← Quay lại trang sách

Chương 11 TRIS

CON TÀU CHẠY chậm lại khi chúng tôi đến gần hàng rào, một tín hiệu từ lái tàu báo hiệu chúng tôi phải nhanh chóng nhảy xuống. Tobias và tôi đang ngồi ở thềm cửa trong lúc nó chậm chạp lê bánh trên đường ray. Anh choàng tay qua người tôi và chạm mũi vào tóc tôi, hít một hơi. Tôi nhìn anh, ngắm cặp xương đòn lộ ra từ cổ áo thun, ngắm đường cong mờ nơi khóe miệng anh, và tôi cảm thấy người nóng lên.

“Em đang nghĩ gì vậy?” Anh nhẹ nhàng thì thầm vào tai tôi.

Tôi giật mình lấy lại tư thế. Tôi ngắm anh suốt, nhưng không phải lúc nào cũng như thế – tôi có cảm giác như anh mới vừa bắt quả tang tôi đang làm chuyện gì đáng xấu hổ lắm. “Không có gì! Sao thế?”

“Không sao cả.” Anh kéo tôi lại sát hơn, và tôi ngả đầu lên vai anh, hít sâu vào bầu không khí mát lành. Nó vẫn như không khí mùa hè, như đồng cỏ đang nướng mình dưới nắng nóng.

“Có vẻ như chúng ta đến gần hàng rào hơn rồi,” tôi nói.

Tôi biết vậy vì những tòa nhà đang biến mất, chỉ còn lại những cánh đồng, điểm xuyết bằng ánh sáng lóe lên đều đặn của những con bọ phát sáng. Sau lưng tôi, Caleb đang ngồi bó gối gần một cánh cửa khác. Không may lúc đó mắt anh ấy lại chạm mắt tôi, và tôi những muốn hét lên để cái phần đen tối nhất trong con người anh ấy nghe thấy tôi, để cuối cùng anh ấy có thể nghe thấy tôi, để cuối cùng cũng hiểu được anh ấy đã gây ra cho tôi những gì, nhưng thay vì vậy tôi chỉ nhìn đăm đăm lại cho đến khi anh ấy không chịu nổi nữa và buộc phải quay đi chỗ khác.

Tôi đứng dậy, níu tay vịn để giữ thăng bằng, rồi Tobias và Caleb cũng làm theo. Thoạt tiên Caleb cố đứng tụt lại sau lưng chúng tôi, nhưng Tobias đẩy anh ấy tới trước, ngay rìa toa tàu.

“Cậu trước. Theo tiếng hô của tôi!” Anh nói. “Và… nhảy!”

Anh đẩy anh Caleb một cái, vừa đủ để Caleb lao khỏi sàn tàu, và anh trai tôi biến mất. Tiếp theo là Tobias, để lại tôi một mình trên tàu.

Thật ngu ngốc khi nhớ về một đồ vật khi còn quá nhiều người để mà nhớ nhung, nhưng chưa gì mà tôi đã nhớ con tàu này rồi, và tất cả những chuyến tàu khác đã đưa tôi đi khắp thành phố, thành phố của tôi, sau khi tôi đã đủ dũng cảm để đón chúng. Tôi lướt tay lên thành tàu, một lần duy nhất, rồi nhảy. Con tàu chạy chậm tới nỗi cú tiếp đất của tôi bị lố đà quá mức, vì đã quá quen với việc lao nhanh theo đà, thế là tôi ngã dúi dụi. Cỏ khô cào lên lòng bàn tay tôi và tôi đứng dậy, tìm Tobias và anh Caleb trong bóng tối.

Chưa kịp nhìn thấy họ tôi đã nghe tiếng Christina gọi.

“Tris!”

Con nhỏ và Uriah đi lại phía tôi. Cậu bạn tôi cầm một cái đèn pin và nhìn cảnh giác hơn nhiều so với hồi chiều này, một dấu hiệu tốt. Sau lưng tụi nó là nhiều ánh đèn hơn, nhiều giọng nói khác.

“Vụ anh cậu thành công chứ hả?” Uriah hỏi.

“Ừ.” Cuối cùng tôi cũng thấy Tobias, tay anh túm chặt cánh tay anh Caleb, hướng về phía chúng tôi.

“Không hiểu tại sao một Erudite như cậu lại hiểu không thông chuyện đó,” Tobias nói, “cậu chẳng đời nào chạy lại tôi đâu.”

“Anh ấy nói đúng đó,” Uriah tán thành. “Số Bốn chạy nhanh lắm. Không nhanh bằng tôi nhưng chắc chắc là nhanh hơn một Mũi Điếc như anh.”

Christina cười vang. “Một cái gì cơ?”

“Mũi Điếc.” Uriah chỉ cánh mũi nó. “Chơi chữ đó mà.

‘Biết’ trong ‘hiểu biết’, mà không có chữ ‘Đ’ phái Erudite…

hiểu không? Giống như Cứng Đơ vậy đó.”

“Phái Dauntless có nhiều tiếng lóng kì cục nhất quả đất. Bánh Bèo, Mũi Điếc… có từ nào tả Candor không?”

“Dĩ nhiên có.” Uriah nhe răng cười. “Đầu Heo.”

Christina xô Uriah một cái cật lực, làm nó đánh rớt luôn cây đèn pin. Tobias vừa cười vừa dẫn dầu cả hội đi đến chỗ những người khác trong nhóm đang đứng cách đó vài mét. Cô Tori vẫy vẫy cái đèn pin trong không khí để mọi người chú ý rồi lên tiếng, “Được rồi, Johanna với mấy cái xe tải ở cách đây mười phút đi bộ, nên chúng ta khởi hành thôi. Và tôi mà nghe các cô các cậu hé răng một chữ nào thì tôi sẽ đập các cô các cậu bất tỉnh nhân sự cho xem. Chúng ta vẫn chưa thoát đâu.”

Chúng tôi nhích lại gần nhau như một sợi dây giày buộc chặt. Cô Tori đi trước chúng tôi vài mét, và nhìn từ đằng sau, trong bóng tối, nhìn cô y hệt như bà Evelyn, dáng người nghiêng nghiêng và rắn chắc, ngực ưỡn thẳng, tự tin đến gần như đáng sợ. Dưới ánh sáng của cây đèn pin, tôi nhìn vừa được hình con diều hâu xăm trên gáy cô, chủ đề đầu tiên chúng tôi trò chuyện khi cô ấy còn là giám sát viên trong bài kiểm tra tư cách của tôi. Cô nói với tôi đó là biểu tượng của một nỗi kinh hoàng mà cô đã vượt qua được. Tôi tự hỏi không biết nỗi kinh hoàng đó có còn ám ảnh cô ấy không, dù cô đã nỗ lực vô cùng để đối mặt với nó – tôi tự hỏi không biết những nỗi sợ có thật sự biến mất không hay chúng chỉ mất sức ảnh hưởng lên chúng tôi mà thôi.

Cứ mỗi phút cô lại cách xa chúng tôi hơn một chút, sải chân của cô giống vừa đi vừa chạy hơn là đi bộ. Cô ấy rất háo hức được ra đi, được thoát khỏi cái nơi em trai cô đã bị giết hại, nơi cô đã nổi dậy chỉ để sau đó bị ngáng đường bởi một người đàn bà vô môn phái tưởng đã không còn tồn tại trên cõi đời.

Cô ấy đi trước quá xa, đến mức khi tiếng súng nổ ra, tôi chỉ nhìn thấy cái đèn pin của cô rơi xuống chứ không thấy người.

“Tản ra!” Tobias gầm lên giữa những tiếng la hét của chúng tôi, sự hỗn loạn của chúng tôi. “Chạy!”

Tôi quờ quạng trong bóng tối tìm tay anh, nhưng không thấy đâu. Tôi chụp khẩu súng Uriah đưa tôi trước khi chúng tôi đi và chĩa ra đằng trước, lờ đi cái cổ họng thắt lại bởi cảm giác cây súng mang tới. Tôi không thể đâm đầu chạy bừa trong bóng tối. Tôi cần ánh sáng. Tôi phóng theo hướng cô Tori – hướng cái đèn pin của cô đã rơi xuống.

Tôi nghe mà không nghe tiếng súng nổ, và tiếng la hét, rồi tiếng bước chân chạy. Tôi nghe mà không nghe tiếng tim tôi đập thình thịch. Tôi cúi xuống kế bên ánh đèn mà cô đánh rơi và lượm cái đèn pin lên, dự định chỉ nhặt nó rồi chạy, nhưng trong vầng sáng của nó, tôi nhìn thấy gương mặt cô. Nó bóng mồ hôi, hai con ngươi trợn ngược, như thể cô đang tìm kiếm thứ gì đó nhưng đã quá mệt để tiếp tục tìm kiếm rồi.

Một trong những viên đạn găm vào bụng cô, một viên khác trúng ngực. Vô phương cứu chữa. Có thể tôi tức giận cô ấy vì đã đối chọi với tôi trong phòng thí nghiệm của mụ Jeanine, nhưng cô vẫn là Tori, người phụ nữ đã bảo vệ bí mật thân phận pergent của tôi. Cổ họng tôi thắt lại khi nhớ về cảnh mình đi theo cô vào căn phòng kiểm tra tư cách, mắt dán vào hình xăm con diều hâu trên gáy cô.

Cô đưa mắt nhìn về hướng tôi và tập trung vào tôi.

Lông mày cô cau lại, nhưng cô không thốt nên lời.

Tôi chuyển cây đèn pin vào giữa ngón cái với ngón trỏ và với tay nắm chặt những ngón tay ướt mồ hôi của cô.

Tôi nghe thấy có tiếng người đang tới gần, và tôi chĩa đèn lẫn súng về cùng một hướng. Ánh đèn rọi trúng một người phụ nữ đeo chiếc băng tay vô môn phái với một khẩu súng đang chĩa vào đầu tôi. Tôi bóp cò, răng nghiến chặt đến mức kêu ken két.

Viên đạn trúng bụng và ả gào lên, bắn bừa vào không khí.

Tôi quay lại nhìn cô Tori, nhưng hai mắt cô đã nhắm nghiền, người cô đã bất động. Chĩa đèn xuống đất, tôi phóng vút đi khỏi cô và khỏi người phụ nữ tôi mới bắn.

Chân tôi đau nhức và phổi tôi bỏng rát. Tôi không biết mình đang đi đâu, đang phóng về phía nguy hiểm hay ra xa khỏi nó, nhưng tôi cứ chạy mãi chạy hoài lâu tới chừng có thể.

Cuối cùng tôi cũng thấy ánh sáng ở phía xa. Thoạt tiên tôi nghĩ đó là một ánh đèn pin khác, nhưng khi tới gần hơn, tôi nhận thấy nó lớn hơn và ổn định hơn đèn pin –

nó là đèn pha xe ô tô. Tôi nghe thấy tiếng động cơ, và rạp người bên dưới đám cỏ cao để núp, tắt đèn pin và chuẩn bị súng ống sẵn sàng. Chiếc xa tải chạy chậm lại, rồi tôi nghe tiếng gọi:

“Tori?”

Nghe giống giọng Christina. Chiếc xe tải sơn đỏ, gỉ sét, xe của phái Amity. Tôi đứng dậy, chĩa đèn vô người tôi để con nhỏ nhìn thấy. Chiếc xe tải dừng lại trước mặt tôi mấy mét, và Christina trượt khỏi ghế dành cho khách, ôm chầm lấy tôi. Tôi tua đi tua lại cảnh đó để tin nó là thật, thân thể cô Tori ngã xuống, người phụ nữ vô môn phái hai tay ôm bụng. Không có tác dụng. Cảm giác không giống thật chút nào.

“Cảm ơn trời,” Christina thốt lên. “Lên xe đi. Chúng ta đi tìm cô Tori.”

“Cô Tori chết rồi,” tôi nói trống rỗng, và từ “chết” khiến mọi việc trở nên thật với tôi. Tôi lấy mu bàn tay quẹt nước mắt đang chảy trên mặt và vật lộn để kiểm soát hơi thở run rẩy của mình. “Mình – mình đã bắn cái người giết cô ấy.”

“Cái gì?” Cô Johanna lạc giọng. Cô ngoái người ra sau từ ghế tài xế. “Cô nói gì cơ?”

“Cô Tori chết rồi,” tôi nói. “Tôi nhìn thấy mà.”

Vẻ mặt của cô Johanna bị che khuất sau lớp tóc. Cô ấy thở hắt ra.

“Vậy chúng ta đi tìm những người khác vậy.”

Tôi leo lên xe. Động cơ gầm lên khi cô Johanna nhấn ga, và chúng tôi lủi vào đám cỏ để đi tìm những người còn lại.

“Cô có nhìn thấy ai không?” Tôi hỏi.

“Vài người. Cara, Uriah.” Johanna lắc đầu. “Hết rồi.”

Tôi siết chặt tay nắm cửa. Nếu tôi cố gắng hơn để tìm Tobias… nếu tôi không dừng lại vì cô Tori…

Nếu Tobias không thoát được thì sao?

“Tôi chắc bọn họ không sao đâu,” cô Johanna nói. “Cậu trai đó của các cô biết cách tự chăm sóc mình mà.”

Tôi gật đầu, nhưng không tin. Tobias tự lo được cho bản thân nhưng trong một cuộc tấn công, sống chết phụ thuộc vào thần may mắn. Kỹ năng đâu phải là thứ giúp ta đứng ở một nơi mà không viên đạn nào găm được vào người, hay cứ nã súng vào bóng tối và bắn trúng một người mình không nhìn thấy. Thuần túy dựa vào may rủi, hay ý trời, tùy vào thứ ta tin tưởng. Còn tôi thì không biết – chưa bao giờ biết – chính xác mình tin vào điều gì.

Anh ấy không sao đâu anh ấy không sao đâu anh ấy không sao đâu.

Tobias không sao đâu mà.

Tay tôi run rẩy, Christina bóp đầu gối tôi. Cô Johanna chở chúng tôi về phía chỗ hẹn, nơi cô ấy tìm thấy Uriah và chị Cara. Tôi nhìn cây kim tốc độ tăng lên, rồi giữ nguyên ở mức bảy mươi lăm. Chúng tôi va vào nhau côm cốp trong ca-bin, nghiêng bên này ngả bên kia bởi con đường gập ghềnh.

“Kia kìa!” Christina chỉ. Có một chùm ánh sáng phía trước chúng tôi, vài ánh đèn leo lét như ánh đèn pin, còn lại thì sáng tròn như đèn pha ô tô.

Chúng tôi thu hẹp khoảng cách, và tôi nhìn thấy anh.

Tobias đang ngồi trên mui của chiếc xe tải kia, tay ướt sũng máu. Chị Cara đứng trước mặt anh với một hộp cứu thương. Anh Caleb và Peter đang ngồi bệt trên cỏ cách đó vài mét. Trước khi cô Johanna tắt hẳn máy xe, tôi đã mở cửa và phóng ào ra, lao tới chỗ anh. Tobias đứng dậy, lờ đi mệnh lệnh phải ngồi yên của Cara, và chúng tôi đâm sầm vào nhau, cánh tay không bị thương của anh quàng qua lưng tôi và nhấc bổng tôi lên. Lưng anh đẫm mồ hôi, và khi anh hôn tôi, anh có vị như muối.

Tất cả những căng thẳng trong người tôi lập tức được cởi bỏ. Trong một thoáng, tôi có cảm giác như mình được tái sinh, như thể tôi là một con người mới tinh tươm.

Anh không sao. Chúng tôi đang ở ngoài thành phố rồi.

Anh không sao!