← Quay lại trang sách

Chương 10 TOBIAS

NHỮNG TÒA NHÀ đổ nát ở khu vực phái Dauntless nhìn như cánh cửa để bước qua thế giới bên kia. Trước mặt, tôi nhìn thấy tòa Pire đứng chọc trời.

Mạch đập trên đầu ngón tay tôi đếm những giây trôi qua. Không khí mát lành vẫn còn tràn ngập trong phổi tôi dù mùa hè đã đến rất gần. Tôi đã từng lúc nào cũng chạy và đánh nhau vì tôi quan tâm đến cơ bắp. Giờ đây khi hai bàn chân đã cứu tôi quá thường xuyên, tôi không phân biệt được việc chạy và đánh nhau với bản chất của chúng nữa: một cách để thoát khỏi nguy hiểm, một cách để sống sót.

Đến trước tòa nhà, tôi đi đi lại lại một chút để lấy lại hơi. Trên đầu tôi, những tấm pa-nô bằng kính phản chiếu ánh nắng theo đủ mọi phương hướng. Đâu đó trên kia là cái ghế tôi đã ngồi khi điều khiển cuộc tấn công mô phỏng và vết máu của ba Tris vương trên tường. Đâu đó trên kia, tiếng nói của Tris đã đâm xuyên qua trình mô phỏng mà tôi đang đắm chìm, và tôi đã cảm nhận được bàn tay em trên ngực tôi, kéo tôi về với thực tại.

Tôi mở cánh cửa dẫn vào căn phòng bối cảnh kinh hoàng và mở cái hộp nhỏ màu đen cất trong túi sau để nhìn mấy cái ống tiêm bên trong. Đây là cái hộp tôi dùng từ đó đến nay, có một lớp đệm lót xung quanh phần mũi kim; nó là dấu hiệu của một điều gì đó bệnh hoạn bên trong con người tôi, hoặc là sự can đảm.

Tôi đặt mũi kim cho đúng chỗ trên cổ họng tôi và nhắm mắt lại khi đẩy ống bơm xuống. Cái hộp đen rớt cạch xuống đất, nhưng lúc tôi mở mắt ra thì nó đã biến mất rồi.

Tôi đang đứng trên sân thượng của tòa nhà Hancock, gần đường dây trượt nơi bọn Dauntless thường đùa giỡn với tử thần. Đám mây đen kịt vì mưa nặng hạt, gió thốc vào họng tôi khi tôi há miệng ra để thở. Bên phải tôi, sợi cáp trượt bung ra đánh tách, cọng dây còn trơ lõi quất ngược ra sau và làm bể tan tành cửa sổ sau lưng tôi.

Mắt tôi tập trung nhìn về phía rìa sân thượng, thu hẹp tầm nhìn như nhìn qua trung tâm của một ống kính ngắm. Tôi có thể nghe thấy tiếng mình thở hổn hển dù gió đang gào thét bên cạnh. Tôi ép mình bước tới đường biên. Mưa quất lên vai và đầu tôi, lôi tôi xuống đất. Tôi chúi người về phía trước một chút và rơi, hàm nghiến chặt trong tiếng hét bị ù đi và bóp nghẹt bởi nỗi kinh hoàng của chính mình.

Tiếp đất xong, chưa kịp có lấy một giây để thở thì những bức tường đã dồn lại xung quanh tôi, gỗ đâm vào xương sườn tôi, rồi tới đầu, rồi tới chân. Chứng sợ không gian hẹp. Tôi co hai tay lên ngực, nhắm mắt lại và cố không hoảng sợ.

Tôi nghĩ tới Eric trong bối cảnh kinh hoàng của hắn ta, buộc nỗi kinh hoàng của hắn phải tuân phục bằng cách hít thở sâu và suy luận logic. Và Tris, gọi vũ khí ra từ thinh không để tấn công những cơn ác mộng tồi tệ nhất của em.

Nhưng tôi không phải Eric, cũng không phải Tris. Tôi là cái gì? Tôi cần gì để thoát khỏi nỗi sợ của chính mình?

Tôi biết câu trả lời, dĩ nhiên là biết: tôi cần phải không cho chúng sức mạnh chi phối tôi. Tôi cần phải biết mình mạnh mẽ hơn chúng.

Tôi hít vào và đập tay lên hai bên tường. Cái hộp kêu ken két, rồi nứt ra, những tấm ván đổ ầm xuống sàn nhà xi măng. Tôi đứng bên trên chúng, trong bóng tối.

Amar, người hướng dẫn nhập môn của tôi, đã dạy chúng tôi rằng bối cảnh kinh hoàng luôn luôn thay đổi tùy vào tâm trạng, và thay đổi theo từng lời thì thầm trong cơn ác mộng của chúng tôi. Của tôi thì luôn như nhau, mãi cho đến vài tuần trước. Cho đến khi tôi chứng tỏ được với bản thân rằng tôi áp đảo được ba tôi. Cho đến khi tôi khám phá ra có người tôi sợ đánh mất vô cùng.

Tôi không biết sẽ nhìn thấy gì tiếp theo.

Tôi cứ chờ một lúc lâu mà không thấy gì thay đổi. Căn phòng vẫn tối như hũ nút, sàn nhà vẫn cứng và lạnh ngắt, tim tôi vẫn đang đập nhanh hơn bình thường. Tôi nhìn xuống đồng hồ và thấy nó đang nằm sai tay – tôi thường đeo đồng hồ của tôi trên tay trái, không phải tay phải, và dây đồng hồ tôi không phải màu xám, nó màu đen.

Rồi tôi nhận thấy những sợi lông lởm chởm hồi trước không hề có trên ngón tay tôi. Cục chai trên khớp tay đã biến mất. Tôi nhìn xuống, tôi đang mặc một cái quần xám và một cái áo sơ mi xám; vòng bụng tôi to hơn và vai thì gầy hơn.

Tôi đưa mắt nhìn vào tấm gương đang ở trước mặt tôi. Gương mặt đang nhìn chằm chằm vào tôi là của lão Marcus.

Ông ta nháy mắt với tôi, và tôi cảm thấy những thớ cơ quanh mắt tôi co lại khi ông ta làm vậy, dù tôi không ra lệnh cho chúng. Không hề báo trước, cánh tay của ông ấy – của tôi – của chúng tôi thình lình giật mạnh về phía tấm gương và thò vào trong, siết quanh cổ hình ảnh phản chiếu của tôi. Nhưng rồi tấm gương biến mất, và bàn tay của ông ấy – của tôi – của chúng tôi đang siết lấy cổ chúng tôi, những mảng đen đang dần bò vào tầm nhìn của chúng tôi. Chúng tôi sụp xuống đất, siết tay cứng như thép.

Tôi không nghĩ ra. Tôi không nghĩ ra cách thoát khỏi chuyện này.

Theo bản năng, tôi hét lên. Bàn tay tôi cảm nhận được âm thanh rung lên. Tôi hình dung những bàn tay đó như bàn tay vốn dĩ của tôi, tay to với những ngón tay mảnh khảnh và các khớp tay chai sần do những giờ luyện tập đấm bao cát. Tôi hình dung hình ảnh phản chiếu của tôi như nước chảy trên da Marcus, thay thế từng phần của ông ta bằng phần của tôi. Tôi tái tạo lại chính tôi trở về hình dạng của mình.

Tôi đang quỳ trên sàn xi măng, thở hổn hà hổn hển.

Tay tôi run lẩy bẩy, rồi tôi vội sờ tay lên cổ, vai, cánh tay.

Để chắc chắn.

Tôi đã nói với Tris, trên tàu đến gặp mẹ Evelyn vài tuần trước, rằng ba tôi vẫn có mặt trong bối cảnh kinh hoàng của tôi, nhưng ông ấy đã thay đổi. Tôi đã dành rất nhiều thời gian suy nghĩ về chuyện đó; nó chiếm trọn suy nghĩ của tôi hàng đêm trước khi ngủ và kêu gào bắt tôi phải nhớ đến mỗi khi tôi tỉnh táo. Tôi vẫn còn sợ ông ta, tôi biết, nhưng theo một cách khác – tôi không còn là một đứa con nít, sợ sệt mối đe dọa mà người cha kinh khủng của tôi sẽ giáng lên sự an toàn của tôi. Tôi đã là một người đàn ông, nỗi e sợ giờ là mối đe dọa mà ông ta sẽ giáng lên phẩm cách của tôi, tương lai tôi, thân phận tôi.

Nhưng ngay cả nỗi sợ hãi đó, tôi biết, vẫn không sánh được với điều sắp sửa xảy ra. Mặc dù tôi biết nó sắp tới rồi nhưng tôi vẫn muốn rạch tĩnh mạch mà tháo hết huyết thanh ra khỏi máu trước khi nó diễn ra lần nữa.

Một vũng ánh sáng hiện ra trên sàn xi măng trước mặt tôi. Một bàn tay, những ngón tay co quắp lại, giơ ra dưới ánh sáng, tiếp đó là một bàn tay khác, rồi đến cái đầu với mái tóc vàng xơ xác. Người phụ nữ đó cất tiếng ho và lê vào vùng sáng, từng chút từng chút một. Tôi cố tiến đến bên người đó, để giúp người đó, nhưng người tôi đông cứng.

Người phụ nữ quay mặt về phía ánh sáng, và tôi thấy đó chính là Tris. Máu tràn trên môi em, chảy xuống cằm em. Đôi mắt đỏ ngầu máu nhìn vào mắt tôi, và em khò khè, “Cứu em.”

Em ho bật cả máu xuống sàn nhà, và tôi lao đến bên em, bằng cách nào đó hiểu rằng nếu tôi không đến cạnh em sớm, ánh sáng sẽ tắt phụt trong mắt em. Những bàn tay bám lấy cánh tay tôi, vai tôi và ngực tôi, tạo thành một cái lồng toàn máu và xương, nhưng tôi vẫn ôm lấy em. Tôi cào lên những bàn tay đang bám vào tôi, nhưng kết quả chỉ toàn tự cào mình.

Tôi thét vang tên em, và em lại ho, lần này thổ nhiều máu hơn. Em thét gào cầu cứu, và tôi cũng gào thét tên em, rồi tôi không còn nghe thấy gì nữa, không cảm thấy gì nữa ngoài tiếng tim mình đập, ngoài nỗi kinh hoàng của chính tôi.

Em xụi xuống đất, mềm nhũn, hai con ngươi đảo vào trong hốc mắt. Quá trễ rồi.

Bóng tối biến mất. Đèn sáng lại. Những hình vẽ graffiti ngập tràn căn phòng bối cảnh kinh hoàng, và phía bên kia tôi là cánh cửa sổ bằng gương thông tới phòng quan sát, và ở bốn góc là những máy quay ghi lại mỗi giai đoạn, mọi thứ đều ở đúng nơi chốn của chúng. Cổ và lưng tôi mướt mồ hôi. Tôi lấy vạt áo lau mặt và sải bước đến cánh cửa đối diện, bỏ cái hộp màu đen cùng xi lanh và kim tiêm lại đằng sau.

Tôi không cần làm sống lại những nỗi kinh hoàng của mình nữa. Tất cả những gì tôi cần làm là cố gắng vượt qua chúng.

Từ kinh nghiệm của mình, tôi biết rằng chỉ riêng sự tự tin cũng có thể đưa một người đến một nơi cấm kỵ. Như những buồng giam trên tầng ba của tổng hành dinh Erudite.

Dù vậy cũng không phải ở đây, rõ ràng là vậy. Một tên vô môn phái dùng báng súng chặn tôi lại trước khi tôi kịp chạm tới cánh cửa, và tôi thấy căng thẳng, ngạt thở.

“Anh đi đâu?”

Tôi đặt tay lên khẩu súng của hắn và gạt ra khỏi cánh tay tôi. “Đừng chĩa cái thứ đó vô người tôi. Tôi đến đây theo mệnh lệnh của bà Evelyn. Tôi đến gặp một tên tù nhân.”

“Tôi không nghe thông báo nào về một cuộc viếng thăm sau giờ làm việc nào hôm nay cả.”

Tôi hạ giọng, để hắn cảm thấy như thể đang nghe một bí mật. “Đó là vì bà ấy không muốn lưu lại thông tin của cuộc gặp này.”

“Chuck!” một người gọi xuống từ cầu thang trên đầu chúng tôi. Là Therese. Chị ta vừa vẫy vẫy tay vừa đi xuống.

“Để cậu ta qua đi. Cậu ta thì được.”

Tôi gật đầu với Therese và đi tiếp. Những mảnh vỡ trong hành lang đã được quét dọn sạch sẽ, nhưng mấy cái bóng đèn vỡ chưa được thay, thế là tôi bước qua những mảng tối như nhưng những mảng vết thương bầm tím, thẳng tiến đến phòng giam tôi muốn.

Khi đến đầu hành lang phía Bắc, tôi không tiến thẳng vào phòng giam mà đến chỗ người phụ nữ đứng cuối đường. Bà ta ở độ tuổi trung niên, có đôi mắt ủ rũ và khuôn miệng dúm dó. Có cảm tưởng tất cả mọi thứ đều đang làm cô ta kiệt sức, kể cả tôi.

“Xin chào,” tôi nói. “Tôi là Tobias Eaton. Tôi đến đây để đưa một tên tù đi, theo lệnh của bà Evelyn Johnson.”

Nét mặt của bà ta không đổi sau khi nghe tên tôi, nên trong một thoáng, tôi đã nghĩ là phải hạ bà ta bất tỉnh để thực hiện điều mình muốn. Bà ta lôi từ trong túi áo ra một mảnh giấy nhàu nát và vuốt phẳng nó trong lòng bàn tay trái.

Trên đó là danh sách tên tù nhân và số phòng tương ứng.

“Tên?” Bà ta hỏi.

“Caleb Prior. 308A.”

“Cậu là con trai của bà Evelyn, đúng không?”

“Ừ. Ý tôi là… vâng.” Bà ta trông không giống kiểu người thích từ “ừ.”

Rồi bà dẫn tôi tới một cánh cửa trơn láng bằng kim loại có số 308 ở trên – tôi tự hỏi không biết trước đây nó được dùng làm gì khi thành phố còn chưa cần nhiều phòng giam thế này. Bà ta gõ mã số, và cánh cửa bật mở.

“Tôi đoán là phải giả vờ không nhìn thấy việc cậu sắp làm đúng không?”

Chắc hẳn bà ta nghĩ tôi đến đây để giết Caleb. Tôi quyết định cứ để bà ta nghĩ thế.

“Vâng,” tôi đáp.

“Hãy giúp tôi nói mấy câu tốt tốt với bà Evelyn nhé. Tôi không muốn làm ca đêm quá nhiều. Tên tôi là Drea.”

“Đảm bảo.”

Bà ta vò tờ giấy lại và nhét vô túi trong lúc bỏ đi. Tôi cứ để nguyên tay trên nắm đấm cửa cho tới lúc bà ta về lại vị trí gác và quay qua bên kia để không nhìn thấy tôi. Có vẻ như bà ta đã làm chuyện này vài lần trước đây rồi. Tôi tự hỏi không biết đã có bao nhiêu người biến mất khỏi phòng giam theo lệnh của mẹ tôi.

Tôi vào trong. Caleb Prior đang ngồi cạnh một cái bàn kim loại, cắm cúi đọc sách, tóc vén hết qua một bên đầu.

“Cậu muốn gì?” Cậu ta hỏi.

“Tôi ghét phải báo điều nay với cậu…” tôi dừng lại một chút. Mấy giờ trước tôi mới quyết định cách xử lý việc này – tôi muốn dạy cho Caleb một bài học. Và nó sẽ bao gồm một ít lừa gạt đây. “Mà cậu biết đấy, thật ra tôi không ghét đâu. Buổi thi hành án tử của cậu đã được đôn lên vài tuần. Tới tối nay.”

Nó làm cậu ta chú ý. Cậu ta xoay người trên ghế và trân trân nhìn tôi, mắt trợn lên điên dại, như một con mồi đối diện với một con dã thú.

“Nói đùa phải không?”

“Tôi nói đùa rất tệ.”

“Không.” Caleb lắc đầu. “Không, tôi còn mấy tuần nữa lận mà, không phải hôm nay, không…”

“Nếu cậu ngậm miệng lại, tôi sẽ cho cậu thêm một tiếng đồng hồ nữa để sắp xếp thông tin mới này. Nếu cậu không im miệng, tôi sẽ cho cậu một cú bất tỉnh nhân sự và găm cho cậu một phát đạn bên ngoài con hẻm trước khi cậu kịp tỉnh dậy. Hãy quyết định đi.”

Nhìn một Erudite xử lý một chuyện gì đó giống như nhìn thấy bên trong một cái đồng hồ, tất cả các bánh răng đều xoay, dịch chuyển, điều chỉnh, làm việc với nhau để thực hiện một chức năng đặc biệt, mà trong trường hợp này là để cảm nhận về cái chết đang kề cận.

Ánh mắt Caleb chuyển qua cánh cửa sau lưng tôi, và cậu ta tóm lấy chiếc ghế, xoay và quăng nó vô người tôi.

Chân ghế đập mạnh vô người tôi, làm tôi chậm lại vừa đủ để cậu ta lách qua.

Tôi đuổi theo cậu ta ra ngoài hành lang, chỗ cánh tay bị cái ghế đập vào ban nãy đau rát. Tôi nhanh hơn – tôi xô vào lưng Caleb ta làm cậu ta té đập mặt xuống đất mà không kịp chống đỡ. Đầu gối đè lên lưng, tôi tóm hai cổ tay cậu ta và cột lại bằng một sợi dây nhựa. Caleb rên rỉ, và khi tôi kéo cậu ta đứng dậy thì mũi cậu ta đã bê bết máu.

Mắt bà Drea chạm mắt tôi trong một tích tắc, rồi quay đi chỗ khác.

Tôi lôi Caleb dọc hành lang, không theo đường tôi đến mà theo hướng ngược lại, về phía cửa thoát hiểm. Chúng tôi bước xuống một đợt cầu thang hẹp, nơi tiếng bước chân của chúng tôi vang vọng chồng chéo lên nhau, chói tai và rỗng không. Vừa xuống hết cầu thang, tôi gõ lên cánh cửa dẫn ra ngoài.

Zeke mở cửa, một nụ cười phớ lớ toét ra trên môi cậu ấy.

“Không gặp vấn đề gì với lính gác chứ?”

“Không.”

“Tôi đã nghĩ là Drea sẽ dễ bị qua mặt thôi mà. Bà ta không thèm quan tâm tới thứ gì hết.”

“Nghe thì có vẻ như trước đây bà ta từng ngó lơ đi chỗ khác như thế rồi.”

“Không làm tôi ngạc nhiên. Prior đây phải không?”

“Bằng xương bằng thịt.”

“Sao cậu ta chảy máu mũi thế kia?”

“Vì cậu ta là thằng ngu.”

Zeke đưa cho tôi một cái áo khoác màu đen có đính biểu tượng vô môn phái trên cổ. “Tôi không biết đầu óc bã đậu lại khiến người ta chảy máu mũi vô tội vạ như vậy đấy.”

Tôi khoác cái áo lên vai Caleb và cài một cái nút áo trước ngực cậu ta. Cậu ta tránh nhìn vào mắt tôi.

“Tôi nghĩ đó là hiện tượng mới,” tôi đáp. “Lối đi an toàn chứ?”

“Đã đảm bảo.” Zeke chìa báng súng ra. “Cẩn thận, nạp đầy đạn rồi đấy. Giờ sẽ tuyệt vời biết bao nếu cậu táng tôi một phát để tôi đủ chứng cớ thuyết phục bọn vô môn phái rằng cậu tước nó khỏi tôi.”

“Cậu muốn tôi tẩn cậu hả?”

“Ờ, làm như cậu chưa bao giờ muốn làm vậy ấy. Tới luôn đi, Số Bốn.”

Tôi quả thật thích đánh người – tôi thích sự bùng nổ của sức mạnh và năng lượng, và cảm giác không ai có thể đụng tới tôi vì tôi có thể làm người khác bị thương.

Nhưng tôi ghét phần đó trong con người mình, vì đó là phần dễ vụn vỡ nhất trong tôi.

Zeke thủ thế chuẩn bị còn tôi thì co tay thành nắm đấm.

“Làm lẹ lên đi bánh bèo,” cậu ta giục.

Tôi quyết định nhắm vào quai hàm, phần không thể bể được vì quá cứng, nhưng vẫn sẽ trưng ra được vết bầm tím ra trò. Tôi vung tay, đấm cậu ta đúng ngay chỗ tôi muốn.

Zeke rên lên, hai tay ôm mặt. Tay tôi đau nhừ, tôi vẩy vẩy tay để bớt đau.

“Tuyệt cú mèo.” Zeke nhổ nước bọt xuống bên hông tường. “Chà, tôi đoán vậy là tới lúc rồi nhỉ.”

“Chắc thế.”

“Có lẽ tôi sẽ không còn gặp lại cậu đâu, đúng không?

Ý tôi là, tôi biết mấy người khác sẽ quay lại, nhưng cậu thì…” Cậu ấy nhỏ giọng dần, nhưng lập tức nói tiếp suy nghĩ trong đầu. “Chỉ là có vẻ như cậu sẽ ổn hơn nếu bỏ lại nó sau lưng, vậy thôi.”

“Ừ, có lẽ cậu nói đúng.” Tôi nhìn xuống chân. “Cậu chắc chắn sẽ không đi cùng chứ?”

“Không thể. Shaunna không thể lăn xe loanh quanh ở nơi các cậu sắp tới được, và tôi không thể bỏ cô ấy lại, cậu hiểu không?” Cậu ta sờ quai hàm, nhẹ nhàng, kiểm tra da dẻ. “Nhớ đảm bảo thằng Uriah không uống rượu nhiều quá đấy, được chứ?”

“Ừ,” tôi đáp.

“Không, tôi nói nghiêm túc đấy,” cậu ấy nói, hạ giọng xuống thật thấp như mỗi lần cậu ấy nói chuyện nghiêm trọng, ít nhất là lần này. “Hứa với tôi, cậu sẽ coi chừng nó nhé?”

Tôi đã luôn thấy rõ ràng, từ lúc tôi gặp họ, rằng Zeke và Uriah thân thiết hơn phần lớn những cặp anh em khác.

Bọn họ mất cha từ khi còn nhỏ, và tôi nghĩ Zeke bắt đầu bước trên con đường vừa làm cha mẹ vừa làm một ông anh kể từ đó. Tôi không tưởng tượng được Zeke cảm thấy như thế nào khi nhìn cậu em mình rời khỏi thành phố, nhất là khi Uriah đang tan nát trong khổ đau vì cái chết của Marlene.

“Tôi hứa,” tôi trả lời.

Tôi biết mình nên đi, nhưng tôi phải đứng lại giây phút này thêm một chút nữa, cảm nhận sự đặc biệt của nó.

Zeke là một trong những người bạn đầu tiên của tôi ở Dauntless, sau khi tôi vượt qua được giai đoạn nhập môn.

Sau đó cậu ấy làm việc ở phòng điều khiển chung với tôi, giám sát máy quay và viết những chương trình vớ vẩn giúp đánh vần chữ chạy trên màn hình hay chơi trò chơi đoán chữ đoán số. Cậu ấy chưa từng hỏi tên thật của tôi, hay tại sao một kẻ nhập môn xếp đầu bảng lại yên phận làm công việc bảo vệ và huấn luyện thay vì làm thủ lĩnh.

Cậu ấy không đòi hỏi gì từ tôi.

“Ôm nhau một cái coi,” cậu ấy nói.

Một tay vẫn giữ chặt tay Caleb, tôi vòng cánh tay kia ôm Zeke, và cậu ấy cũng làm tương tự.

Khi chúng tôi tách nhau ra, tôi kéo Caleb men theo lối đi, và không thể cưỡng lại nên đành nói với lại, “Tôi sẽ nhớ cậu.”

“Tôi cũng vậy, cưng à.”

Cậu ấy nhe răng cười, hàm răng trắng sáng trong ánh chiều nhập nhoạng. Đó là điều cuối cùng tôi nhìn thấy trước khi tôi buộc phải rẽ và chạy nước kiệu đến chỗ con tàu.

“Cậu sắp sửa đi đâu đó,” Caleb nói giữa những tiếng thở hổn hển. “Cậu và những người khác.”

“Ừ.”

“Em gái tôi có đi cùng không?”

Câu hỏi đánh thức trong tôi cơn thịnh nộ của một con quái vật, và nó sẽ không thỏa mãn chỉ với những lời lẽ sắc bén hay xúc phạm. Nó sẽ chỉ được thỏa mãn bằng cách táng vô tai cậu ta thật mạnh bằng lòng bàn tay. Cậu ta co rúm lại và hụp vai xuống, chuẩn bị đón cái táng thứ hai.

Tôi tự hỏi liệu đó có phải là bộ dạng của tôi khi ba tôi làm vậy với tôi không.

“Cô ấy không phải em gái cậu,” tôi nói. “Cậu đã phản bội cô ấy. Cậu tra tấn cô ấy. Cậu cướp mất phần duy nhất còn sót lại của gia đình cô ấy. Và vì… cái gì cơ chứ? Vì cậu muốn giữ bí mật của mụ Jeanine, muốn ở lại trong thành phố, không sứt mẻ một cọng lông? Cậu là một thằng hèn.”

“Tôi không hèn!” Caleb phản đối. “Tôi biết nếu…”

“Hãy quay lại sự sắp xếp ban nãy để giữ cậu ngậm miệng lại đi.”

“Được thôi,” cậu ta nói. “Mà cậu đang đưa tôi đi đâu đây? Cậu giết tôi ngay ở đây cũng được mà, phải không?”

Tôi dừng phắt lại. Có một bóng dáng di chuyển trên vỉa hè sau lưng chúng tôi, thoáng qua khóe mắt tôi. Tôi quay phắt lại và chĩa súng, nhưng hình thù đó biến mất vào trong một con hẻm trên đường.

Tôi đi tiếp, kéo Caleb theo, nghe chừng xem có tiếng bước chân đằng sau không. Giầy chúng tôi giẫm nát những mảnh kiếng vỡ. Tôi quan sát những tòa nhà tối đen và những biển chỉ đường, chúng vẫn còn dính lủng lẳng trên bản lề như những chiếc lá mùa thu rụng muộn.

Rồi cũng đến được nhà ga nơi chúng tôi sẽ bắt tàu, tôi dẫn Caleb lên một đợt cầu thang bằng kim loại để lên thềm ga.

Tôi thấy con tàu đang trờ tới từ đằng xa, chuyến đi cuối cùng của nó xuyên qua thành phố. Đã từng một thời con tàu là một thế lực thiên nhiên trong mắt tôi, một thứ cứ đi con đường của nó mà không màng tới chúng tôi làm gì trong giới hạn bên trong thành phố, một thứ đầy nhịp điệu, sống động và mạnh mẽ. Giờ khi đã gặp những người đàn ông và phụ nữ vận hành con tàu rồi thì sự huyền bí đó bị mất đi nhiều phần, nhưng ý nghĩa của chúng với tôi thì vẫn không hề thay đổi – hành động đầu tiên của tôi với tư cách một Dauntless là nhảy lên một toa tàu, và mỗi một ngày sau đó đều là cội nguồn tự do của tôi, chúng trao cho tôi sức mạnh để di chuyển trong thế giới này khi tôi đã từng có thời cảm thấy mắc kẹt trong khu vực Abnegation, trong ngôi nhà tôi coi là nhà tù.

Khi nó đến gần hơn, tôi cắt dây trói trên cổ tay Caleb bằng một con dao bỏ túi và giữ chặt tay cậu ta.

“Cậu biết cách, đúng không?” Tôi hỏi. “Hãy nhảy lên toa tàu cuối cùng.”

Cậu ta tháo nút áo khoác ra và thả cái áo xuống đất. “Ừ.”

Từ một đầu của thềm ga, chúng tôi cùng chạy dọc theo những tấm ván mòn vẹt, bắt kịp cánh cửa toa tàu. Cậu ta không với tới được tay nắm nên tôi đẩy cậu ta về phía cái toa. Caleb loạng choạng, rồi chụp lấy tay nắm và đu người vào trong toa tàu cuối cùng. Tôi sắp hết không gian rồi –

sắp hết cái thềm ga rồi – tôi chụp tay nắm và đu người vô, bắp thịt cảm nhận được lực kéo tới trước.

Tris đứng trong toa tàu, mỉm cười yếu ớt, méo xệch.

Chiếc áo khoác đen kéo khóa tới tận cổ, che gương mặt em trong bóng tối. Em nắm cổ áo tôi vào kéo lại gần để đặt một nụ hôn. Khi buông ra, em nói, “Em luôn thích nhìn anh làm chuyện này.”

Tôi nhoẻn cười.

“Cậu đã lên kế hoạch cho điều này sao?” Caleb hỏi từ sau lưng tôi. “Để con bé ở đây khi cậu giết tôi? Đó…”

“Giết anh ta?” Tris hỏi tôi, không thèm nhìn anh trai của em.

“Ừ, anh cứ để Caleb nghĩ anh đang dẫn cậu ta đi hành hình,” tôi nói, đủ to để gã nghe được. “Em biết đó, đại loại giống như cậu ta đã làm với em ở tổng hành dinh Erudite.”

“Tôi… vậy là không phải sao?” Mặt Caleb, được mặt trăng chiếu sáng, uể oải vì bất ngờ. Tôi để ý thấy nút áo cậu ta bị cài lệch.

“Không,” tôi đáp. “Thật ra thì tôi mới vừa cứu cái mạng của cậu đó.”

Caleb chuẩn bị nói gì đó, nhưng tôi ngăn lại. “Khoan hãy cảm ơn. Chúng tôi sẽ đem cậu theo. Ra ngoài hàng rào.”

Ra ngoài hàng rào. Nơi cậu ta đã cố gắng hết sức mình để tránh né tới mức phải quay lưng lại với em ruột mình.

Dù gì đi nữa, có vẻ như đó là hình phạt còn ghê gớm hơn cả cái chết. Chết thì nhanh quá, chắc chắn quá. Ở nơi chúng tôi sắp đến, không có gì là chắc chắn hết.

Caleb trông sợ sệt, nhưng không sợ như tôi tưởng tượng.

Rồi tôi có cảm giác như tôi hiểu cách cậu ta sắp xếp thứ tự mọi thứ trong đầu: mạng sống của cậu ta đầu tiên; sự thoải mái của cậu ta trong một thế giới do chính cậu ấy tạo nên thứ hai; và đâu đó sau nó mới là sinh mạng của những người mà đáng lẽ ra cậu ta phải yêu thương. Caleb là loại người hèn hạ không biết mình hèn hạ tới cỡ nào, và việc tôi lăng mạ cậu ta sẽ không thay đổi điều đó; không gì thay đổi được. Thay vì giận dữ, tôi lại cảm thấy nặng nề, vô dụng.

Tôi không muốn nghĩ về cậu ta nữa. Tôi nắm tay Tris và dắt em qua bên kia toa tàu để chúng tôi có thể nhìn thành phố biến mất sau lưng chúng tôi. Chúng tôi đứng cạnh nhau trên thềm cửa, mỗi đứa nắm một bên tay nắm cửa.

Những tòa nhà tạo thành những hình thù đen nhèm, lởm chởm trên nền trời.

“Bọn anh bị bám đuôi,” tôi nói.

“Chúng ta sẽ cẩn thận,” em đáp.

“Những người khác đâu?”

“Trong mấy toa đầu tiên,” Tris nói. “Em nghĩ chúng ta nên ở một mình. Hay một mình hết mức có thể.”

Em mỉm cười với tôi. Đây là những giờ phút cuối cùng chúng tôi ở trong thành phố. Dĩ nhiên chúng tôi nên trải qua chúng một mình.

“Em sẽ nhớ nơi này,”

“Thật không?” Tôi hỏi. “Anh nghĩ nó là ‘một sự giải thoát’ nhiều hơn.”

“Anh không nhớ bất cứ thứ gì sao? Không có kỷ niệm đẹp nào à?” Em huých tôi.

“Được rồi.” Tôi cười. “Có một ít.”

“Có cái nào có em trong đó không?” Em thắc mắc.

“Nghe có vẻ tự cho mình làm tâm tâm điểm nhỉ. Anh biết em muốn nói gì rồi đó.”

“Chắc rồi, anh nghĩ thế,” tôi nhún vai. “Ý anh là anh có một cuộc đời khác ở Dauntless, một cái tên khác. Anh là Số Bốn, nhờ người hướng dẫn nhập môn của anh. Ông ấy đã đặt tên cho anh.”

“Thật không?” Tris nghiêng đầu. “Sao em chưa gặp ông ấy nhỉ?”

“Vì ông ấy chết rồi. Ông ấy là pergent.” Tôi lại nhún vai. “Nhưng anh không nghĩ là ngẫu nhiên. Amar là người đầu tiên nhận biết anh là một pergent, và ông ấy giúp anh giấu kín chuyện đó. Nhưng ông ấy không thể che giấu thân phận pergent của chính mình, thế là điều đó giết chết ông.

Em chạm vào tay tôi, nhẹ nhàng, nhưng không nói gì.

Tôi khẽ cử động, không thoải mái.

“Thấy không?” Tôi nói. “Quá nhiều ký ức không hay ở đây. Anh sẵn sàng ra đi rồi.”

Tôi thấy trống rỗng, không phải vì buồn mà vì nhẹ nhõm, khỏi tất cả những căng thẳng đã đeo bám tôi bấy lâu. Mẹ tôi – Evelyn – ở lại thành phố đó, và lão Marcus, và tất cả những buồn đau lẫn ác mộng và ký ức không vui, và những môn phái kìm hãm tôi bên trong một phiên bản của chính mình. Tôi siết tay Tris.

“Nhìn kìa,” tôi nói, chỉ tay vào một cụm nhà phía xa.

“Khu Abnegation kìa.”

Tris mỉm cười, nhưng đôi mắt em đờ đẫn vô hồn, như thể một phần ẩn sâu trong người em đang đấu tranh tìm đường thoát và tràn ra. Con tàu kêu rin rít trên đường ray, một giọt nước mắt chảy xuống cằm Tris, và thành phố biến mất trong bóng đêm.