Chương 22 TRIS
TRONG TẬP TIN chỉ còn chừng hơn một tá bài viết khác, và chúng không cho tôi biết tất cả những điều tôi muốn biết, mặc dù chúng quả có cho tôi thêm vài thắc mắc. Và thay vì chỉ chứa toàn những suy nghĩ và ấn tượng của mẹ tôi, chúng lại đều viết cho ai đó.
David thân mến, Tôi đã nghĩ anh thân thiết hơn người giám sát của tôi, nhưng tôi đoán mình đã lầm.
Anh nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra khi tôi đến đây, rằng tôi sẽ sống độc thân và cô độc suốt đời ư? Rằng tôi sẽ không gắn bó với ai ư? Rằng tôi sẽ không tự ra quyết định nào cho riêng mình ư?
Tôi đã bỏ mọi thứ lại phía sau để đến đây khi không ai muốn đi. Anh nên cảm ơn tôi thay vì buộc tội tôi đang lơ là nhiệm vụ. Thẳng thắn mà nói: Tôi sẽ không quên lý do mình đến đây chỉ vì tôi đã chọn phái Abnegation và tôi sắp kết hôn. Tôi xứng đáng có cuộc sống của riêng tôi. Cuộc sống mà tôi chọn lựa, không phải cuộc sống mà anh và Cục chọn cho tôi. Anh nên biết tất cả những điều đó - anh nên hiểu tại sao cuộc sống này lại hấp dẫn tôi sau những gì tôi đã thấy và đã trải qua.
Thành thật mà nói, tôi không thật sự nghĩ anh quan tâm tới việc tôi đã không chọn phái Erudite như đáng ra phải làm. Có vẻ như anh chỉ đang ghen mà thôi. Và nếu anh vẫn muốn tôi cập nhật tin tức cho anh thì anh sẽ phải xin lỗi vì đã nghi ngờ tôi. Còn nếu không, tôi sẽ không gửi thêm cho anh bất kỳ thông tin nào nữa, và chắc chắn tôi sẽ không rời thành phố để về thăm nơi đó nữa. Tất cả tùy thuộc vào anh.
- Natalie Tôi tự hỏi liệu những gì mẹ nói về ông David kia có đúng không. Suy nghĩ đó làm tôi nhột nhạt. Có thật ông ta ghen với ba tôi không? Sự ghen tị của ông ta có nhạt dần theo thời gian không? Tôi chỉ có thể nhìn thấy mối quan hệ của họ qua con mắt của bà ấy, và tôi không chắc bà ấy là nguồn thông tin chính xác nhất về việc này.
Tôi có thể thấy bà ấy đang lớn dần lên qua những ghi chép, ngôn ngữ bà dùng trở nên lịch sự hơn vì thời gian đã tách bà khỏi vùng giáp ranh nơi bà từng ở, những phản ứng của bà ngày một ôn hòa hơn. Bà ấy đang trưởng thành.
Tôi coi ngày tháng của ghi chú tiếp theo. Nó được viết vài tháng sau đó, nhưng không gửi đến ông David như một vài ghi chép khác. Giọng điệu cũng khác – không thân thuộc mà thẳng thừng hơn.
Tôi vỗ lên màn hình, lướt qua những ghi chép. Phải vỗ tới mười lần tôi mới lại tới một ghi chép khác dành cho ông David. Ngày tháng trên đầu ghi chép cho thấy nó được viết vào hai năm sau.
David thân mến, Tôi đã nhận được thư anh. Tôi hiểu tại sao anh không thể là người nhận những báo cáo cập nhật này ở đầu bên đó, và tôi tôn trọng quyết định của anh, nhưng tôi sẽ nhớ anh lắm.
Tôi chúc anh được hạnh phúc.
- Natalie Tôi thử lướt tới nữa, nhưng những ghi chép đã hết rồi.
Tài liệu cuối cùng trong tập tin là một tờ giấy chứng tử.
Nguyên nhân cái chết được ghi là nhiều phát đạn trên người. Tôi ngả người tới lui một chút để xua đi hình ảnh mẹ đổ gục xuống đường khỏi tâm trí. Tôi không muốn nghĩ tới cái chết của bà. Tôi muốn biết nhiều hơn về mẹ và ba, mẹ và ông David. Bất cứ thứ gì làm tôi phân tâm khỏi cái cách bà lìa đời.
Có một dấu hiệu cho thấy tôi khát khao thông tin – và hành động – như thế nào khi sáng hôm sau tôi đến phòng điều khiển với cô Zoe. Cô ta nói chuyện với trưởng phòng điều khiển về cuộc họp sau đó với ông David trong lúc tôi kiên định ngắm nghía hai bàn chân tôi, không muốn nhìn thấy ai trên màn hình. Có cảm giác như nếu tôi cho phép mình nhìn thấy họ, dù chỉ trong một giây thôi, tôi cũng sẽ bị nghiện, bị lạc trong thế giới cũ vì tôi không biết phải định hướng làm sao trong thế giới mới.
Dù vậy, lúc cô Zoe nói chuyện xong thì tôi không thể kìm hãm nổi sự tò mò nữa. Tôi nhìn lên cái màn hình lớn treo trên những cái bàn. Bà Evelyn đang ngồi trên giường bà ấy, đang lướt tay trên cái gì đó đặt trên cái bàn cạnh giường. Tôi nhích tới gần hơn để nhìn xem nó là cái gì, và người phụ nữ ngồi trên cái bàn trước mặt tôi nói. “Đây là máy quay Evelyn. Chúng tôi theo dõi bà ta 24/7.”
“Cô nghe bà ấy nói được không?”
“Chỉ khi chúng tôi vặn âm lượng lên thôi,” cô đó trả lời.
“Dù vậy chúng tôi chủ yếu vẫn tắt âm đi. Khó mà nghe hết nổi chừng ấy tiếng nói chuyện suốt cả ngày.”
Tôi gật đầu. “Bà ấy đang sờ cái gì thế?”
“Một bức tượng gì đó, tôi không rõ.” Cô kia nhún vai.
“Mà bà ấy rất hay nhìn nó.”
Tôi nhận ra nó đã ở đâu đó – trong phòng của Tobias, nơi tôi đã ngủ lại sau cuộc hành hình ở tổng hành dinh Erudite.
Nó được làm bằng thủy tinh màu xanh, một hình thù trừu tượng nhìn như một thác nước đang đổ mà bị đóng băng.
Tôi sờ cằm bằng đầu ngón tay trong lúc lục lại trí nhớ.
Anh kể với tôi rằng bà Evelyn đã tặng nó cho anh hồi anh còn nhỏ, và dặn anh giấu không cho ba anh biết, người không ưa thứ gì đẹp đẽ mà vô dụng, đúng kiểu Abnegation.
Lúc đó tôi không mấy bận tâm về nó, nhưng ắt hẳn nó phải có ý nghĩa gì đó với bà ấy, nếu bà ấy đã mang nó tuốt từ khu vực Abnegation đến tận tổng hành dinh Erudite để cất trên một cái bàn đặt ngay đầu giường. Có lẽ đó từng là cách bà ấy phản kháng lại hệ thống môn phái.
Trên màn hình, bà Evelyn chống cằm lên tay và chăm chú nhìn bức tượng đó một lúc. Rồi bà ấy đứng dậy, co duỗi hai tay và rời khỏi phòng.
Không, tôi không nghĩ bức tượng là một dấu hiệu phản kháng. Tôi nghĩ đó chỉ là một vật để nhớ về Tobias. Không biết sao mà tôi chưa từng nhận ra rằng khi Tobias trốn khỏi thành phố với tôi, anh không chỉ là một kẻ nổi loạn đang chống lại thủ lĩnh của mình – anh còn là đứa con trai bỏ rơi mẹ mình. Và bà ấy đang đau đớn vì việc đó.
Còn anh thì sao?
Dẫu mối quan hệ giữa họ đã luôn đầy ắp khó khăn, những mối ràng buộc đó vẫn chưa bao giờ đổ vỡ. Không thể nào.
Cô Zoe chạm vào vai tôi. “Em có gì muốn hỏi tôi đúng không?”
Tôi gật đầu và quay đi khỏi những cái màn hình. Trong bức hình, cô Zoe còn trẻ khi đứng cạnh mẹ tôi, nhưng cô ta vẫn có mặt ở đó, nên tôi nghĩ cô ta chắc phải biết điều mà đáng lẽ ra tôi phải hỏi ông David, nhưng là người đứng đầu Cục, ông ấy khó tìm kinh khủng.
“Tôi muốn biết về ba mẹ tôi,” tôi nói. “Tôi đang đọc nhật ký của bà ấy, và tôi nghĩ tôi gặp chút khó khăn không đoán được bọn họ đã gặp nhau như thế nào, hay tại sao họ lại cùng nhau gia nhập phái Abnegation.”
Cô Zoe chậm rãi gật đầu. “Tôi sẽ kể em nghe những gì tôi biết. Có phiền đi tới phòng thí nghiệm với tôi không?
Tôi cần chuyển một lời nhắn cho Matthew.”
Cô ta chắp hai tay sau lưng, thả nó phía cuối xương sống. Tôi vẫn đang cầm cái máy tính bảng ông David đưa tôi. Nó in đầy dấu vân tay, và ấm nóng vì tôi cầm nó suốt.
Tôi hiểu lý do tại sao bà Evelyn cứ sờ bức tượng đó – đó là thứ cuối cùng của con trai mà bà ấy có được, cũng như đây là thứ cuối cùng của mẹ mà tôi có. Tôi cảm thấy mẹ đang ở gần tôi hơn khi có nó ở bên.
Tôi nghĩ đó là lý do khiến tôi không thể đưa nó cho anh Caleb, dù anh có quyền xem. Tôi không chắc mình có thể buông nó ra chưa.
“Bọn họ gặp nhau trong một lớp học,” cô Zoe kể. “Ba của em, mặc dù rất thông minh, nhưng không có năng khiếu về tâm lý cho lắm, và ông thầy – một Erudite, chẳng ngạc nhiên – vì đó mà rất hà khắc với anh ấy. Vậy là mẹ em đề nghị được giúp anh ấy sau giờ học, còn anh ấy nói với ba mẹ của anh ấy mình đang làm một dự án nào đó ở trường. Bọn họ cứ như thế trong mấy tuần, rồi sau đó bắt đầu bí mật hẹn hò – tôi nghĩ một trong những nơi yêu thích của họ là đài phun nước ở phía Nam của Công viên Thiên Niên Kỷ. Đài phun nước Buckingham thì phải? Ngay cạnh đầm lầy ấy?”
Tôi hình dung cảnh ba và mẹ tôi ngồi cạnh một cái đài phun, dưới tia nước, chân họ di di trên nền bê tông. Tôi biết cái đài nước cô Zoe đang nhắc tới đã không hoạt động trong nhiều năm trời, nên chẳng có tia nước phun nào ở đó, nhưng bức tranh đó đẹp hơn nếu tưởng tượng như thế.
“Lễ Chọn đang đến gần, và ba em rất nóng lòng muốn bỏ phái Erudite vì anh ấy đã nhìn thấy một thứ kinh khủng…”
“Cái gì? Ông ấy đã nhìn thấy gì ạ?”
“Chà, ba em từng là bạn thân của Jeanine Matthews,” cô Zoe nói. “Anh ấy đã nhìn thấy cô ta làm một thí nghiệm với một người vô môn phái muốn đổi lấy thứ gì đó – thức ăn, quần áo, đại loại vậy. Dù gì đi nữa, cô ta cũng đang thử nghiệm huyết thanh gây kinh hoàng mà sau đó được đưa vào giai đoạn nhập môn của phái Dauntless – rất lâu trước đây, bối cảnh kinh hoàng không phải vận hành nhờ vào những nỗi sợ riêng biệt của một người mà chỉ là những nỗi sợ chung chung như độ cao hay nhện hay gì đó – và lão Norton, đại diện của phái Erudite lúc đó, cũng có mặt ở đó, đã để nó diễn ra lâu hơn thời gian cần thiết.
Người đàn ông vô môn phái đó không bao giờ trở lại bình thường được nữa. Với ba em đó là giọt nước làm tràn ly.”
Cô ta dừng lại trước cửa phòng thí nghiệm để mở nó bằng tấm thẻ cá nhân. Chúng tôi bước vào trong văn phòng dơ bẩn nơi ông David đã đưa cho tôi cuốn nhật ký của mẹ. Matthew đang ngồi dí mũi vào máy tính, chỉ một phân nữa là chạm luôn màn hình, mắt nheo lại. Anh ta hầu như không chú ý khi chúng tôi bước vào.
Tôi cảm thấy ngợp bởi mong muốn được cười và khóc cùng một lúc. Tôi ngồi xuống cái ghế kế bên một cái bàn trống, tay siết chặt hai đầu gối. Ba tôi là một người khó tính. Nhưng ông còn là một người tốt.
“Ba em muốn thoát ly khỏi phái Erudite, còn mẹ em thì không muốn ở lại, bất chấp nhiệm vụ của chị ấy – nhưng chị ấy vẫn muốn được ở cạnh Andrew, nên họ đã cùng nhau chọn phái Abnegation.” Cô ta dừng lại. “Việc này gây ra một vết rạn nứt giữa mẹ em và ông David, như tôi chắc rằng em cũng thấy rồi. Cuối cùng ông ấy cũng xin lỗi, nhưng nói là ông ấy không thể nhận báo cáo cập nhật từ chị ấy được nữa – tôi không biết tại sao, ông ấy không chịu nói – và sau đó báo cáo của chị ấy trở nên rất ngắn gọn, thuần túy cung cấp thông tin. Đó là lý do tại sao chúng không có mặt trong ghi chép đó.”
“Nhưng bà ấy vẫn thi hành được nhiệm vụ ở Abnegation mà.”
“Đúng vậy. Và ở đó chị ấy hạnh phúc hơn nhiều, tôi nghĩ vậy, so với nếu chị ấy ở Erudite,” cô Zoe nói. “Dĩ nhiên là phái Abnegation hóa ra cũng chẳng tốt hơn mấy, trên một số mặt. Có vẻ như chẳng có đường nào thoát được sự tổn hại gen. Ngay cả bộ phận lãnh đạo của Abnegation cũng bị nó đầu độc.”
Tôi cau mày. “Có phải cô đang nói về ông Marcus không? Vì ông ta là pergent. Tổn hại gen chẳng có can hệ gì ở đây hết.”
“Một người sống giữa những tổn hại gen không thể ngăn hành vi của chính mình không mô phỏng theo,” cô Zoe đáp. “Matthew, ngài David muốn có một cuộc họp với quản lý của cậu để thảo luận về một trong những huyết thanh cậu đang nghiên cứu. Lần trước Alan đã quên béng luôn chuyện đó, nên tôi tự hỏi không biết cậu tháp tùng anh ta đi được không.”
“Chắc chắn rồi,” Matthew đáp mà không buồn dời mắt khỏi cái màn hình máy tính. “Tôi sẽ bắt anh ấy ói ra một cái giờ.”
“Tuyệt. Này, tôi phải đi rồi – tôi hy vọng đã trả lời được thắc mắc của em, Tris.” Cô ta mỉm cười và lách khỏi cửa.
Tôi ngồi thụp xuống, khuỷu tay chống lên gối. Ông Marcus là pergent – thuần khiết về gen, giống y như tôi.
Nhưng tôi không chấp nhận chuyện ông ta là người xấu vì xung quanh ông ta toàn là những người có bộ gen hỏng.
Tôi cũng vậy mà. Uriah cũng vậy. Mẹ tôi cũng vậy. Nhưng chúng tôi chẳng ai quất roi vào người thân của mình cả.
“Lý luận của cô ấy có một vài lỗ hổng phải không,”
Matthew nói. Anh ta đang nhìn tôi từ sau cái bàn, nhịp nhịp ngón tay trên thành ghế.
“Ừ,” tôi đáp.
“Nhiều người ở đây cứ muốn đổ hết tất tần tật tội cho việc hỏng gen,” anh ta nói. “Họ dễ chấp nhận điều đó hơn sự thật, rằng họ không thể nào hiểu hết về con người và tại sao người ta lại cư xử theo cách người ta cư xử.”
“Mọi người đều phải đổ lỗi cho một thứ gì đó vì cách thế giới tồn tại,” tôi nói. “Với ba tôi đó là phái Erudite.”
“Vậy thì có lẽ tôi không nên nói với cô rằng phái Erudite lúc nào cũng là món ưa thích của tôi rồi,” Matthew khẽ cười.
“Thật ư?” Tôi ngồi thẳng dậy. “Tại sao?”
“Tôi không biết, tôi đoán là mình đồng ý với họ. Rằng nếu mọi người cứ tìm hiểu về thế giới xung quanh, họ sẽ gặp ít rắc rối hơn.”
“Tôi đã đề phòng bọn họ cả đời,” tôi nói, tì cằm lên tay.
“Ba tôi ghét phái Erudite, nên tôi cũng học theo mà ghét luôn, cộng với tất tần tật mọi thứ họ làm với thời gian họ có. Chỉ là bây giờ tôi đang nghĩ ông ấy đã sai rồi. Hoặc chỉ là… định kiến mà thôi.”
“Về phái Erudite hay về việc học theo?”
Tôi nhún vai. “Cả hai. Có rất nhiều Erudite đã giúp tôi mà không đợi tôi yêu cầu.” Wil, anh Fernando, chị Cara – tất cả bọn họ đều là Erudite, tất cả đều nằm trong số những người tốt bụng nhất tôi biết, dù có ngắn ngủi thế nào. Họ đã vô cùng tập trung vào việc biến thế giới thành một nơi tốt đẹp hơn.” Tôi lắc đầu. “Những gì mụ Jeanine làm không liên quan gì đến việc khao khát tri thức dẫn đến khát khao quyền lực, như ba tôi từng nói với tôi, và mọi thứ liên quan đến sự hoảng sợ của mụ ta về việc thế giới rộng lớn như thế nào chính là thứ và cách biến mụ ta ra như thế. Có lẽ chính phái Dauntless mới là người tiếp nhận nó đúng kiểu.”
“Có một câu nói lâu đời như thế này,” Matthew nói.
“Kiến thức là sức mạnh. Sức mạnh để làm những điều xấu xa, như Jeanine… hay sức mạnh để làm điều thiện, như chúng tôi đang làm. Bản thân sức mạnh không xấu xa. Vì thế bản thân kiến thức cũng không xấu xa.”
“Tôi đoán mình đã lớn lên mà nghi ngờ cả hai. Kiến thức và sức mạnh,” tôi nói. “Với phái Abnegation, sức mạnh chỉ nên được trao cho những người không cần nó.”
“Nghĩ vậy cũng có chỗ có lý,” Matthew nói. “Nhưng có lẽ đã đến lúc thoát khỏi mối nghi ngờ đó rồi.”
Anh ta thò tay xuống dưới bàn và lôi ra một cuốn sách.
Nó dày cộm, gáy đã mòn và rìa đã xơ xác. Trên đó in chữ CON NGƯỜI SINH HỌC.
“Nó hơi sơ đẳng một chút, nhưng cuốn sách này đã dạy tôi làm con người là như thế nào,” anh ta nói. “Là một phần quá sức phức tạp, bí ẩn của bộ máy sinh học, và tuyệt vời hơn nữa là có khả năng phân tích bộ máy đó! Đó là một điều đặc biệt, vô tiền khoáng hậu trong tất cả lịch sử tiến hóa. Khả năng hiểu biết về chính chúng ta và về thế giới là điều khiến chúng ta là con người.”
Anh ta đưa quyển sách cho tôi và quay lại với cái máy tính. Tôi nhìn xuống bìa sách mòn vẹt và lướt tay trên cạnh những trang giấy. Anh ta khiến sự hấp thu kiến thức giống như một điều bí mật, xinh đẹp và một thứ cổ xưa.
Tôi có cảm giác như nếu đọc cuốn sách này, tôi có thể quay ngược lại toàn bộ những thế hệ loài người để về với thế hệ đầu tiên, dù nó là khi nào đi nữa – rằng tôi có thể tham dự vào một điều gì đó vĩ đại và xưa cũ hơn tôi gấp nhiều lần.
“Cảm ơn anh,” tôi nói, không phải vì cuốn sách. Nó là vì đã trả lại cho tôi một điều gì đó, điều gì đó tôi đã đánh mất trước cả khi tôi thật sự có nó.
Sảnh chờ khách sạn sực mùi kẹo chanh và đào, một hỗn hợp chua lè làm lỗ mũi tôi cay xè khi hít vô. Tôi tạt ngang qua một cái cây trồng trong chậu, có một bông hoa sặc sỡ nở bung giữa đám cành lá, và đi về phía phòng ngủ chung, nơi này đã trở thành nhà của chúng tôi ở đây. Vừa đi, tôi vừa lấy vạt áo chùi màn hình, cố lau cho sạch dấu vân tay.
Anh Caleb đang ở một mình trong phòng, tóc tai rối bù và mắt đỏ hoe vì ngủ nhiều. Anh ấy chớp mắt khi tôi bước vào và quăng cuốn sách sinh học lên giường tôi. Bụng tôi quặn lên vì buồn nôn và siết chặt cái máy tính bảng với hồ sơ của mẹ tôi vào sườn. Anh ấy là con trai của mẹ. Anh ấy có quyền được đọc ghi chép của mẹ cũng như mày.
“Nếu em muốn nói điều gì,” anh ấy nói, “cứ nói đi.”
“Mẹ đã sống ở đây.” Tôi bật nói ra như một bí mật đã giữ kín lâu ngày, quá lớn tiếng và quá nhanh. “Bà ấy đến từ vùng giáp ranh, và họ đã đưa bà ấy đến đây, và mẹ đã sống ở đây vài năm, sau đó vào thành phố để ngăn không cho phái Erudite giết những pergent.”
Caleb chớp mắt. Trước khi mất tinh thần, tôi chìa cái máy ra cho anh. “Hồ sơ của mẹ ở đây. Không dài lắm, nhưng anh nên đọc.”
Anh ấy đứng dậy và nắm tay quanh cái vật bằng kính.
Anh ấy cao hơn rất nhiều so với trước đây, cao hơn rất nhiều so với tôi. Có vài năm hồi chúng tôi còn nhỏ, tôi là đứa cao hơn dù tôi nhỏ hơn tới gần một tuổi. Đó là một số trong những năm đẹp nhất đời của hai chúng tôi, những năm mà tôi không cảm thấy anh lớn hơn hay giỏi hơn hay thông minh hơn hay vô kỷ hơn tôi.
“Em biết chuyện này bao lâu rồi?” Anh ấy nói, nheo mắt nhìn tôi.
“Không quan trọng.” Tôi lùi lại. “Giờ tôi đang nói với anh. Nhân tiện, anh có thể giữ nó. Tôi xong chuyện với nó rồi.”
Anh ấy lấy tay áo chùi màn hình và khéo léo tìm tới ghi chép đầu tiên của mẹ tôi. Tôi tưởng anh ấy sẽ ngồi xuống và đọc nó, rồi nhờ đó mà kết thúc cuộc nói chuyện, nhưng thay vì vậy anh chỉ thở dài.
“Anh cũng có cái này cho em coi,” anh ấy nói. “Về bà Edith Prior. Đi nào.”
Chính tên bà ấy, chứ không phải mối gắn kết lơ lửng với Caleb đã kéo tôi đi theo khi anh ấy quay lưng bước đi.
Anh ấy dẫn tôi ra khỏi phòng chung và đi dọc theo hành lang và rẽ qua nhiều khúc quanh để đến một căn phòng xa ơi là xa, xa hơn bất cứ chỗ nào tôi từng thấy trong đặc khu của Cục. Nó dài và hẹp, tường phòng kín đặc toàn kệ tủ xếp những cuốn sách màu xanh – xám y hệt nhau, dày và nặng như từ điển. Giữa hai hàng kệ đầu tiên là một cái bàn gỗ dài, bên dưới xếp nhiều ghế dựa. Anh Caleb bật công tắc đèn, và ánh sáng tai tái tràn ngập khắp căn phòng, làm tôi nhớ tới tổng hành dinh Erudite.
“Anh đã dành rất nhiều thời gian ở đây,” anh ấy nói.
“Đây là phòng lưu trữ. Họ cất giữ một số dữ liệu về cuộc thí nghiệm Chicago ở đây.”
Anh đi dọc theo những cái kệ phía bên phải căn phòng, lướt tay trên những cái gáy sách. Anh ấy rút ra một cuốn và đặt nó lên bàn, thế là nó tự lật ra, những trang sách đầy chữ và hình.
“Tại sao họ không lưu giữ hết mấy cái này trong máy tính nhỉ?”
“Anh cho rằng họ đã cất những giấy tờ lưu trữ này ở đây từ trước khi phát triển được một hệ thống an ninh phức tạp trên mạng lưới,” anh ấy đáp mà không buồn nhìn lên.
“Các dữ liệu không bao giờ hoàn toàn biến mất, nhưng giấy tờ thì có thể bị hủy hoại vĩnh viễn, vậy nên em thật sự vẫn bỏ nó đi được nếu không muốn nó rơi vào tay không đúng người. Thi thoảng sẽ an toàn hơn nếu cứ in tất tần tật ra.”
Đôi mắt màu xanh lục của anh đảo tới đảo lui trong lúc anh ấy tìm kiếm chỗ đúng, ngón tay anh rất lanh lẹ, kết quả của việc quen lật sách. Tôi nghĩ tới việc anh ấy đã ngụy trang phần đó của con người mình như thế nào, nhét sách vở trong cái khe giữa tấm bảng treo đầu giường với bức tường trong ngôi nhà Abnegation của chúng tôi, tận đến khi anh ấy nhỏ máu của mình vào làn nước Erudite vào ngày Lễ Chọn. Lúc đó, đáng ra tôi phải biết anh ấy là một kẻ dối trá, kẻ chỉ trung thành với chính bản thân mình mà thôi.
Tôi lại cảm thấy cảm giác buồn nôn giống lúc nãy. Tôi không thể chịu được việc đứng đây với Caleb, cửa đóng lại nhốt chúng tôi trong này, giữa chúng tôi chẳng có gì ngoài một cái bàn.
“A, đây rồi.” Anh ấy chạm tay vào một trang sách, rồi xoay cuốn sách ngược lại để chỉ cho tôi.
Nhìn nó giống một bản hợp đồng, nhưng nó được viết tay: Tôi, Amanda Marie Ritter, từ Peoria, bang Illinois, đồng ý với các thủ tục sau đây:
• Thủ tục “chữa lành gen” như được định nghĩa bởi Cục An sinh Di truyền: “một quy trình sửa chữa gen được thiết kế để hiệu chỉnh những gen được xác định là ‘bị hỏng’ ở trang ba của đơn này.”
• Thủ tục “tái lập” như được định nghĩa bởi Cục An sinh Di truyền: “một quy trình tẩy xóa ký ức được thiết kế để những chủ thể tham gia thí nghiệm phù hợp hơn với thí nghiệm.”
Tôi tuyên bố tôi đã được hướng dẫn thấu đáo về những rủi ro và quyền lợi của các thủ tục này bởi một thành viên của Cục An sinh Di truyền. Tôi hiểu việc này có nghĩa rằng tôi sẽ được Cục cung cấp một tiểu sử và thân phận mới và được đưa vào trong cuộc thí nghiệm ở Chicago, bang Illinois, nơi tôi sẽ sinh sống suốt phần đời còn lại.
Tôi đồng ý sẽ tái sản xuất ít nhất hai lần để đem lại cơ hội sống sót cao nhất cho nguồn gen lành của tôi. Tôi hiểu rằng tôi sẽ được khuyến khích làm điều này khi tôi được tái giáo dục sau thủ tục tái lập.
Tôi cũng đồng ý cho con tôi và cháu tôi, vân vân, tiếp tục thí nghiệm này đến khi Cục An sinh Di truyền cho rằng nó đã hoàn thành. Chúng sẽ được chỉ dạy với quá khứ giả mà tôi sẽ có sau khi thủ tục tái thiết lập hoàn tất.
Ký tên, Amanda Marie Ritter.
Amanda Marie Ritter. Bà ta là người phụ nữ trong đoạn băng, Edith Prior, tổ tiên của tôi.
Tôi ngước nhìn anh Caleb, mắt anh sáng bừng vì kiến thức, giống như có một dòng điện đang chạy qua.
Tổ tiên của chúng tôi.
Tôi kéo một chiếc ghế và ngồi xuống. “Bà ấy là tổ tiên của ba?”
Anh gật đầu và ngồi xuống đối diện tôi. “Bảy thế hệ trước, đúng thế. Một bà cô. Anh bà ấy chính là người duy trì cái tên Prior.”
“Và đây là…”
“Một biên bản cam kết,” anh ấy nói. “Biên bản cam kết tham gia vào cuộc thí nghiệm của bà ấy. Những ghi ghú ở dưới cùng nói rằng đây chỉ là bản thảo đầu tiên thôi – bà ấy chính là một trong những người sáng lập đầu tiên của những cuộc thí nghiệm. Một thành viên của Cục. Chỉ có một ít thành viên của Cục trong cuộc thí nghiệm ban đầu; hầu hết những người trong thí nghiệm không làm việc cho chính phủ.”
Tôi đọc lại những dòng chữ đó, cố gắng hiểu chúng.
Khi tôi nhìn thấy bà ấy trong đoạn băng, rất hợp lý rằng bà ấy sẽ trở thành một công dân trong thành phố của chúng tôi, rằng bà ấy sẽ đắm mình vào trong các môn phái của chúng tôi, rằng bà ấy sẽ tình nguyện bỏ lại sau lưng những gì bà ấy đã bỏ lại. Nhưng đó là trước khi tôi biết đến cuộc sống bên ngoài thành phố, và nó không có vẻ ghê rợn như những gì bà Edith mô tả trong đoạn thông điệp gửi đến chúng tôi.
Bà ấy đã truyền tải một sự thao túng hết sức khéo léo trong đoạn băng đó, nhằm mục đích giữ cho chúng tôi tin vào và tận tụy với tầm nhìn của Cục – thế giới bên ngoài đang bị tàn phá nặng nề, và những pergent cần phải ra ngoài này và hàn gắn nó. Đó không hẳn là nói dối, vì những người trong Cục quả có tin rằng những bộ gen lành lặn sẽ giải quyết được một số vấn đề nhất định, rằng nếu chúng tôi hòa nhập vào dân cư bình thường và truyền lại gen cho những thế hệ sau, thế giới sẽ trở thành một nơi tốt đẹp hơn. Nhưng họ đâu có cần cả một đạo quân pergent hành quân ra khỏi thành phố chúng tôi để chiến đấu vì công lý và giải cứu mọi người như bà Edith đề nghị. Tôi tự hỏi liệu Edith Prior có tin những gì bà ấy nói không, hay bà ấy cũng nói chỉ vì buộc phải nói mà thôi.
Có một bức hình của bà ấy ở trang kế, môi mím lại cương nghị, những lọn tóc nâu xòa xuống mặt. Chắc hẳn bà ấy đã nhìn thấy điều gì đó khủng khiếp tới nỗi phải tình nguyện được tẩy não và làm lại cả cuộc đời.
“Anh biết tại sao bà ấy lại tham gia không?”
Anh Caleb lắc đầu. “Những ghi chép cho thấy – dù rất mơ hồ – rằng người ta tham gia cuộc thí nghiệm để gia đình thoát khỏi cảnh nghèo túng – gia đình của những chủ thể được cấp một khoản trợ cấp hàng tháng, trong suốt mười năm sau. Nhưng rõ ràng đó không phải là động lực của bà Edith, vì bà ấy làm việc cho Cục. Anh ngờ rằng có điều gì đó đau buồn lắm đã xảy ra với bà ấy, điều gì đó mà bà ấy quyết tâm phải quên đi.”
Tôi cau mày nhìn tấm hình của bà ấy. Tôi không tưởng tượng được cái loại nghèo khổ nào lại xui được một người phải quên đi chính bản thân mình và cả những người xung quanh để gia đình họ nhận được trợ cấp hàng tháng.
Có thể tôi đã sống nhờ vào bánh mì và rau trái của phái Abnegation gần hết cuộc đời, không có gì dư dả, nhưng tôi chưa bao giờ tuyệt vọng như thế. Hoàn cảnh của họ chắc phải tệ hơn rất nhiều so với bất cứ thứ gì tôi từng thấy trong thành phố.
Tôi cũng không tưởng tượng ra tại sao bà Edith lại tuyệt vọng đến thế. Hay có lẽ bà ấy không có ai để nhớ nhung cũng không chừng.
“Anh quan tâm hơn đến tiền lệ pháp lý của việc một người thỏa thuận đồng ý thay cho con cháu mình,” anh Caleb nói. “Anh nghĩ đó là một phép loại suy khi thỏa thuận thay cho một người dưới mười tám tuổi, nhưng nó có vẻ hơi kỳ cục.”
“Em đoán chúng ta đều quyết định số phận của con cái bằng cách ra quyết định cho chính cuộc đời mình,”
tôi áng chừng. “Liệu chúng ta có vẫn chọn lựa phái đã chọn nếu như mẹ và ba không chọn Abnegation không?”
Tôi nhún vai. “Em không biết nữa. Biết đâu chúng ta đã không cảm thấy ngột ngạt đến vậy. Biết đâu chúng ta lại là con người khác.”
Ý nghĩ đó bò vào tâm trí tôi như một con vật da trơn –
Biết đâu chúng ta lại trở thành những người tốt hơn. Những người không phản bội em gái của chính mình.
Tôi chú mục vào cái bàn trước mặt. Mấy phút vừa rồi thật dễ dàng giả vờ rằng Caleb và tôi lại là anh trai và em gái. Nhưng một người chỉ có thể giữ không cho thực tại – và cơn giận – đến gần chỉ trong một thời gian rất ngắn ngủi trước khi sự thật quay lại mà thôi. Khi tôi ngước mắt lên nhìn vào mắt anh ấy, tôi nghĩ tới việc từng nhìn anh ấy y như thế này, lúc còn là tù nhân trong tổng hành dinh Erudite. Tôi nghĩ tới việc đã quá mệt mỏi để cãi nhau với anh, hay nghe anh ấy xin lỗi; quá mệt mỏi để quan tâm tới việc anh trai tôi đã bỏ rơi tôi.
Tôi hỏi cộc lốc, “Bà Edith đã gia nhập vào phái Erudite, phải không? Dù bà ấy lấy một cái tên Abnegation?”
“Đúng vậy!” Anh có vẻ không nhận ra giọng điệu của tôi. “Thật ra thì hầu hết ông bà của tụi mình đều ở Erudite.
Cũng có một vài người nằm ngoài Abnegation, một hay hai Candor, nhưng đường dây xuyên suốt khá nhất quán.”
Tôi lạnh người, như sắp sửa bị vỡ vụn và giậm nát.
“Vậy tôi cho là anh có thể dùng lý do này để biện hộ trong cái tâm địa méo mó của anh cho những thứ anh đã làm,” tôi bình tĩnh nói. “Cho việc gia nhập Erudite, cho lòng trung thành của anh với nó. Ý tôi là nếu anh vốn đã thuộc về nó ngay từ đầu thì ‘môn phái hơn máu mủ’ có thể chấp nhận mà tin tưởng được, đúng không?”
“Tris…” anh nói và ánh mắt anh van nài tôi hãy thông cảm, nhưng tôi không thông cảm. Sẽ không.
Tôi đứng dậy. “Giờ tôi đã biết về bà Edith và anh đã biết về mẹ. Tốt. Dừng tại đây được rồi.”
Đôi lúc khi nhìn anh ấy, tôi thấy nhói lên lòng thông cảm, và thỉnh thoảng tôi những muốn siết chặt hai tay quanh cổ anh ấy cho rồi. Nhưng ngay bây giờ tôi chỉ muốn thoát khỏi cái cảnh này và giả vờ như chuyện này chưa hề xảy ra. Tôi ra khỏi phòng lưu trữ, và giày tôi kêu ken két trên sàn gạch khi tôi chạy về khách sạn. Tôi cứ chạy mãi đến khi ngửi thấy mùi cam, rồi tôi dừng lại.
Tobias đang đứng trong hành lang ngay bên ngoài phòng ngủ chung. Tôi nín thở, và có thể cảm được mạch đập trên cả đầu ngón tay tôi; tôi cảm thấy choáng ngợp, tràn ngập mất mát, kinh ngạc, tức giận và nỗi mong chờ.
“Tris,” Tobias gọi, lông mày anh nhíu lại quan tâm, “Em không sao đó chứ?”
Tôi lắc đầu, vẫn vật lộn lấy hơi và xô anh vào tường bằng người tôi, môi tôi tìm kiếm môi anh. Trong một thoáng, anh cố đẩy tôi ra, nhưng rồi chắc anh quyết định không quan tâm liệu tôi có ổn không, không quan tâm liệu anh có ổn không, không thèm quan tâm nữa. Chúng tôi không được ở một mình với nhau cả mấy ngày trời rồi.
Hàng tuần lễ. Hàng năm trời.
Ngón tay anh lùa vào tóc tôi, còn tôi thì bám vào tay anh để đứng vững khi chúng tôi ép vào nhau như hai người đang bị dồn vào thế bí. Anh ấy mạnh mẽ hơn bất cứ người nào tôi biết, và ấm áp hơn bất cứ người nào mà tôi quen; anh là điều bí mật mà tôi cất giữ bấy lâu, và sẽ cất giữ trong suốt phần đời còn lại.
Anh khuỵu xuống và hôn lên cổ tôi, nồng nhiệt, và tay anh vuốt ve tôi, siết chặt quanh hông tôi. Tôi cong ngón tay tròng vào con đĩa quần anh, mắt nhắm nghiền. Vào giây phút đó tôi biết chính xác mình muốn gì; tôi muốn lột hết những lớp áo quần giữa chúng tôi, trút bỏ hết những gì ngăn cách chúng tôi, quá khứ, hiện tại và tương lai.
Tôi nghe thấy tiếng bước chân và tiếng cười nói phía cuối hành lang, và chúng tôi tách ra. Ai đó – có lẽ là Uriah – huýt sáo, nhưng tôi hầu như chẳng nghe thấy qua tiếng mạch đập thình thịch trong tai mình.
Ánh mắt của Tobias gặp ánh mắt tôi, và nó giống như lần đầu tôi thật sự nhìn anh trong giai đoạn nhập môn, sau bối cảnh kinh hoàng của mình; chúng tôi nhìn nhau quá lâu, quá chăm chú. “Im nào,” tôi bảo Uriah mà không buồn nhìn đi chỗ khác.
Uriah và Christina đi vào phòng chung, Tobias và tôi đi theo, như không có gì xảy ra.