tòa án, có Alan đang chờ. Ông nói lời yêu cầu của ông để được xử ngay tại tòa kháng án đã bị bác bỏ, và chỉ có thể kháng án vào thứ ba tới, tám ngày nữa.. Alan nói:

- Tôi nói với họ là lúc đó thì vụ xử này xong rồi.

- Họ nói sao?

- Ông biết Chánh án Barton chứ? – Alan hỏi.

♣ ♣ ♣

Chánh án Breen gọi cho Chánh án Barton. Đầu dây bên kia nói:

- Breen, coi, chúng ta vừa làm một việc sai lầm, khi bác bỏ yêu cầu kháng án của tên Công tố viên kia. Ý tôi muốn nói là chúng ta bắt hắn chờ đến thứ ba tuần sau. Việc này không bịt mắt ai được đâu. Vào lúc đó, phiên tòa của anh xong rồi, phải không?

- Chắc chắn là thế, và tôi hy vọng như vậy.

- Nếu ở vào địa vị anh, tôi sẽ mong cho tên đó được kháng án sớm. Anh thừa hiểu chúng tôi sẽ không để cho hắn phá thối vụ xử của anh, Bởi vì nếu chúng ta để thế, thì mai kia tất cả những tên luật sư đói khách sẽ nhào cả lên đây với những kháng cáo vớ vẩn, và làm cho các phiên tòa bị ngưng trệ hết. Nhưng nếu bạn sắp từ chối một người nào, thì dù sao, bạn cũng nên nghe hắn nói trước, dân chủ là vậy đó, phải không? Này anh còn nghe tôi không?

- Dĩ nhiên là nghe.

- Nếu vậy, đề nghị của tôi thế này. Ta làm người hùng một chuyến xem! Ngày mai hoãn phiên tòa, để cho tên đó đến đây, với bản kháng cáo. Chúng tôi sẽ trả hắn về cho anh và lúc đó hắn sẽ đàng hoàng, anh có thể tin tôi, ông anh ơi, rất chi là đàng hoàng.

♣ ♣ ♣

5

Chánh lục sự Lansing là ngươi đầu tiên nhận ra Michael. Ông bước lại, và nói với gã:

- Trông anh khá hơn. Trông anh bảnh trai là đằng khác. Nhờ đâu vậy? Yêu ai chăng?

Bộ râu của Mịchael đã được cạo nhẵn, mái tóc dài được tỉa xén bót, và gã đang mặc đầy đủ những thứ đồ Donna mua cho, từ áo lót, áo sơ mi, cà vạt, áo ngoài, cả giầy nữa. Cái ý ra trước tòa trong lốt ngụy trang này bỗng nảy ra trong đầu óc gã. Bộ đồ lớn của Donna biểu dương được giai cấp trung lưu mà hiện gã đang chiếm giữ. Và sau khi đã ăn mặc chỉnh tề, Michael lại tăng thêm chút quí phải bằng dáng điệu của mình.

Muốn ông Chánh lục sự bớt để ý, gã nói:

- Hình như Chánh án định nhờ gì ông đó.

Chánh án Breen muốn nói riêng với Cy Walker, nên khi Chánh lục sự Lansing dẫn vị luật sư bất mãn đến, ông thông báo cho Cy biết chính ông đã thu xếp để phiên xử của tòa kháng án sẽ diễn ra vào ngày mai, buổi sáng, và hơn thế nữa, ông sẽ lùi phiên tòa này vào buổi chiều, để Cy không bị đổ lỗi khinh thường tòa, vì vắng mặt.

- Cái gì làm ông thay đổi vậy? – Cy hỏi.

Sau khi nghĩ kỹ, tôi thấy đó là việc nên làm.

♣ ♣ ♣

Đa phần ở tù là gầy ốm, riêng tên mập Freddie thì càng tù càng mập. Trong lúc Michael đi đứng kiểu cách trong bộ đồ trang trọng của gã, thì ông Povich, như Chánh lục sự Lansing gọi lúc mời tên mập lên bục nhân chứng, bước đi hớn hở. Những ký thịt mới trên người làm cho hắn trông như một kẻ thành đạt nay quyết định sống hưởng thụ, phè phỡn.

Lúc bước tới ghế nhân chứng, ông Povich chẳng buồn nhìn ai. Khi đã ở đó, hắn ngẩng mặt lên và nhìn suốt lượt. Giọng hắn, khi trả lời những câu hỏi đầu tiên như Chỗ ở? Không có. Trình độ giáo dục? Không có. Sinh kế? Không có, và nhún vai, nhún vai... có vẻ khoái trá hơn bất cứ lúc nào mà Michael có thể nhớ được.

Gavin đưa ra vài vật mà chàng lấy từ trên xe hắn, một cán chổi đẽo nhọn như mũi dùi, một con dao găm cán bằng xương, một cặp tay đấm bằng đồng.

- Chắc anh không như Công tố viên, cho rằng anh vào căn cứ không mang theo thứ vũ khí nào cả?

- Trò hướng đạo sinh. Chúng tôi là vậy. Nên coi chừng! – Freddie nói.

- Nên coi chừng chuyện gì?

- Bất cứ chuyện gì, bạn.

- Anh có định áp dụng phương châm này vào vụ án Vinnie Connor không?

- Thằng đó không cần bất cứ thứ vũ khí nào.

- Nghĩa là...?

- Hắn thừa sức.

- Bên lề, xin hỏi hắn sống cách nào?

- Bạn không nên hỏi thiên hạ như vậy, bạn ơi.

- Ở đây có người nói hắn buôn ma túy.

- Đó là một cách.

- Anh biết chuyện đó có thật?

- Tôi thường mua lại của hắn.

- Hắn có nghiện không?

- Chưa bao giờ thấy hắn không xài một thứ gì.

- Câu đó áp dụng cả cho buổi tối bọn các anh vào ở chung trong căn phòng đường Nữ Vương?

- Chưa bao giờ tôi thấy hắn không xài một thứ gì.

Michael không dám tin ở tai mình. Tên Freddie định làm trò gì đây?

- Theo anh, lúc đó hắn có thể nguy hiểm không?

- Tôi không dám đưa lưng về phía hắn, dù tôi là bạn hắn.

- Bây giờ anh cho biết có nhớ lúc thượng sĩ Flores từ trong nhà đi ra không?

- Bạn có cách quên nổi một tên điên chạy quàng ư?

- Anh có cảm thấy bị đe dọa đến tính mạng không?

- Bạn thấy thế nào? Lão cầm một khẩu súng còn bốc khói. Vì vậy tôi bảo Jeff lái xe đâm cha vào lão đi.

- Đâm lão?

- Bằng xe. Lão đang điên hoàn toàn.

Gavin ngừng lại, chờ ý nghĩa lời khai của nhân chứng thấm vào đầu óc bồi thẩm đoàn. Rồi tiếp:

- Ông Povich này, ông vừa nhắc đến Jeff Wilson, người lái chiếc ôtô, ông có biết hắn ta quen với thượng sĩ Flores không?

- Nếu gọi đánh lộn nhau là quen biết, thì có.

Hắn kể rằng thượng sĩ Flores thắng, Jeff bị hạ ngất ngư, và Jeff thề sẽ trả thù Elores. Rồi kết luận:

- Đêm hôm đó, có thể thượng sĩ Flores thấy binh nhất Wilson ngồi trong xe, bèn nghĩ hắn đến trả thù, nên ra tay trước.

Gavin lại nhìn vào tài liệu, trong lúc bồi thẩm đoàn nhìn Freddie, và Freddie nhìn lại bồi thẩm đoàn.

- Ông Povich, ông có thù hằn với bị can không?

- Tại sao tôi phải thù hằn ông ta?

- Ông ta giết hai người bạn thân của ông.

- Tôi không trách ông ta. Ý tôi là nếu bạn nói với ai đó rằng bạn sắp đến dẫn con gái người ta bỏ nhà đi, còn sẵn sàng bước qua xác chủ nhà, thì bạn nên chấp nhận các rủi ro, đúng không bạn?

- Vinnie Connor có nói là sẽ giết thượng sĩ Flores không, và anh có nghe hắn nói vậy không?

- Tôi nghe hắn nói qua điện thoại rằng đến giết lão.

Michael nghĩ: hắn không hề nghe. Hắn phịa ra.

- Vậy nếu là thượng sĩ Flores, anh sẽ làm gì?

- Tôi sẽ lau chùi súng, và nạp đầy đạn.

Gavin vẫn nhìn vào tài liệu, nói:

- Kính tòa, tôi đã hỏi xong.

- Tôi muốn nói một chuyện. – Freddie thốt lên.

Chánh án Breen gật đầu.

- Bẩm quan tòa, tôi muốn được phép rời khỏi thành phố, vào sáng mai. Tôi muốn về nhà. Tôi đã nói chuyện với chú tôi, ông ta trông coi một xưởng sửa chữa xe hơi, và nói sẽ cho tôi việc làm nếu tôi hối cải và quyết định trở thành người lương thiện.

Cy đứng dậy. “ Kính Tòa, tôi phản đối.”

- Chắc Công tố viên không có ý phản đối việc ai đó cố gắng trở thành người lương thiện?

- Trước khi Tòa cho phép nhân chứng từ nay được miễn gọi, phía Công tố viên muốn đối chứng.

- Tòa chấp nhận.

Cy nói với Freddie:

- Sự thật có phải đêm Vinnie đi xe vào căn cứ, thì nạn nhân không mang theo vũ khí gì?

- Tôi không biết.

Cy giận dữ:

- Tất cả bạn bè hắn đều nói hắn không mang.

- Họ có biết chắc không?

- Xác nạn nhân đã được cảnh sát lục soát kỹ, ngay tại chỗ xảy ra án mạng, và không tìm thấy vũ khí gì.

Freddie chỉ vào Michael:

- Họ có lục soát anh này không?

- Tại sao lại phải lục soát anh này?

- Vì hắn là kẻ đầu tiên đến gần tử thi. Tôi thấy hắn chạy vào nhà như một tài tử trong phim gì đó?

Michael ngồi trong ghế nhân chứng chờ, lên tiếng.

- Mày là thằng nói láo.

Lúc Cy hỏi xong, tên mập chậm rãi đi qua các hàng ghế, ngang chỗ Michael ngồi, và cả phòng xử lại được nghe tiếng gã, “Freddie, mày là thằng phản bội!”

Freddie túm cổ Michael, rồi diễn ra cảnh lộn xộn như một vụ chó cắn, rồi Michael nằm dài giữa sàn nhà.

Lập tức, viên phó cảnh sát trưởng nắm