← Quay lại trang sách

Chương 17 TRIS

TÔI THỨC DẬY ngay trước lúc mặt trời mọc. Không có ai khác trở mình trên giường – cánh tay Tobias đang gác lên che mắt, nhưng chân đã mang giày, như thể anh đã trở dậy lúc nửa đêm và đi loanh quanh đâu đó vậy. Christina đang vùi đầu dưới gối. Tôi nằm nướng thêm mấy phút nữa, nhìn lên trần nhà tìm kiếm hoa văn, rồi mang giày vào và lùa tay chải tóc cho thẳng.

Những hành lang trong đặc khu trống trơn trừ một vài người đi qua đi lại. Tôi đồ rằng họ mới vừa kết thúc ca đêm, vì họ đang cúi người trước màn hình, tay chống cằm hay dựa lên cán chổi, hình như chẳng nhớ gì tới việc quét dọn. Tôi thọc tay vô túi và đi theo biển chỉ dẫn về phía lối vào. Tôi muốn nhìn rõ hơn bức tượng điêu khắc đã thấy ngày hôm qua.

Người nào xây tòa nhà này hẳn phải yêu ánh sáng lắm.

Cơ man nào là kính gắn trên những mái trần cong cong của hành lang và dọc theo những bức tường bên dưới.

Ngay cả lúc này, khi trời còn chưa sáng hẳn cũng đã ngập tràn ánh sáng rồi.

Tôi sờ túi sau để lấy cái phù hiệu mà cô Zoe đã đưa tôi lúc ăn tối hôm qua, rồi cầm nó trên tay mà đi qua chốt an ninh. Và tôi nhìn thấy bức tượng đó, cách những cánh cửa chúng tôi đi qua hôm qua mấy trăm mét, ảm đạm và to đùng và bí ẩn, như một thực thể đang sống.

Đó là một phiến đá màu đen khổng lồ, vuông vức và thô ráp, như những phiến đá ở đáy vực. Một vết nứt lớn ở chính giữa, và có những lớp đá nhẹ hơn xếp ngoài rìa.

Treo bên trên phiến đá là một cái bể kính cùng kích thước, chứa đầy nước. Một bóng đèn ngay chính giữa, phía trên cái bể, chiếu ánh sáng vào trong nước, khúc xạ thành những gợn sóng lăn tăn. Tôi nghe thấy một âm thanh yếu ớt, một giọt nước rơi xuống mặt đá. Nó đến từ một cái ống nhỏ bắt ra từ chính giữa cái bể. Thoạt tiên tôi nghĩ cái bể chỉ bị rỉ nước, nhưng rồi một giọt nữa rơi xuống, rồi giọt thứ ba, rồi thứ tư, đều đặn. Một vài giọt tụ lại, rồi biến mất bên dưới một cái rãnh hẹp bên trong phiến đá.

Chắc chắn là có chủ ý.

“Xin chào.” Cô Zoe đang đứng phía bên kia bức tượng.

“Tôi xin lỗi, tôi đang định đến phòng ngủ tìm em thì thấy em hướng về phía này nên băn khoăn không biết có phải em đi lạc hay không.”

“Không, tôi không đi lạc,” tôi nói. “Đây là nơi tôi muốn đến.”

“À.” Cô ta đến đứng cạnh tôi và khoanh tay lại. Cô ta cao gần bằng tôi, nhưng cô ta đứng thẳng hơn nên nhìn có vẻ cao hơn. “Ừ, nó khá kì quái phải không?”

Tôi quan sát những đốm tàn nhang trên mặt cô trong lúc cô nói, lốm đốm như ánh nắng xuyên qua tán lá cây dày khít.

“Cái này có ý nghĩa gì không?”

“Nó là biểu tượng của Cục An sinh Di truyền,” cô Zoe đáp. “Phiến đá chính là vấn đề chúng tôi đang phải đối mặt. Bể nước chính là tiềm năng thay đổi vấn đề đó. Và giọt nước là những gì chúng tôi thật sự làm được, vào bất kỳ thời điểm nào.”

Không nhịn được – tôi bật cười. “Không được khả quan lắm nhỉ?”

Cô ta mỉm cười. “Đó là một cách nhìn nhận. Tôi thì thích nhìn nó dưới góc độ khác hơn – rằng nếu đủ bền bỉ, mỗi giọt nước bé nhỏ, theo thời gian, có thể thay đổi tảng đá mãi mãi. Và nó sẽ không bao giờ quay lại như trước nữa.”

Cô ta chỉ vào chính giữa phiến đá, nơi có một vết lõm nhỏ như một cái chén cạn được khắc vào trong đá.

“Cái đó chẳng hạn, nó đã không có ở đó khi họ lắp đặt thứ này.”

Tôi gật đầu, và quan sát giọt nước tiếp theo nhỏ xuống.

Mặc dù tôi cảnh giác với Cục và tất cả những người trong đó, tôi vẫn cảm thấy niềm hy vọng thầm lặng từ bức tượng đó đang len lỏi vào trong người tôi. Nó là một biểu tượng thiết thực, truyền tải thông điệp về thái độ kiên trì đã giúp những người này trụ lại đây lâu đến như thế, quan sát và chờ đợi. Nhưng tôi buộc phải hỏi tiếp.

“Không phải sẽ hiệu quả hơn nếu tháo cả cái bể cùng một lúc sao?” Tôi tưởng tượng cảnh khối nước đổ ập lên phiến đá và tràn lên sàn gạch, dồn ứ lại quanh giày tôi. Suy cho cùng, mỗi lần làm một chút có thể sửa chữa được một điều gì đó, nhưng tôi có cảm giác rằng nếu như thật sự tin cái gì đó là một vấn đề thì bạn phải dùng tất cả những gì bạn có vào nó, chỉ vì bạn không thể không làm vậy được.

“Chỉ trong giây lát thôi,” cô ta nói. “Nhưng sau đó chúng ta sẽ không còn chút nước nào để làm việc gì khác nữa, mà những tổn hại về gen thì không phải là loại vấn đề có thể giải quyết trong một nốt nhạc.”

“Tôi hiểu,” tôi nói. “Tôi chỉ băn khoăn liệu có tốt không khi các vị nhượng bộ tới mức này để đi những bước nhỏ khi mà các vị có thể bước những bước lớn hơn.”

“Như thế nào?”

Tôi nhún vai. “Tôi nghĩ tôi không thật sự biết. Nhưng nghĩ về việc đó cũng đáng mà.”

“Thôi được.”

“Vậy là… cô nói cô đang tìm tôi?” Tôi hỏi. “Tại sao?”

“Ồ!” Cô Zoe vỗ trán. “Suýt nữa tôi quên mất. Ông David nhờ tôi tìm và dẫn em tới phòng thí nghiệm. Ở đó có một thứ từng thuộc về mẹ của em.”

“Mẹ tôi?” Giọng tôi nghe như bị siết cổ và hơi chói tai.

Cô ta dẫn tôi đi khỏi bức tượng và lại đến chốt an ninh.

“Cảnh báo đây: Em có thể bị nhìn ngó nhiều đấy,” cô Zoe nói khi chúng tôi đi qua cái máy quét. Bây giờ đã có nhiều người trên hành lang phía trước hơn lúc nãy – chắc phải đến giờ làm rồi. “Em là một gương mặt quen thuộc ở đây. Những người ở Cục thường xuyên theo dõi trên màn hình, và trong vài tháng qua, em đã dính líu tới khá là nhiều chuyện ra trò. Rất nhiều người trẻ tuổi coi em như là một vị anh hùng đích thực đấy.”

“Ồ, tốt,” tôi nói, miệng chua lòm. “Chủ nghĩa anh hùng chính là thứ tôi lấy làm tiêu điểm. Cô biết đấy, chứ không phải là việc cố gắng để không bị chết.”

Cô Zoe ngừng lại. “Tôi xin lỗi. Tôi không có ý coi nhẹ những gì em đã trải qua.”

Tôi vẫn thấy không thoải mái với cái ý tưởng rằng mọi người đều đã quan sát chúng tôi, như thể tôi cần phải núp hay trốn ở nơi nào mà họ không nhìn thấy tôi được nữa.

Nhưng cô Zoe chẳng thể làm gì nhiều về chuyện đó thành ra tôi không nói gì nữa.

Hầu hết những người đang đi lại trên hành lang đều mặc những biến thể khác nhau của cùng một loại đồng phục – màu xanh dương sẫm hoặc màu xanh lá đậm, và vài người trong số họ mặc áo khoác hoặc áo liền quần hay áo nỉ hở cổ, để lộ những chiếc áo thun nhiều màu sắc bên trong, vài cái áo thậm chí còn in hình nữa.

“Màu sắc của những bộ đồng phục này có ý nghĩa gì không?” Tôi hỏi cô Zoe.

“Thật ra là có. Màu xanh dương đậm là nhà khoa học hoặc nhà nghiên cứu, còn xanh lá cây là các nhân viên hỗ trợ – họ làm công việc bảo trì, bảo dưỡng và những việc đại loại vậy.”

“Vậy là họ giống những người vô môn phái.”

“Không,” cô ta đáp. “Không, động lực ở đây khác – mọi người làm việc trong khả năng để hỗ trợ cho nhiệm vụ.

Mọi người đều được trân trọng và đều quan trọng.”

Cô ta nói đúng: Người ta cứ nhìn tôi chằm chặp. Hầu hết bọn họ chỉ nhìn tôi có hơi quá lâu, nhưng có vài người còn chỉ trỏ, và vài người thậm chí còn gọi tên tôi, như thể nó thuộc về họ. Điều đó khiến tôi thấy tù túng, giống như tôi không thể cử động theo cách tôi muốn vậy.

“Rất nhiều nhân viên hỗ trợ đã từng nằm trong cuộc thí nghiệm ở Indianapolis – một thành phố khác, không xa đây lắm,” cô Zoe nói. “Nhưng với họ, sự chuyển tiếp này dễ dàng hơn một chút so với khi nó diễn ra với các em trong tương lai – Indianapolis không có các tác nhân cấu thành hành vi như thành phố của em.” Cô ta ngừng lại. “Ý tôi là các môn phái. Sau một vài thế hệ, thành phố của các em không bị chia năm xẻ bảy trong khi các thành phố khác thì có, Cục bèn đưa thành phần môn phái vào các thành phố mới hơn – Saint Louis, Detroit và Minneapolis – sử dụng cuộc thí nghiệm còn khá mới mẻ ở Indianapolis làm nhóm chính. Cục luôn đặt những thí nghiệm ở vùng Trung Tây, vì ở đây khoảng cách giữa các khu đô thị xa nhau hơn. Ở phía Đông mọi thứ nằm gần nhau hơn.”

“Vậy ở Indianapolis các cô chỉ… sửa chữa gen của họ và đẩy đại họ vào trong thành phố ư? Không có môn phái?”

“Họ đã có một hệ thống luật lệ phức tạp, nhưng… đúng, đó cơ bản là những gì đã xảy ra.”

“Và nó không có hiệu quả?”

“Không.” Cô ta mím môi. “Những người có bộ gen bị hỏng đã được tôi luyện bằng những đau đớn khổ cực và không được dạy cách sống khác, như cách các môn phái dạy dỗ, có tính phá hoại rất lớn. Cuộc thí nghiệm đó nhanh chóng thất bại – trong vòng ba thế hệ. Chicago – thành phố của em – và những thành phố khác có các môn phái đã thành công hơn thế nhiều.”

Chicago. Thật lạ khi cái nơi lúc nào với tôi cũng chỉ là nhà lại có một cái tên. Nó khiến thành phố bé nhỏ hơn trong suy nghĩ của tôi.

“Vậy là các vị đã làm việc này rất lâu rồi,” tôi nói.

“Cũng khá lâu, đúng thế. Nhưng Cục khác với hầu hết cơ quan chính phủ, vì bản chất tự nhiên của công việc, vị trí khép kín và khá xa xôi của chúng tôi. Chúng tôi truyền lại kiến thức và mục đích cho con cháu mình, thay vì tin tưởng vào việc bổ nhiệm hay thuê mướn. Cả đời tôi đã được huấn luyện cho công việc tôi đang làm.”

Qua vô vàn những ô cửa sổ, tôi nhìn thấy một phương tiện lạ lùng – nó có hình dạng như một con chim, với hai cấu trúc như đôi cánh và một đầu mũi nhọn, nhưng nó có bánh xe, giống như xe hơi.

“Cái đó để cho vận chuyển hàng không phải không?” tôi hỏi, chỉ vào vật đó.

“Đúng thế.” Cô ta mỉm cười. “Nó là máy bay. Chúng tôi có thể đưa em lên đó một lúc nào đó, nếu điều đó không quá khó khăn với em.”

Tôi không phản ứng lại với trò chơi chữ đó*. Tôi không quên được cô ta đã nhận ra tôi lúc ở ngoài kia như thế nào.

Ông David đang đứng gần một cánh cửa phía trước.

Ông ta giơ tay lên vẫy khi thấy chúng tôi.

“Xin chào, Tris,” ông ta chào. “Cảm ơn vì đã mang cô bé đến đây, Zoe.”

“Không có gì, thưa ngài,” cô Zoe đáp. “Tôi sẽ để cô bé lại với ngài vậy. Còn rất nhiều việc phải làm.”

Cô ta cười với tôi rồi bỏ đi. Tôi không muốn cô ta đi khỏi – giờ khi không có cô ta, chỉ còn mình tôi ở lại với ông David và kỷ niệm về việc tôi đã mắng té tát vào mặt ông ta hôm qua. Ông ta không nhắc gì tới chuyện đó, chỉ quét phù hiệu vào ổ khóa cảm biến để mở cửa.

Căn phòng bên kia là một văn phòng không có cửa sổ.

Một gã thanh niên, chắc cỡ tuổi Tobias, đang ngồi ở một cái bàn, và một cái bàn khác bên kia căn phòng thì trống không. Gã thanh niên đó ngước lên khi chúng tôi đi vào, gõ cái gì đó lên màn hình máy tính của mình và đứng dậy.

* Nguyên bản: Zoe dùng từ “daunting”, cùng gốc từ “daunt” trong “Dauntless”.

“Xin chào ngài,” anh ta nói. “Tôi có thể giúp gì ngài không?”

“Matthew. Người hướng dẫn của cậu đâu?” Ông David hỏi.

“Ông ấy đang tới căn tin lấy thức ăn,” Matthew đáp.

“Chà, vậy thì cậu giúp tôi một tay vậy. Tôi cần tải hồ sơ của Natalie Wright lên màn hình di động. Cậu làm được không?”

Wright? Tôi nghĩ. Đó là họ thật của mẹ tôi sao?

“Dĩ nhiên là được,” Matthew nói, và lại ngồi xuống.

Anh ta đánh mấy chữ trên máy tính và mở ra một loạt tài liệu mà tôi ở xa quá không nhìn thấy rõ. “Được rồi, chỉ phải đợi nó chép qua nữa thôi.”

“Cô ắt hẳn là con gái của cô Natalie, Beatrice.” Anh ta chống cằm và nhìn tôi dò xét. Màu mắt của anh ta sẫm tới mức gần như đen láy, đuôi mắt hơi xếch lên. Anh ta không có vẻ bị ấn tượng hoặc ngạc nhiên khi thấy tôi.

“Nhìn cô không giống cô ấy lắm.”

“Tris,” tôi nói máy móc. Nhưng tôi thấy dễ chịu rằng anh ta không biết biệt hiệu của tôi – điều đó hẳn có nghĩa là anh ta không dành toàn thời gian để dán mắt lên màn hình như thể cuộc sống của chúng tôi trong thành phố là một chương trình giải trí. “Và phải, tôi biết.”

Ông David kéo một cái ghế tới gần, làm nó kêu ken két trên nền gạch rồi vỗ nhẹ.

“Ngồi xuống đi. Tôi sẽ đưa cho cô một cái máy tính bảng chứa tất cả hồ sơ của Natalie để cô và anh trai cô có thể tự đọc, nhưng trong lúc chờ tải chúng, tôi sẽ kể cho cô nghe một câu chuyện.”

Tôi ngồi trên rìa ghế, còn ông ta ngồi xuống sau cái bàn của người hướng dẫn Matthew, xoay tròn ly cà phê còn một nửa trên mặt bàn kim loại.

“Tôi sẽ bắt đầu với việc nói rằng mẹ cô là một phát hiện tuyệt vời. Chúng tôi đã đặt cô ấy vào thế giới hư hại đó một cách hầu như tình cờ, và gen của cô ấy gần như hoàn hảo.” Ông David mỉm cười. “Chúng tôi đã cứu cô ấy khỏi một tình huống tồi tệ và mang cô ấy đến đây. Cô ấy đã ở đây mấy năm, nhưng sau đó chúng tôi phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng bên trong những bức tường thành phố của cô, và cô ấy tình nguyện vào trong đó để giải quyết. Tôi chắc cô biết tất cả những chuyện đó.”

Trong vài giây đầu, tất cả những gì tôi làm được là chớp mắt nhìn ông ta. Mẹ tôi đến từ bên ngoài nơi này ư? Ở đâu kia?

Tôi chợt nhận ra, thêm một lần nữa, rằng mẹ đã đi giữa những bức tường này, đã quan sát thành phố trên những cái màn hình trong phòng điều khiển. Mẹ có từng ngồi trên chiếc ghế này không? Bàn chân của mẹ có từng chạm vào sàn gạch này không? Đột nhiên tôi cảm thấy những vết tích vô hình của mẹ tôi có ở khắp mọi nơi, trên mọi bức tường và nắm đấm cửa và cột trụ.

Tôi siết chặt mép ghế và cố gắng sắp xếp lại suy nghĩ trong đầu để hỏi một câu hỏi.

“Không, tôi không biết,” tôi nói. “Khủng hoảng gì?”

“Đại biểu phái Erudite bắt đầu sát hại các pergent, dĩ nhiên rồi,” ông ta trả lời. “Tên hắn ta là Nor – Norman?”

“Norton,” Matthew nhắc. “Người tiền nhiệm của Jeanine. Có vẻ như hắn ta đã truyền cái ý tưởng giết tàn giết sạch pergent lại cho cô ta, ngay trước khi hắn lên cơn đau tim.”

“Cảm ơn cậu. Dù gì đi nữa, chúng tôi đã cử Natalie vào trong để điều tra tình hình và ngăn những cái chết lại.

Đương nhiên là chúng tôi chưa bao giờ nghĩ tới việc cô ấy sẽ ở đó lâu đến thế, nhưng cô ấy rất có năng lực – trước đó chúng tôi chưa từng nghĩ tới việc cài tay trong, và cô ấy làm được rất nhiều việc vô cùng giá trị cho chúng tôi.

Cũng như xây dựng cho mình một gia đình, điều mà rõ ràng bao gồm cả cô trong đó.”

Tôi cau mày. “Nhưng những pergent vẫn bị giết khi tôi đang trải qua kỳ nhập môn.”

“Cô chỉ biết về những người đã chết,” ông David nói.

“Chứ không biết về những người thoát chết. Vài người trong số họ đang ở đây, trong đặc khu này. Tôi tin là cô đã gặp Amar rồi phải không? Anh ấy là một trong những người đó. Vài pergent được cứu thoát cần giữ khoảng cách khỏi cuộc thí nghiệm của các cô – quá khó khăn cho họ khi phải nhìn những người họ đã từng quen biết và yêu thương phải đối diện với sự sống chết của họ, thế nên họ được đào tạo để hòa nhập vào cuộc sống bên ngoài Cục. Nhưng đúng vậy, mẹ của cô đã đảm nhận công việc quan trọng.”

Bà cũng có nói vài lời nói dối, và một số sự thật. Tôi tự hỏi liệu ba tôi có biết mẹ là ai không, thật sự đến từ đâu không. Sau cùng thì ông ấy là một thủ lĩnh Abnegation, và như thế, là một trong những người nắm giữ sự thật.

Đột nhiên tôi có một suy nghĩ kinh khủng: Nếu lỡ mẹ tôi kết hôn với ông chỉ vì buộc phải làm vậy thì sao, như một phần nhiệm vụ của bà trong thành phố? Nếu lỡ toàn bộ mối quan hệ của họ chỉ là giả tạo thì sao?

“Vậy là bà ấy không thật sự là một Dauntless bẩm sinh,” tôi nói khi sắp xếp, phân loại những lời nói dối khả dĩ đã từng có.

“Ban đầu khi cô ấy vào thành phố, cô ấy đóng vai một Dauntless, vì cô ấy đã có sẵn hình xăm rồi và rất khó giải thích với người bản xứ về điều đó. Cô ấy mười sáu tuổi, nhưng chúng tôi nói cô ấy mười lăm để có thêm thời gian thích nghi. Ý định của chúng tôi là để cho cô ấy…” Ông ta nhún vai. “Chà, cô nên đọc hồ sơ của cô ấy đi. Tôi không thể kể hết quan điểm sự nghiệp của một cô gái mười sáu tuổi được.”

Đúng lúc đó, Matthew mở khe đựng đĩa và lấy ra một mảnh gương nhỏ, dẹp. Anh ta dùng một ngón tay gõ lên nó, và hình ảnh hiện ra phía bên trên. Nó là một trong những tài liệu anh ta mới mở trên máy tính lúc nãy. Anh ta đưa cái máy tính bảng cho tôi. Nó chắc chắn hơn tôi nghĩ, cứng và chắc.

“Đừng lo, gần như không thể phá hủy nó được đâu,” ông David nói. “Tôi chắc cô muốn quay lại chỗ bạn mình.

Matthew, cậu vui lòng dẫn cô Prior về khách sạn được không? Tôi còn có việc phải lo.”

“Và nếu tôi không vui thì sao?” Matthew đáp. Rồi anh ta nháy mắt. “Tôi đùa đấy, thưa ngài. Tôi sẽ lo cho cô ấy.”

“Cảm ơn ông,” tôi nói với ông David trước khi ra khỏi phòng.

“Đương nhiên,” ông ta nói. “Hãy cho ta biết nếu cô có câu hỏi gì nhé.”

“Sẵn sàng chưa?” Matthew hỏi.

Anh ta cao ráo, chắc cao bằng anh Caleb, và mái tóc đen lòa xòa trước trán rất nghệ sĩ, cứ như thể anh ta đã dành rất nhiều thời gian để khiến nó trông như thể mới vừa lăn ra khỏi giường là đã như thế rồi. Bên dưới bộ đồng phục màu xanh dương đậm, anh ta mặc một cái áo thun trơn màu đen và đeo một sợi dây đen quanh cổ. Nó xê dịch trên yết hầu anh ta khi anh ta nuốt nước bọt.

Tôi đi cùng anh ta ra khỏi văn phòng nhỏ đó và bước dọc theo hành lang. Đám đông ở đó lúc nãy đã thưa bớt.

Hẳn họ đã đi làm, hoặc đi ăn sáng. Nơi này có những sinh mạng vẹn toàn đang được sống, ngủ nghỉ, ăn uống và làm việc, nuôi dạy con cái, chăm sóc gia đình và chết. Đây là nơi mẹ tôi gọi là nhà, từng một thời.

“Tôi tự hỏi khi nào thì cô mới thất điên bát đảo đây,” anh ta nói. “Sau khi phát hiện ra tất cả những chuyện này cùng một lúc.”

“Tôi sẽ không thất điên bát đảo,” tôi nói, thủ thế. Tôi đã thất kinh rồi, tôi nghĩ, nhưng tôi sẽ không thừa nhận.

Matthew nhún vai. “Nếu là tôi thì tôi sẽ thế. Nhưng cũng đúng thôi.”

Tôi nhìn thấy một tấm biển ghi LỐI VÀO KHÁCH SẠN ở phía trước. Tôi siết chặt cái máy vào ngực, nóng lòng quay lại phòng ngủ và kể cho Tobias nghe về mẹ tôi.

“Nghe này, một trong những việc làm của tôi và người hướng dẫn là kiểm tra gen,” Matthew nói. “Tôi không biết liệu cô và người kia – con trai của ông Marcus Eaton? – có phiền ghé qua để tôi kiểm tra gen của hai người được không?”

“Để làm gì?”

“Tò mò.” Anh ta nhún vai. “Chúng tôi chưa từng kiểm tra bộ gen của ai nằm trong giai đoạn thí nghiệm gần như vậy cả, còn cô và Tobias dường như rất… khác thường, xét trên một số biểu hiện nhất định của hai người.”

Tôi nhướn mày.

“Chẳng hạn như cô, đã biểu diễn những màn kháng cự lại huyết thanh rất phi thường – phần lớn pergent không có khả năng kháng lại được huyết thanh như cô đâu,” Matthew nói. “Và Tobias thì chống lại được những trình mô phỏng, nhưng cậu ta lại không thể hiện một vài đặc tính mà chúng tôi mong đợi từ một pergent. Tôi có thể giải thích rõ ràng hơn sau.”

Tôi lưỡng lự, không chắc liệu có muốn trông thấy bộ gen của mình không, hay bộ gen của Tobias, hay so sánh chúng, như thể đó là điều quan trọng vậy. Nhưng vẻ mặt của Matthew có vẻ rất háo hức, giống như con nít, và tôi hiểu được sự tò mò đó.

“Để tôi hỏi xem anh ấy có đồng ý không,” tôi nói.

“Nhưng tôi rất sẵn lòng. Khi nào đây?”

“Trong sáng nay được không?” Anh ta nói. “Tôi sẽ đến đón các bạn trong vòng một tiếng nữa, cỡ đó. Đằng nào các bạn cũng không thể vào phòng thí nghiệm mà không có tôi.”

Tôi gật đầu. Bất thình lình tôi thấy hứng thú muốn biết thêm về bộ gen của tôi, cảm giác giống như việc được đọc nhật ký của mẹ tôi: tôi sẽ thu thập lại từng mảnh, từng mảnh nhỏ của mẹ tôi.