Chương 23 TOBIAS
ĐÊM ĐÓ KHI đầu đặt xuống gối, trĩu nặng những suy nghĩ, tôi nghe thấy tiếng gì như giấy bị vò nhàu phía dưới.
Một mảnh giấy đặt dưới gối tôi.
T –
Gặp tôi bên ngoài cửa khách sạn lúc mười một giờ.
Tôi cần nói chuyện với anh.
- Nita Tôi nhìn qua giường Tris. Em đang nằm ngửa, và có một sợi tóc rớt trên mũi và miệng em, rung rung theo từng hơi thở. Tôi không muốn đánh thức em, nhưng tôi cảm thấy lạ, đi gặp một cô gái khác vào lúc nửa đêm mà không nói với em. Nhất là bây giờ, khi chúng tôi đều đang nỗ lực để thành thật với nhau.
Tôi coi đồng hồ. Mười một giờ kém mười.
Nita chỉ là một người bạn. Mày có thể nói với Tris vào ngày mai. Có thể là chuyện khẩn cấp.
Tôi đạp mền ra và xỏ chân vô giày – những ngày này tôi đi ngủ với đầy đủ áo xống. Tôi đi ngang qua giường của Peter, rồi Uriah. Miệng một cái lọ bẹt đựng rượu lòi ra dưới gối của Uriah. Tôi kẹp nó giữa mấy ngón tay và mang nó ra cửa, tôi nhét nó xuống gối của một trong mấy cái giường trống. Tôi đã không chăm sóc cậu ta đàng hoàng như đã hứa với Zeke.
Khi đã ra ngoài hành lang rồi, tôi cột dây giày lại và vuốt tóc cho gọn gàng. Tôi đã thôi không cắt nó theo kiểu Abnegation khi tôi muốn những Dauntless xem tôi là một thủ lĩnh tiềm năng, nhưng tôi nhớ trình tự kiểu cũ, tiếng rì rì của cái tông đơ và những cử động cẩn thận của hai tay tôi, biết nhiều hơn bằng cách sờ so với cách nhìn.
Hồi tôi còn nhỏ, ba tôi thường làm việc đó, trong hành lang trên tầng gác của ngôi nhà Abnegation của chúng tôi. Ông ấy lúc nào cũng bất cẩn với lưỡi dao, và làm xước gáy tôi hay cắt trúng tai tôi. Nhưng ông ấy không bao giờ phàn nàn về việc phải cắt tóc cho tôi. Cũng được, tôi đoán vậy.
Nita đang nhịp nhịp chân. Lần này cô ta mặc một cái áo sơ mi ngắn tay màu trắng, tóc cột ra sau. Cô ta mỉm cười, nhưng nụ cười không lan tới ánh mắt của cô ta.
“Cô có vẻ lo lắng,” tôi lên tiếng.
“Đó là vì tôi lo thật,” cô ta trả lời. “Đi thôi, có một chỗ này tôi luôn muốn chỉ cho anh coi.”
Cô ta dẫn tôi đi qua những hành lang lờ mờ, trống trơn, trừ những lính gác thỉnh thoảng xuất hiện. Hình như ai cũng biết Nita – họ vẫy tay, hoặc cười với cô ta. Cô ta nhét hai tay vào túi áo, thận trọng hướng ánh mắt tránh ánh mắt tôi mỗi lần chúng tôi tình cờ nhìn nhau.
Chúng tôi đi qua một cánh cửa không có bộ cảm biến an ninh để đóng mở. Căn phòng đằng sau nó là một phòng lớn hình tròn với một chùm đèn đánh dấu trung tâm phòng với những mảnh kính lấp lánh. Sàn nhà được lát gỗ bóng loáng, tối màu, và tường phòng được bao phủ bởi những tấm bảng bằng đồng, lập lòe sáng nơi ánh đèn chiếu tới. Có những dòng chữ viết trên những tấm pa-nô bằng đồng đó, cả tá những cái tên.
Nita đứng dưới chùm đèn và dang rộng hai tay, như để ôm cả căn phòng bằng động tác đó.
“Đây là những cây phả hệ của Chicago,” cô ta nói. “Cây phả hệ của anh.”
Tôi bước tới gần một bức tường và đọc lướt qua những cái tên, tìm kiếm một cái tên quen thuộc. Cuối cùng tôi cũng tìm thấy một cái: Uriah Pedra và Ezekiel Pedra.
Cạnh mỗi cái tên là một chữ “DD” nhỏ, và có một cái chấm nhỏ cạnh tên Uriah, và nhìn nó có vẻ mới được khắc lên. Đánh dấu cậu ta là pergent, có lẽ thế.
“Cô biết tên tôi nằm đâu không?”
Cô ta băng qua phòng và chạm lên một tấm pa-nô. “Các thế hệ xếp theo mẫu hệ. Đó là lý do lưu trữ của Jeanine nói Tris là ‘thế hệ thứ hai’ – vì mẹ của cô ấy đến từ ngoài thành phố. Tôi không chắc nhờ đâu mà Jeanine biết được điều đó, nhưng tôi đoán chúng ta sẽ không bao giờ biết được nữa.”
Tôi lo lắng tiến lại gần tấm bảng có tên tôi, dù tôi không chắc có gì phải sợ khi nhìn tên mình và ba mẹ mình khắc lên đồng. Tôi nhìn thấy một đường kẻ dọc nối giữa Kristin Johnson với Evelyn Johnson, và một đường ngang nối Evelyn Johnson với Marcus Eaton. Dưới hai cái tên đó chỉ có một cái tên: Tobias Eaton. Những chữ cái nhỏ xíu bên cạnh tên tôi là “AD,” và ở đó cũng có một cái chấm, mặc dù bây giờ tôi biết thật ra tôi không phải là pergent.
“Chữ cái đầu tiên là phái gốc của anh,” cô ta giải thích, “và chữ cái thứ hai là phái anh chọn lựa. Họ nghĩ theo dõi các phái sẽ giúp họ truy ra đường đi của gen.”
Chữ của mẹ tôi: “EAV.” Chữ “V” thay cho “Vô môn phái,” tôi đồ là thế.
Chữ của ba tôi: “AA,” với một dấu chấm.
Tôi chạm vào đường kẻ nối tôi với họ, và đường nối mẹ Evelyn với ba mẹ của bà ấy, và đường nối những người đó với ba mẹ họ nữa, ngược lại suốt tám thế hệ, tính cả tôi.
Đây là một bản đồ về điều tôi đã luôn biết, rằng tôi gắn liền với họ, mãi mãi gắn liền với sự thừa kế vô nghĩa này dù tôi có chạy trốn xa đến đâu.
“Dù tôi rất biết ơn cô đã cho tôi xem cái này,” tôi nói, cảm thấy buồn và mệt mỏi, “tôi vẫn không chắc tại sao lại phải là vào nửa đêm mới được.”
“Tôi nghĩ có lẽ anh muốn xem nó. Và tôi có điều này muốn bàn với anh.”
“Thêm nhiều cam đoan rằng những giới hạn của tôi không định hình được con người tôi ư?” Tôi lắc đầu.
“Không, cảm ơn. Tôi nghe đủ rồi.”
“Không,” cô ta đáp. “Nhưng tôi mừng khi nghe anh nói vậy.”
Cô ta dựa lên những tấm pa-nô, vai che mất cái tên Evelyn. Tôi lùi lại, không muốn đứng quá gần cô ta đến mức nhìn thấy được cả cái vòng tròn màu nâu nhạt quanh con ngươi của cô ta.
“Cuộc nói chuyện hôm trước của tôi với anh về việc hỏng gen… thật ra nó là một bài kiểm tra. Tôi muốn xem anh phản ứng thế nào với những gì tôi nói về bộ gen bị hỏng, để tôi biết tôi có tin tưởng anh được hay không,” cô ta nói. “Nếu anh chấp nhận những gì tôi nói về các giới hạn, câu trả lời sẽ là không.” Cô ta trượt tới gần tôi hơn một chút, thành ra vai cô ta che nốt tên Marcus. “Chuyện là tôi không thật sự đồng tình với việc bị phân loại là ‘hỏng hóc. ’”
Tôi nghĩ tới việc cô ta đã phun ra những giải thích về hình xăm hình mảnh kính vỡ sau lưng như thể nó là một loại chất độc.
Tim tôi bắt đầu đập nhanh hơn, đến mức tôi nghe được cả mạch đập trong cổ họng tôi. Một mùi cay đắng đã thay thế cho sự hài hước trong giọng nói của cô ta, và đôi mắt cô ta đã mất đi sự ấm áp. Tôi sợ cô ta, sợ những gì cô ta nói, đồng thời cũng xúc động vì nó, vì điều đó có nghĩa là tôi không phải chấp nhận rằng tôi bé nhỏ hơn so với những gì tôi đã từng tin tưởng.
“Tôi cho là anh cũng không đồng tình với nó nốt,” cô ta nói.
“Không. Tôi không.”
“Có rất nhiều bí mật ở nơi này,” cô ta nói. “Một trong số đó là với họ, một GH có thể hy sinh. Một bí mật khác là có một số người sẽ không chịu ngồi yên và chấp nhận điều đó.”
“Cô nói ‘có thể hy sinh’ là ý gì?” Tôi thắc mắc.
“Những tội ác họ đã gây ra với những người như chúng ta rất nghiêm trọng,” Nita đáp. “Và bị che giấu. Tôi có thể cho anh xem bằng chứng, nhưng chuyện đó phải để sau.
Còn bây giờ, điều tôi có thể nói với anh là chúng tôi đang chống lại Cục, vì những lý do chính đáng, và chúng tôi muốn anh về phe chúng tôi.”
Tôi nheo mắt. “Tại sao? Chính xác thì các người muốn gì ở tôi?”
“Ngay bây giờ, tôi muốn đề nghị trao cho anh một cơ hội để nhìn xem thế giới trông như thế nào bên ngoài đặc khu này.”
“Và để đổi lại…?”
“Sự bảo vệ của anh,” cô ta trả lời. “Tôi sắp đến một nơi nguy hiểm, và tôi không thể nói cho ai từ Cục biết. Anh là một người ngoài, nghĩa là sẽ an toàn cho tôi hơn nếu tin tưởng anh, và tôi biết anh biết cách tự bảo vệ mình. Và nếu anh đi với tôi, tôi sẽ chỉ cho anh xem bằng chứng mà anh muốn thấy.”
Cô ta chạm lên tim, nhẹ nhàng, như đang thề. Sự nghi ngờ của tôi rất lớn, nhưng sự tò mò còn lớn hơn. Không khó để tôi tin Cục có làm đủ thứ chuyện tệ lậu, bởi vì mọi chính quyền tôi biết đều đã làm những chuyện tệ lậu, ngay cả chính thể đầu sỏ của phái Abnegation, nơi ba tôi là người đứng đầu. Và thậm chí ngoài sự nghi ngờ hợp lý đó ra, tôi còn nung nấu trong mình hy vọng rằng tôi không phải là kẻ bị hỏng hóc, rằng tôi có giá trị hơn những bộ gen lành mà tôi truyền lại cho những đứa con có thể tôi sẽ có.
Nên tôi quyết định sẽ thuận theo chuyện này. Trong lúc này.
“Được thôi,” tôi nói.
“Đầu tiên,” cô ta nói, “trước khi tôi cho anh xem bất cứ thứ gì, anh phải chấp nhận rằng anh sẽ không được kể với ai – kể cả Tris – về những điều anh sắp sửa nhìn thấy. Anh có đồng ý không?”
“Cô ấy rất đáng tin, cô biết mà.” Tôi đã hứa với Tris tôi sẽ không giữ bí mật với cô ấy nữa. Tôi không nên đặt mình vào hoàn cảnh bắt buộc phải tái phạm lần nữa. “Tại sao tôi không được kể cho cô ấy?”
“Tôi không nói cô ấy không đáng tin. Chỉ là cô ấy không có những kỹ năng chúng tôi cần, và chúng tôi không muốn đặt ai vào rủi ro nếu không buộc phải như thế. Anh thấy đó, Cục không muốn chúng tôi có tổ chức quy củ. Nếu chúng ta tin chúng ta không ‘bị hỏng, ’ thì có nghĩa chúng ta đang nói là mọi thứ họ đang làm – những cuộc thí nghiệm, những cải biến gen, tất cả – là một sự phí phạm thời gian. Và không ai lại muốn nghe công việc cả đời của họ lại là một sự giả mạo cả.”
Tôi biết tất cả những điều đó – nó giống như phát hiện ra tất cả môn phái chỉ là một hệ thống nhân tạo, được chế ra bởi những nhà khoa học muốn kiểm soát chúng tôi càng lâu càng tốt.
Cô ta rời khỏi tường, và rồi cô ta nói điều duy nhất có thể nói để thuyết phục tôi đồng ý:
“Nếu anh nói với cô ấy, anh sẽ tước đi của cô ấy cơ hội tôi đang trao cho anh. Anh sẽ buộc cô ấy trở thành kẻ đồng mưu. Bằng cách giữ bí mật chuyện này, anh sẽ bảo vệ được cô ấy.”
Tôi lướt ngón tay trên tên tôi, được khắc vào trong tấm pa-nô bằng kim loại, Tobias Eaton. Đây là gen của tôi, đây là đống lộn xộn của tôi. Tôi không muốn kéo Tris vào chuyện này.
“Thôi được rồi,” tôi nói. “Hãy cho tôi xem đi.”
Tôi nhìn ánh đèn pin nhảy lên nhảy xuống theo mỗi bước chân của Nita. Chúng tôi vừa mới lấy một cái túi khỏi một buồng chứa giẻ lau trên hành lang – cô ta đã chuẩn bị sẵn sàng cho việc này. Cô ta dẫn tôi đi sâu vào những hành lang ngầm dưới mặt đất của đặc khu, ngang qua nơi những GH tụ tập, đến một hành lang lớn không có điện chạy qua. Tới một chỗ, cô ta cúi rạp người xuống và dò dẫm trên mặt đất tới khi tìm được một cái then cửa. Cô ta đưa đèn pin cho tôi và kéo cái then, mở ra một cái cửa phía trên sàn gạch.
“Đây là một đường hầm cứu nạn,” cô ta nói. “Họ đào nó khi mới tới đây để lúc nào cũng có một lối thoát hiểm trong trường hợp khẩn cấp.”
Nita lấy từ trong túi ra một đoạn ống màu đen vặn cái đầu ra. Nó phun ra những tia sáng đỏ rực trên da cô ta.
Cô ta ném nó qua cửa và nó rơi xuống vài mét, kịp chiếu một tia sáng vào mắt tôi. Cô ta ngồi ngay thành hố, ba lô đeo chặt trên vai, và nhảy xuống.
Tôi biết khoảng cách xuống dưới ngắn thôi, nhưng nó dường như xa hơn thế khi không gian mở rộng ra bên dưới tôi. Tôi ngồi xuống, giày tôi chiếu bóng đen thui lên những tia sáng đỏ, rồi tôi nhào tới trước.
“Thú vị thật,” Nita nói khi tôi tiếp đất. Tôi nhặt cái đèn pin lên, và cô ta chĩa cây gậy phát sáng về phía trước khi chúng tôi đi theo đường hầm, nó rộng vừa đủ cho hai người chúng tôi đi sát nhau, và cao vừa sít sao đủ cho tôi thẳng lưng. Có mùi gì đó nồng nặc và hôi hám, như mùi đất và không khí chết chóc. “Tôi quên mất anh sợ độ cao.”
“Chà, có nhiều thứ khác tôi đâu có sợ đâu,” tôi đáp.
“Không cần phải xù lông thế!” Nita mỉm cười. “Thật ra tôi đã luôn muốn hỏi anh chuyện đó.”
Tôi đạp trúng một vũng nước, đế giày kêu lạo xạo trên nền đất của đường hầm.
“Nỗi sợ thứ ba của anh,” cô ta nói. “Phải bắn người phụ nữ đó. Đó là ai vậy?”
Ánh sáng của cây gậy phụt tắt, và cái đèn pin tôi cầm trở thành thứ duy nhất dẫn đường cho chúng tôi đi trong đường hầm. Tôi nhích tay ra để nới rộng vùng không gian ở giữa hai chúng tôi, không muốn chạm phải da cô ta trong bóng tối.
“Người đó không cụ thể là ai,” tôi trả lời. “Nỗi sợ là phải bắn người đó.”
“Anh sợ bắn người ta ư?”
“Không,” tôi nói. “Tôi sợ khả năng giết người đáng gờm của tôi.”
Cô ta im lặng, và tôi cũng vậy. Đó là lần đầu tiên tôi nói thành tiếng những lời đó, và giờ tôi nghe chúng mới lạ lùng làm sao. Có bao nhiêu người con trai sợ có một con quái vật trong người họ? Người ta đáng lý ra phải sợ hãi những người khác, không phải chính mình. Và người ta đáng lý ra phải ước mong được giống cha mình, không phải rùng mình khi nghĩ tới việc đó.
“Tôi đã luôn tự hỏi sẽ có gì trong bối cảnh kinh hoàng của tôi.” Cô ta nói với giọng thì thầm, như một lời cầu nguyện. “Đôi lúc tôi có cảm giác có quá nhiều thứ để sợ, nhưng có lúc tôi lại cảm thấy chẳng còn gì nhiều để mà sợ hãi nữa.”
Tôi gật đầu, dù cô ta không nhìn thấy tôi, và chúng tôi cứ tiếp tục đi, ánh đèn pin nhảy lên nhảy xuống, giày kêu lạo xạo, không khí ẩm mốc xộc vào chúng tôi từ bất kể cái quái gì ở đầu bên kia.
Sau hai mươi phút đi bộ, chúng tôi cua qua một góc rẽ và tôi ngửi thấy mùi gió mát lành, lạnh đủ khiến tôi rùng mình. Tôi tắt đèn pin, và ánh trăng cuối đường hầm soi cho chúng tôi tới lối ra.
Đường hầm dẫn chúng tôi ra chỗ nào đó trong khu đất hoang mà chúng tôi đã lái ngang qua để đến đặc khu, nằm giữa những ngôi nhà xiêu vẹo và những cây cối um tùm phá vỉa hè mà mọc lên. Đậu cách đó vài mét là một cái xe tải cũ, thùng xe phủ những tấm vải bạt rách bươm, xơ xác.
Nita đá đá một cái lốp xe để kiểm tra, rồi leo lên ghế tài xế.
Chìa khóa đã lủng lẳng sẵn trong ổ khóa.
“Xe tải của ai đây?” Tôi vừa hỏi vừa trèo vô ghế hành khách.
“Nó là của những người chúng ta sắp gặp. Tôi đã yêu cầu họ đậu ở đây,” cô ta đáp.
“Và họ là ai?”
“Bạn của tôi.”
Tôi không biết cô ta tìm đường trong cái mê cung đường phố trước mặt chúng tôi như thế nào, nhưng cô ta làm được thật, luồn lách qua đám rễ cây và những cột điện đổ kềnh, nhá đèn pha vào những con vật chạy vụt qua khóe mắt tôi.
Một con thú chân dài, có thân hình trụi lủi màu nâu, nhẩn nha băng qua đường trước mặt chúng tôi, cao gần bằng cái đèn pha. Nita đạp thắng để không tông trúng nó. Tai nó vểnh lên, và đôi mắt đen tròn xoe của nó quan sát chúng tôi với sự tò mò thận trọng, như một đứa con nít.
“Đẹp đấy chứ, phải không?” Cô ta nói. “Trước khi đến đây tôi chưa thấy hươu bao giờ cả.”
Tôi gật đầu. Nó thanh thoát, ngập ngừng và nhút nhát.
Nita nhấn còi bằng ngón tay, và con hươu chạy mất.
Chúng tôi lại tiến lên, rồi đến một con đường rộng rãi bắt ngang qua những thanh ray xe lửa mà tôi từng đi theo để đến đặc khu. Tôi nhìn thấy những ánh đèn phía xa, điểm sáng duy nhất trong khu đất hoang tối mù này.
Và chúng tôi đi về hướng Đông Bắc, rời xa nó.
Rất lâu sau tôi mới lại nhìn thấy ánh đèn điện. Đó là lúc đến một con đường hẹp vá chằng vá đụp. Mấy cái bóng đèn lủng lẳng trên một sợi dây thừng treo dọc theo những cái cột đèn.
“Chúng ta dừng ở đây.” Nita thình lình bẻ vô-lăng, lái vào một con hẻm giữa hai tòa nhà bằng gạch. Cô ta rút chìa khóa ra khỏi ổ và nhìn tôi. “Kiểm tra trong hộp đựng găng tay đi. Tôi đã bảo họ chuẩn bị vũ khí cho chúng ta.”
Tôi mở cái hộc trước mặt tôi. Nằm trên mấy tờ giấy gói cũ là hai con dao.
“Anh xài dao được không?” Cô ta hỏi.
Phái Dauntless dạy những kẻ nhập môn cách phóng dao thậm chí từ trước những thay đổi mà lão Max đem đến cho kỳ nhập môn ngay trước lúc tôi nhập phái. Tôi chưa từng thích nó, vì dường như nó khuyến khích năng khiếu kịch nghệ của Dauntless hơn là một kỹ năng hữu dụng.
“Tạm ổn,” tôi trả lời với nụ cười mỉa mai. “Dù vậy, tôi chưa bao giờ nghĩ kỹ năng đó sẽ thật sự có ích.”
“Tôi đoán sau cùng thì phái Dauntless cũng giỏi để làm việc gì đó mà… Số Bốn, ” cô ta khẽ mỉm cười. Cô ta lấy con dao lớn, tôi cầm con nhỏ.
Tôi bồn chồn, cứ xoay xoay cán dao trong tay trong lúc chúng tôi bước dọc con hẻm. Trên đầu tôi, những ô cửa sổ nhấp nháy một thứ ánh sáng khác – ánh lửa, từ nến hay đèn lồng gì đó. Có một lúc, khi tôi liếc nhìn lên, tôi thấy một mái tóc xõa và một hốc mắt đen ngòm đang trừng trừng nhìn lại tôi.
“Có người sống ở đây,” tôi nói.
“Đây là khu vực sát vùng giáp ranh,” Nita nói. “Mất hai giờ lái xe từ Milwaukee, một khu đô thị nằm ở hướng Bắc.
Đúng, có người sống ở đây. Dạo này người ta không dám mạo hiểm đi quá xa khỏi các thành phố, dù họ có muốn sống ngoài tầm ảnh hưởng của chính phủ đi nữa, như những người ở đây.”
“Tại sao họ lại muốn sống ngoài tầm ảnh hưởng của chính phủ?” Tôi biết sống tách biệt khỏi chính phủ là như thế nào, bằng cách nhìn những người vô môn phái. Họ lúc nào cũng đói khát, lúc nào cũng lạnh vào mùa đông và nóng vào mùa hè, lúc nào cũng phải vật lộn để sống sót.
Nó không phải là một cuộc sống dễ dàng lựa chọn – anh phải có lý do thích đáng cho nó.
“Vì họ bị hỏng gen,” Nita nói, liếc tôi. “Những người bị hỏng gen về cơ bản – về mặt pháp lý – bình đẳng với những người gen lành, nhưng chỉ là trên giấy tờ thôi. Trên thực tế họ nghèo hơn, dễ bị buộc tội hơn, khó được thuê làm những công việc tốt hơn… vân vân, nó là một vấn đề, và đã tồn tại từ thời Cuộc Thuần Chiến, hơn một thế kỷ trước. Với những người sống ở vùng giáp ranh, chọn hoàn toàn không tham gia vào xã hội hấp dẫn hơn nhiều so với việc cố gắng giải quyết vấn đề từ bên trong, như tôi đang định làm đây.”
Tôi nghĩ đến hình mảnh kính vỡ xăm trên người cô ta.
Tôi tự hỏi cô ta xăm nó hồi nào – tôi tự hỏi cái gì khiến cô ta có ánh mắt dữ tợn như vậy, cái gì khiến những lời cô ta nói lại kịch tính như vậy, cái gì đã biến cô ta thành một nhà cách mạng như vậy.
“Cô tính làm điều đó như thế nào?”
Cô ta chỉnh quai hàm và đáp, “Bằng cách tước đi một ít sức mạnh của Cục.”
Con hẻm dẫn ra một con đường rộng. Vài người lảng vảng sát vệ đường, nhưng có những người đi ngay giữa lòng đường, trong những nhóm người chân nam đá chân chiêu, tay lủng lẳng cầm chai. Tất cả những người tôi nhìn thấy đều trẻ măng – không có nhiều người già ở vùng ráp ranh, tôi đoán thế.
Tôi nghe tiếng la hét phía trước, và tiếng kính bể nát trên lề đường. Một đám đông đang vây vòng tròn quanh hai hình thù đang đấm đá nhau túi bụi.
Tôi chực đi tới đó, nhưng Nita chụp tay tôi và kéo tôi về phía một ngôi nhà.
“Không phải lúc làm anh hùng đâu,” cô ta nói.
Chúng tôi đến trước cửa một ngôi nhà ở góc đường.
Một người to lớn đang đứng sau nó, xoay xoay một con dao trong tay. Khi chúng tôi bước lên bậc thang, hắn ta thôi xoay dao và quăng nó qua tay bên kia, bàn tay chằng chịt sẹo.
Cỡ người của hắn ta, sự khéo léo với vũ khí, bộ dạng sẹo sọ và bụi bặm – tất cả lý ra phải hăm dọa được tôi.
Nhưng đôi mắt của hắn ta là đôi mắt của con hưu kia, tròn to, thận trọng và tò mò.
“Chúng tôi đến gặp Rafi,” cô ta lên tiếng. “Chúng tôi đến từ đặc khu.”
“Các người có thể vào, nhưng dao thì phải để lại đây,”
người đàn ông đó nói. Giọng nói của hắn ta cao hơn và nhẹ nhàng hơn tôi mong đợi. Có lẽ hắn ta có thể là một quý ông nếu đây là một nơi khác. Còn như thế này thì tôi thấy hắn ta không hề lịch thiệp, và thậm chí còn không biết từ đó có nghĩa là gì nữa kìa.
Dù bản thân tôi đã liệt bất kì sự nhẹ nhàng nào vào hạng vô dụng rồi, tôi vẫn phát hiện ra mình đang suy nghĩ rằng hẳn đã có điều gì đó rất quan trọng đã mất đi mới khiến người đàn ông này buộc phải chối bỏ bản chất của mình.
“Không đời nào,” Nita trả lời.
“Nita, phải cô đó không?” Một giọng nói từ trong vang ra. Rất truyền cảm và du dương. Người đàn ông sở hữu giọng nói đó thấp người, với một nụ cười toe toét. Ông ta bước ra cửa. “Tôi chưa nói với anh cứ để họ vô sao? Mời vào, mời vào.”
“Chào, Rafi,” cô nói, rõ ràng là nhẹ cả người. “Số Bốn, đây là Rafi. Ông ấy là một yếu nhân của vùng giáp ranh đấy.”
“Hân hạnh được gặp anh,” Rafi nói và phẩy ta ra hiệu cho chúng tôi đi theo ông ta.
Bên trong là một căn phòng thoáng rộng được thắp sáng bằng nhiều hàng nến và đèn lồng. Những thứ đồ nội thất bằng gỗ bày khắp mọi nơi, tất cả bàn đều trống trơn, trừ một cái.
Có một người phụ nữ ngồi ở cuối căn phòng, và Rafi ngồi phịch xuống cái ghế kế bên bà ta. Dù họ nhìn không giống nhau – bà ta có mái tóc màu đỏ và khổ người to đậm; còn ông ta thì tóc đen và người thì mỏng như lá lúa – hai người họ có một ánh mắt giống nhau, như hai hòn đá được cùng một cái đục trổ ra.
“Đặt vũ khí lên bàn,” Rafi nói.
Lần này Nita tuân lệnh, đặt con dao lên rìa cái bàn ngay trước mặt cô ta. Cô ta ngồi xuống. Tôi làm theo. Đối diện chúng tôi, người đàn bà bỏ ra một khẩu súng.
“Ai đây?” Bà ta hỏi, hất đầu về phía tôi.
“Đây là đồng minh của tôi,” Nita đáp. “Số Bốn.”
“‘Số Bốn’ là cái loại tên gì vậy?” Bà ta hỏi mà không kèm theo sự chế nhạo, cái cách mà người ta thường có khi hỏi tôi câu đó.
“Loại tên mà bà có bên trong một thành phố thí nghiệm,” Nita nói. “Vì chỉ có bốn nỗi kinh hoàng.”
Tôi chợt nảy ra ý nghĩ rằng cô ta giới thiệu tôi bằng cái tên đó chỉ để có cơ hội tiết lộ gốc gác của tôi. Điều đó có cho cô ta một lợi thế đòn bẩy nào không? Điều đó có giúp tôi đáng tin hơn trong mắt những người này không?
“Thú vị đấy.” Người đàn bà nhịp nhịp ngón tay trỏ lên bàn. “Ái chà, Số Bốn, tên tôi là Mary.”
“Mari và Rafi đứng đầu chi nhánh vùng Trung Tây của một nhóm nổi dậy GH,” Nita giới thiệu.
“Gọi nó là ‘nhóm’ khiến chúng tôi nghe như mấy bà già ưa tụ tập đánh bài ấy,” Rafi nói ngọt xớt. “Chúng tôi giống quân khởi nghĩa hơn. Phạm vi của chúng tôi trải dài khắp đất nước – mỗi khu đô thị đều có một nhóm, và có những người trông coi cho mỗi khu vực Trung Tây, miền Nam và miền Đông.”
“Có miền Tây không?” Tôi thắc mắc.
“Hết rồi,” Nita lặng lẽ nói. “Địa hình ở đó quá khó để xác định phương hướng và những thành phố quá tản mác nên không thể sinh sống ở đó được sau chiến tranh. Hiện giờ chỗ đó là đất hoang.”
“Vậy là người ta nói đúng,” Mary nói, mắt bà ta bắt ánh sáng như những mảnh kính khi bà ta nhìn tôi. “Những người trong các thành phố thí nghiệm đúng là không biết có cái gì bên ngoài.”
“Dĩ nhiên là đúng rồi, sao họ biết được chứ?” Nita nói.
Sự mệt mỏi, một sự nặng trĩu đằng sau hai con mắt đột nhiên xâm chiếm tôi. Tôi đã tham gia vào quá nhiều cuộc nổi loạn trong cuộc đời ngắn ngủi của tôi rồi. Những người vô môn phái, rồi giờ tới cái hội GH này, rõ là thế.
“Không phải muốn dừng cuộc trò chuyện vui vẻ lại đâu,” Mary nói, “nhưng chúng ta không nên ở đây lâu.
Chúng tôi không thể giữ người ta ở ngoài được lâu trước khi bọn họ đánh hơi khắp xung quanh.”
“Nói phải,” Nita nói. Cô ta nhìn tôi. “Số Bốn, anh có thể đảm bảo sẽ không có gì xảy ra bên ngoài không? Tôi cần phải nói chuyện riêng với Mary và Rafi một lúc.”
Nếu chỉ có mình chúng tôi, tôi sẽ thắc mắc tại sao tôi không thể có mặt ở đây khi cô ta nói chuyện với họ, hoặc tại sao cô ta lại đem tôi vô làm gì khi tôi có thể đứng ngoài canh gác ngay từ đầu. Tôi đoán tôi vẫn chưa thật sự đồng ý giúp cô ta, và cô ta hẳn muốn họ gặp tôi vì một lý do nào đó. Thế là tôi đứng dậy, cầm dao theo, và bước ra cửa nơi lính gác của Rafi đang trông chừng con phố.
Cuộc ẩu đả bên kia đường đã xong xuôi. Một hình người nằm chèo queo trên vỉa hè. Trong một thoáng, tôi nghĩ nó vẫn còn động đậy, nhưng sau đó tôi nhận ra đó là vì có người đang lục túi nó. Nó không phải là một hình người mà là một xác người.
“Chết rồi sao?” tôi hỏi, âm thanh phát ra thì thào như hơi thở.
“Ừa. Nếu không tự bảo vệ được bản thân ở đây thì cậu không trụ nổi qua một đêm đâu.”
“Vậy sao người ta lại đến đây?” Tôi cau mày. “Sao họ không quay lại những thành phố quách cho rồi?”
Hắn ta im lặng một lúc lâu đến mức tôi nghĩ chắc hắn không nghe thấy tôi hỏi. Tôi nhìn tên trộm dốc ngược túi của người chết rồi bỏ lại cái xác, lẻn vào trong một căn nhà gần đó. Cuối cùng, tên lính gác của Rafi cũng lên tiếng:
“Ở đây còn có cơ may là nếu cậu chết, ai đó sẽ quan tâm. Như Rafi, hay một trong những thủ lĩnh,” tên bảo vệ nói. “Trong mấy thành phố kia, nếu cậu bị giết, chắc chắn chẳng ai thèm liếc tới, nhất là khi cậu lại là một GH. Tội trạng ghê gớm nhất mà tôi từng thấy là một GL bị buộc tội vì giết một GH là ‘ngộ sát’. Bố khỉ.”
“Ngộ sát?”
“Có nghĩa là tội được được xem như một tai nạn,” giọng nói dịu dàng, du dương của Rafi cất lên sau lưng tôi. “Hay ít nhất là không nghiêm trọng như tội giết người cấp độ một. Một cách chính thức, dĩ nhiên rồi, tất cả chúng ta được xem là được đối xử như nhau mà, phải không?
Nhưng thực tế thì hiếm hoi được vậy lắm.”
Ông ta đứng cạnh tôi, hai tay khoanh lại. Tôi thấy, khi nhìn ông ta, một vị vua đang đưa mắt nhìn ngắm vương quốc của mình, tin rằng nó đẹp đẽ vô cùng. Tôi nhìn ra đường, nhìn vỉa hè sứt mẻ và cái xác xụi lơ với túi áo túi quần bị lộn trái, và những ô cửa sổ bập bùng ánh lửa, và tôi biết vẻ đẹp ông ta nhìn thấy là sự tự do – tự do được xem là một con người hoàn toàn chứ không phải là một người bị hỏng hóc.
Tôi đã từng nhìn thấy sự tự do đó, một lần, khi mẹ vẫy gọi tôi từ giữa những người vô môn phái, kêu gọi tôi rời xa phái của tôi để trở thành một con người trọn vẹn hơn.
Nhưng đó là một sự dối trá.
“Cậu đến từ Chicago?” Ông Rafi hỏi tôi.
Tôi gật đầu, mắt vẫn dõi ra con đường tối thui.
“Rồi giờ khi đã ra ngoài rồi? Cậu thấy thế giới thế nào?”
Ông ta hỏi.
“Phần nhiều vẫn vậy,” tôi nói. “Người ta vẫn phân chia vì những thứ khác nhau, đánh nhau trong những cuộc chiến khác nhau.”
Bước chân của Nita kêu ken két trên ván sàn trong nhà, và khi tôi quay lại, cô ta đang đứng ngay sau lưng tôi, tay xỏ trong túi áo.
“Cảm ơn vì đã sắp xếp cuộc gặp này,” Nita nói, gật đầu với ông Rafi. “Tới giờ chúng tôi phải đi rồi.”
Chúng tôi lại xuống đường, và khi tôi ngoái lại để nhìn ông ấy, ông giơ tay lên, vẫy tạm biệt.
Trong lúc chúng tôi đang trở lại chỗ cái xe tải, tôi lại nghe tiếng kêu la, nhưng lần này là tiếng la của một đứa trẻ. Tôi đi ngang qua những tiếng thút thít, rên rỉ và nghĩ tới lúc còn nhỏ, nằm co ro trên giường, chùi mũi bằng tay áo. Mẹ tôi thường lau chỗ bị đánh bằng một miếng bọt biển trước khi ném nó vào thùng giặt. Bà ấy không bao giờ nói gì về việc đó.
Khi leo vô xe, tôi đã cảm thấy tê cóng vì nơi này và vì nỗi đau của nó, và tôi đã sẵn sàng quay về với giấc mơ ở phòng chung, với hơi ấm và ánh đèn và cảm giác an toàn.
“Tôi đang băn khoăn không hiểu sao nơi này lại được yêu thích hơn so với cuộc sống trong thành phố,” tôi nói.
“Tôi chỉ mới tới thành phố không phải là một thí nghiệm có một lần,” Nita nói. “Ở đó có điện, nhưng nó theo một hệ thống bị hạn chế – mỗi nhà chỉ có vài giờ có điện trong ngày. Nước cũng vậy. Và có rất nhiều tệ nạn, đều được quy cho việc hỏng gen cả. Cũng có cảnh sát, nhưng họ chẳng làm được gì nhiều nhặn cả.”
“Vậy là đặc khu của Cục,” tôi nói. “Nó dễ dàng thành nơi sinh sống tốt nhất rồi còn gì.”
“Xét về những nguồn lực thì đúng vậy,” Nita nói. “Nhưng hệ thống xã hội tồn tại trong những thành phố cũng tồn tại y như vậy trong đặc khu; chỉ là khó nhìn ra hơn một chút thôi.”
Tôi nhìn vùng giáp ranh đang dần biến mất qua tấm gương chiếu hậu, khác biệt với những ngôi nhà bỏ hoang xung quanh chỉ nhờ những sợi dây đèn toòng teng treo trên những con đường chật hẹp.
Chúng tôi đi ngang qua những ngôi nhà tối thui với những cái cửa sổ bị đóng ván, và tôi cố hình dung ra chúng lúc sạch sẽ và bóng loáng, như chắc chắn từng thế một thời.
Chúng có những khoảng sân được rào lại kiên cố, có thời được cắt tỉa và phủ một màu xanh rờn, những ô cửa sổ chắc chắn từng sáng lên vào ban đêm. Tôi hình dung những cuộc đời ở đây đã từng là những cuộc đời êm đềm, bình lặng.
“Chính xác thì cô ra tận ngoài này để nói chuyện gì với họ vậy?” Tôi hỏi.
“Tôi ra ngoài này để củng cố kế hoạch của chúng tôi,”
Nita nói. Tôi để ý, trong ánh sáng của đèn pha, thấy có vài vết cắt trên môi dưới của cô ta, như thể cô ta đã dành rất nhiều thời gian để cắn nó. “Và tôi muốn họ gặp anh, tận mắt gặp một người đại diện cho những người bên trong những cuộc thí nghiệm môn phái. Bà Mary từng nghi ngờ rằng những người như anh thật ra bí mật thỏa thuận với chính phủ, dĩ nhiên điều đó sai bét. Dù vậy, Rafi… ông ta là người đầu tiên cho tôi xem chứng cứ rằng Cục, chính phủ, đang nói dối về lịch sử của chúng ta.”
Cô ta ngừng lại sau khi nói vậy, như thể nó sẽ giúp tôi cảm nhận được tầm quan trọng của vấn đề, nhưng tôi không cần thời gian hay sự im lặng hay không gian để tin cô ta. Tôi đã bị lừa dối bởi chính chính quyền của mình suốt cả cuộc đời.
“Cục cứ nói về thời hoàng kim của nhân loại trước thời buổi chi phối gen, khi ai cũng có gen lành và ai cũng sống an lành,” Nita nói. “Nhưng Rafi đã cho tôi xem những bức ảnh cũ về chiến tranh.”
Tôi đợi một nhịp. “Thì sao?”
“Thì sao ư?” Nita hỏi lại với giọng không-thể- tin-được.
“Nếu những con người gen lành đã gây ra chiến tranh và sự phá hủy hoàn toàn trong quá khứ với cùng mức độ khủng khiếp như những người gen hỏng được cho là đang gây ra, vậy thì có cơ sở gì cho việc nghĩ rằng chúng ta cần phải đầu tư quá nhiều nguồn lực và thời gian để chữa lành những gen hỏng chứ? Ích lợi của những cuộc thí nghiệm là gì, trừ việc thuyết phục đúng người rằng chính phủ có làm cái gì đó để giúp cuộc sống của chúng ta tốt đẹp hơn, dù thật ra thì không phải vậy?”
Sự thật thay đổi tất cả mọi thứ – đó chẳng phải là lý do khiến Tris khao khát để chiếu cho bằng được đoạn băng của Edith Prior đến mức phải hợp tác với ba tôi ư?
Em biết rằng sự thật, dù nó là gì đi chăng nữa, cũng sẽ thay đổi cuộc đấu tranh của chúng tôi, sẽ thay đổi vĩnh viễn những ưu tiên của chúng tôi. Và ngay bây giờ, ngay tại đây, một lời nói dối đã thay đổi sự đấu tranh, một lời nói dối đã thay đổi những ưu tiên vĩnh viễn. Thay vì nỗ lực chống lại cái nghèo hay tội ác tràn lan trên đất nước, những người này đã chọn chống lại việc hỏng gen.
“Tại sao? Tại sao lại bỏ ra nhiều thời gian và công sức đến vậy để chống lại một thứ thậm chí không thật sự là vấn đề chứ?” Tôi hỏi, đột nhiên cảm thấy bực bội khủng khiếp.
“Là thế này, những người đang tranh đấu vì nó hiện nay có lẽ tranh đấu vì họ được dạy rằng nó là một vấn đề. Đó là một điều nữa mà ông Rafi chỉ cho tôi thấy –những ví dụ về tư tưởng mà chính phủ tuyên truyền về việc hỏng gen,” Nita nói. “Nhưng còn khởi thủy thì sao?
Tôi không biết. Có lẽ có cả tá thứ. Định kiến với những GH? Quyền kiểm soát, có thể? Kiểm soát số dân hỏng gen bằng cách dạy họ rằng họ bị không ổn, và dạy số dân có gen lành rằng họ lành lặn và toàn vẹn chăng? Những thứ này không xảy ra qua chỉ một đêm, và chúng không chỉ xảy ra chỉ vì một lý do.”
Tôi tựa đầu vào kính cửa sổ lạnh ngắt rồi nhắm mắt lại.
Có quá nhiều thông tin đang kêu ong ong trong đầu tôi tới mức khó mà tập trung vào phần nào riêng lẻ, thế là tôi đành đầu hàng và cứ để mặc đó.
Lúc chúng tôi đã trở ngược lại căn hầm và tôi leo lại lên giường, mặt trời đã chuẩn bị mọc, và tay Tris lại thò ra khỏi thành giường, ngón tay em quẹt lên sàn.
Tôi ngồi xuống đối diện em, ngắm gương mặt em lúc ngủ một lúc và nghĩ tới những gì chúng tôi đã nhất trí, cái đêm đó trong Công viên Thiên Niên Kỷ: không nói dối nữa. Em đã hứa với tôi, và tôi đã hứa với em. Và nếu tôi không kể với em về những gì đã nghe và đã thấy tối nay, tôi sẽ phản lại lời hứa đó. Và vì cái gì chứ? Để bảo vệ em ư?
Vì Nita, một người con gái mà tôi chẳng biết rõ à?
Tôi vén tóc em lên, rất khẽ để không làm em thức.
Em không cần tôi bảo vệ. Bản thân em đã mạnh mẽ rồi.