Chương 34 TRIS
CÔ BÉ ĐÂY rồi,” ông Amar thốt lên khi tôi đến chỗ họ.
“Đây, ta sẽ kiếm cho cô bé một cái áo ghi-lê, Tris.”
“Áo… ghi-lê?” Như đã hứa với ông David hôm qua, chiều nay tôi sẽ đến khu giáp ranh. Tôi không biết phải mong đợi điều gì, điều đó thường khiến tôi hồi hộp, nhưng những ngày qua tôi đã quá mệt mỏi rồi nên cũng không còn cảm thấy gì nhiều nữa.
“Một cái áo ghi-lê chống đạn. Khu giáp ranh không an toàn đến vậy đâu,” ông ấy nói, rồi thò tay vào một cái sọt gần cửa, lựa giữa một chồng áo ghi-lê dày màu đen để tìm một cái vừa cỡ. Ông ấy quay ra với một cái trông vẫn quá ư là rộng với tôi. “Xin lỗi, không được đa dạng kích cỡ lắm. Nhưng mà cái này vẫn sẽ có ích. Giơ hai tay lên nào.”
Ông ấy tròng cái áo vào người tôi và kéo chặt cái khóa lại bên hông.
“Cháu không biết chú sẽ ở đây cơ đấy,” tôi nói.
“Chà, chứ cháu nghĩ ta làm gì ở Cục? Đi lòng vòng nói chuyện tiếu lâm hả?” Ông ấy mỉm cười. “Họ tìm được chỗ xài được chuyên môn Dauntless của ta. Ta là một phần của đội an ninh. George cũng vậy. Thường thì bọn ta chỉ lo phần an ninh cho đặc khu, nhưng khi nào có ai đến vùng giáp ranh thì ta tình nguyện đi theo.”
“Nhắc tới tôi sao?” Anh George đang đứng trong đám đông gần mấy cánh cửa lên tiếng. “Chào, Tris. Tôi hy vọng anh ta không bép xép chuyện gì không hay ho đấy chứ.”
Anh George choàng tay qua vai ông Amar, và họ nhe răng cười với nhau. Geogre trông khá hơn lần cuối cùng tôi thấy anh ấy, nhưng nỗi thống khổ đã kịp in dấu lên vẻ mặt của anh, khiến khóe mắt hằn nếp nhăn khi anh ấy cười, lấy đi cái lúm đồng tiền trên má.
“Tôi đang nghĩ tới chuyện cho cô bé cầm một khẩu súng,”
ông Amar nói. Ông ấy liếc tôi. “Chúng tôi thường không đưa vũ khí cho ủy viên hội đồng tương lai, nhưng đó là vì họ chẳng biết cách xài chúng, còn cô bé thì rõ là biết rồi.”
“Thật sự không sao đâu mà,” tôi nói. “Cháu không cần…”
“Không, cô có lẽ là một tay súng cừ hơn phần lớn bọn họ,” anh George nói. “Bọn ta có thể tuyển dụng thêm một Dauntless để đi chung mà. Để tôi đi kiếm một khẩu.”
Vài phút sau, tôi đã được trang bị vũ khí và đang đi với ông Amar tới chỗ chiếc xe tải. Ông ấy và tôi leo lên đuôi xe, George và một người phụ nữ tên Ann leo lên ngồi chính giữa, và hai sĩ quan an ninh lớn tuổi hơn tên Jack và Violet ngồi đằng trước. Thùng xe tải được phủ kín bởi một thứ màu đen nặng nề. Từ ngoài nhìn vô, cửa sau trông mờ đục và đen thui, nhưng từ trong nhìn ra, nó trong suốt, giúp chúng tôi thấy được mình đang đi đâu. Tôi rúc mình vào giữa ông Amar và một chồng thiết bị che tầm nhìn của chúng tôi với phần đầu xe tải. Anh George thò đầu khỏi đống thiết bị và nhe răng cười khi chiếc xe khởi động, nhưng ngoài ra thì chỉ còn ông Amar và tôi.
Tôi nhìn đặc khu dần biến mất sau lưng. Chúng tôi chạy xuyên qua những khu vườn và gian nhà phụ bao xung quanh nó, và thò ra khỏi rìa đặc khu là những chiếc máy bay, sơn trắng và bất động. Xe đến hàng rào, và những cánh cổng mở ra cho chúng tôi qua. Tôi nghe tiếng Jack nói chuyện với một tên lính ở hàng rào bên ngoài, báo với hắn ta kế hoạch của chúng tôi và những thứ chứa trên xe – một loạt từ mà tôi không hiểu – trước khi chúng tôi được thả ra vùng hoang vu.
Tôi hỏi, “Mục đích của buổi tuần tra này là gì ạ? Ý cháu là ngoài việc chỉ cho cháu thấy cách thức mọi thứ hoạt động ấy?”
“Bọn ta luôn để mắt theo dõi vùng giáp ranh, là khu vực tổn hại gen gần nhất bên ngoài đặc khu. Chủ yếu là để nghiên cứu thôi, xem những người hỏng gen cư xử ra làm sao,” ông Amar đáp. “Nhưng sau cuộc tấn công, ông David và hội đồng đã quyết định rằng chúng ta cần có những biện pháp giám sát chặt chẽ hơn để ngăn một cuộc tấn công tương tự có thể xảy ra nữa.”
Chúng tôi ngang qua những tàn tích tương tự như những gì tôi đã nhìn thấy khi chúng tôi rời thành phố – nhà cửa sụp đổ dưới sức nặng của chính chúng, và cây cối tràn lan trên đất, đội gạch đá mà vươn lên.
Tôi không biết ông Amar, và tôi không hoàn toàn tin ông ấy, nhưng tôi buộc phải hỏi:
“Vậy là chú tin hết hả? Hết tất cả những thứ về việc hỏng gen chính là nguyên nhân gây ra… cái này?”
Tất cả những người bạn cũ của ông ấy trong cuộc thí nghiệm đều là những GH. Có lẽ nào ông ấy lại tin rằng họ bị hỏng, rằng họ có điểm không bình thường?
“Cháu thì không sao?” ông Amar hỏi. “Theo cách ta thấy, trái đất đã tồn tại rất, rất lâu rồi. Lâu hơn chúng ta có thể hình dung. Và trước Cuộc Thuần Chiến, chưa ai từng gây ra cái này, phải không?” Ông ấy phẩy tay chỉ thế giới bên ngoài.
“Cháu không biết nữa,” tôi nói. “Cháu thấy khó mà tin là họ chưa từng làm điều gì.”
“Cô bé có một cái nhìn thật nghiệt ngã về bản chất con người đấy,” ông ấy nhận xét.
Tôi không trả lời.
Ông ấy nói tiếp, “Dù gì đi nữa, nếu có chuyện gì như vậy từng xảy ra trong lịch sử thì Cục sẽ biết.”
Với tôi điều đó thật ngây thơ, với một người có thời từng sống trong thành phố của tôi và đã nhìn thấy, ít nhất là qua những màn hình, có bao nhiêu bí mật chúng tôi đã giữ kín với nhau. Bà Evelyn đã cố kiểm soát người ta bằng cách kiểm soát vũ khí, nhưng mụ Jeanine thì tham vọng hơn – mụ ta biết rằng khi kiểm soát được thông tin, hay thao túng được nó, thì không cần vũ lực để giữ người ta nằm trong lòng bàn tay mình. Họ sẵn lòng nằm vào đó.
Đó là điều mà Cục – và có lẽ toàn bộ chính quyền – đang làm: điều khiển người ta hạnh phúc trong lòng bàn tay mình.
Chúng tôi im lặng một lúc lâu, chỉ có tiếng các thiết bị xóc nảy và tiếng động cơ đồng hành. Thoạt đầu tôi nhìn vào mỗi một ngôi nhà chúng tôi đi ngang qua, tự hỏi nó đã từng chứa cái gì, và rồi chúng bắt đầu hòa lẫn vào nhau trước mắt tôi. Bạn phải nhìn thấy bao nhiêu tàn tích khác nhau trước khi bạn cam chịu mà gọi nó là tàn tích”?
“Chúng ta sắp tới khu giáp ranh rồi,” anh George thông báo từ giữa thân xe. “Chúng ta sẽ dừng xe tại đây và đi bộ tiếp. Mọi người hãy cầm vài thiết bị và cài đặt nó đi nhé – trừ Amar, anh chỉ việc coi chừng Tris thôi. Tris, hoan nghênh cô bé ra ngoài nhìn ngó xung quanh, nhưng hãy ở gần Amar nhé.”
Tôi có cảm giác tất cả dây thần kinh của tôi sắp bật ra ngoài rồi, và một ngọn đuốc nhỏ nhất cũng sẽ khiến nó cháy phừng phừng. Vùng giáp ranh là nơi mẹ tôi đã tới náo thân sau khi chứng kiến một vụ giết người – nó là nơi Cục tìm thấy và cứu bà vì họ nghĩ rằng mã gen của bà ấy lành lặn. Giờ tôi sắp đi bộ đến đó, đến nơi mà, theo một cách nào đó, mọi thứ bắt đầu.
Chiếc xe dừng lại, và ông Amar đẩy cửa mở ra. Ông ấy cầm súng bằng một tay và vẫy tôi bằng tay kia. Tôi nhảy ra ngoài theo sau ông ấy.
Ở đây có những ngôi nhà, nhưng chúng còn không bằng những ngôi nhà tạm nữa, chúng làm bằng những tấm kim loại phế liệu và vải nhựa, cái này xếp kế cái kia cứ như thể đang giữ nhau đứng thẳng. Trên những con đường hẹp giữa chúng là người, hầu hết là con nít, đang bán hàng trên những cái khay, hay bưng những xô nước, hay nấu nướng trên những đám lửa ngoài trời.
Khi những đứa nhỏ ở gần nhất thấy chúng tôi, một thằng bé bỏ chạy và hét, “Bố ráp! Bố ráp!”
“Đừng lo về chuyện đó,” ông Amar nói với tôi. “Họ nghĩ chúng ta là lính. Thỉnh thoảng họ đột kích để đưa những đứa trẻ về trại mồ côi.”
Tôi hầu như không biết phải bình luận thế nào. Thay vì vậy, tôi bước dọc theo lối đi, trong lúc hầu hết mọi người bỏ chạy hay rút vào trong lều làm bằng giấy bồi hay nhiều vải nhựa hơn. Tôi nhìn thấy họ qua những kẽ hở trên tường, nhà của họ không có gì nhiều hơn ngoài một đống đồ ăn và vật dụng cần thiết bên này và chiếu ngủ phía bên kia. Tôi tự hỏi không biết họ làm gì vào mùa đông. Hay họ làm vệ sinh như thế nào.
Tôi nghĩ tới những bông hoa trong đặc khu, và những sàn nhà lát gỗ, và tất cả những cái giường trong khách sạn chưa có ai nằm, và nói, “Các chú có bao giờ giúp họ không?”
“Bọn ta tin rằng cách tốt nhất để cứu giúp thế giới của chúng ta là phải chữa lành những khiếm khuyết về gen của nó,” Amar nói, như thể đang đọc thuộc lòng từ trong trí nhớ ra. “Cung cấp đồ ăn thức uống cho người ta chỉ là băng được một miếng băng nhỏ lên một vết thương hở miệng. Nó có thể cầm máu được một chút, nhưng cuối cùng vết thương vẫn còn đó.”
Tôi không thể trả lời. Tất cả những gì tôi làm là khẽ lắc đầu rồi đi tiếp. Tôi bắt đầu hiểu tại sao mẹ tôi lại gia nhập vào phái Abnegation khi đáng lẽ ra bà ấy phải vào phái Erudite. Nếu bà ấy thật sự ao ước sự an toàn nằm ngoài sự mục nát đang lớn dần trong phái Erudite thì bà ấy có thể đến phái Amity hoặc Candor. Nhưng bà ấy đã chọn môn phái nơi bà ấy có thể giúp đỡ những người bất lực, và cống hiến gần hết cuộc đời để chắc chắn những người vô môn phái được chu cấp.
Chắc chắn họ đã gợi cho bà nhớ đến nơi này, đến vùng giáp ranh.
Tôi quay mặt khỏi Amar để ông ấy không nhìn thấy những giọt nước trong mắt tôi. “Quay lại xe thôi.”
“Cô bé không sao chứ?
“Vâng.”
Chúng tôi cùng quay lại và hướng trở lại cái xe tải, và rồi chúng tôi nghe thấy tiếng súng nổ.
Và liền sau đó, một tiếng kêu. “Cứu với!”
Mọi người xung quanh tôi chạy tán loạn.
“Là George,” ông Amar nói, và lập tức chạy theo con đường bên phải chúng tôi. Tôi đuổi theo ông ấy vào trong những công trình đổ nát, nhưng ông ấy chạy nhanh quá tôi không theo kịp, và nơi này là một mê cung – tôi mất dấu ông ấy chỉ trong mấy giây sau, và rồi tôi còn trơ lại một mình.
Dù tôi có một sự đồng cảm vô thức, được nuôi dưỡng từ phái Abnegation, dành cho những người này nhưng tôi cũng sợ họ. Nếu họ giống những người vô môn phái thì chắc chắn họ cũng tuyệt vọng như những người vô môn phái, và tôi cảnh giác với những người tuyệt vọng.
Một bàn tay nắm lấy cánh tay tôi và kéo tôi về phía sau, vào trong một cái lều bằng nhôm. Bên trong, mọi thứ đều nhuốm màu xanh mờ mờ của mấy miếng nhựa che tường, ngăn cách căn nhà khỏi cái lạnh. Sàn nhà được lát gỗ dán, và đang đứng trước mặt tôi là một người phụ nữ nhỏ bé, ốm nhách với một gương mặt lem luốc.
“Cô không muốn ra ngoài đó đâu,” cô ta nói. “Ai họ cũng quất roi, bất kể cô ấy có trẻ tới cỡ nào đi nữa.”
“Họ?”
“Ở vùng giáp ranh này có rất nhiều người giận dữ,”
người phụ nữ đó nói. “Sự phẫn nộ của vài người khiến họ muốn lấy mạng mọi kẻ họ nhận định là kẻ thù. Còn của vài người lại khiến họ có tính xây dựng hơn.”
“Chà, cảm ơn đã giúp tôi,” tôi nói. “Tên tôi là Tris.”
“Amy. Ngồi xuống đi.”
“Tôi không thể,” tôi nói. “Bạn tôi vẫn đang ở ngoài kia.”
“Vậy thì cô nên đợi đến khi lũ người kia chạy đến chỗ bạn cô rồi lén bám theo.”
Nghe có vẻ khôn ngoan.
Tôi ngồi phịch xuống đất, súng tì vào chân. Cái áo chống đạn cứng như đá nên khó mà thoải mái được, nhưng tôi cố gắng hết sức để trông thoải mái. Tôi nghe tiếng người ta chạy rầm rập và la hét ở ngoài. Amy kéo một góc tấm nhựa xuống để nhìn ra bên ngoài.
“Vậy ra cô và bạn cô không phải là lính,” Amy nói, vẫn hướng mắt ra ngoài. “Điều đó có nghĩa các người phải là cái loại An Sinh Di Truyền, đúng không?”
“Không,” tôi đáp. “Ý tôi là họ thì đúng, nhưng tôi đến từ thành phố. Ý tôi là Chicago.”
Lông mày của Amy nhướn cao. “Chết tiệt. Nó bị giải tán rồi sao?”
“Chưa.”
“Thật không may.”
“Không may?” Tôi cau mày với chị ta. “Chị đang nói về nhà tôi đó.”
“Này, nhà cô duy trì niềm tin rằng những người bị hỏng gen cần phải được chấn chỉnh – rằng họ bị hỏng, chấm hết, điều mà họ – chúng tôi – không bị. Thế nên đúng vậy đấy, thật không may là các cuộc thí nghiệm vẫn tồn tại.
Tôi sẽ không xin lỗi vì đã nói thế đâu.”
Tôi chưa từng nghĩ theo kiểu đó trước đây. Với tôi, Chicago buộc phải tiếp tục tồn tại vì những người tôi đã mất từng sống ở đó, vì cách sống tôi từng yêu quý vẫn tiếp diễn ở đó, dù trong một dạng thức nát bét. Nhưng tôi không nhận ra rằng chính sự tồn tại của Chicago sẽ gây hại đến những người bên ngoài chỉ muốn được đối xử như bao người khác.
“Đến lúc cô phải đi rồi kìa,” Amy nói, thả góc tấm nhựa xuống. “Có lẽ họ đang ở một trong những khu vực hội họp ở hướng Tây Bắc.”
“Cảm ơn chị lần nữa nhé,” tôi nói.
Chị ta gật đầu với tôi, và tôi chui ra khỏi ngôi nhà tạm bợ của chị ta, những tấm ván kêu ken két dưới chân.
Tôi di chuyển qua những con đường nhỏ, nhanh, mừng rằng tất cả mọi người đã sơ tán lúc chúng tôi đến nên không còn ai cản đường tôi. Tôi nhảy qua một cái vũng – chà, tôi không muốn biết đó là gì – và xuất hiện trên một cái có vẻ như là một cái sân nhỏ, nơi một thằng nhóc cao to, bặm trợn đang chĩa súng vào anh George.
Một đám đông nhỏ vây quanh thằng cầm súng. Họ đã chia nhau cái dụng cụ quan sát mà anh George mang theo, và họ đang phá hủy nó, đập nó bằng giày hay đá hay búa gì đó.
Đôi mắt anh hướng về phía tôi, nhưng tôi lật đật đặt một ngón tay lên môi. Tôi đang ở sau lưng đám đông; thằng đang cầm súng không biết tôi ở đó.
“Hạ súng xuống đi,” anh George nói.
“Không!” Tên kia trả lời. Đôi mắt nhợt nhạt của nó nhìn từ George qua đám đông rồi ngược lại. “Vướng đủ thứ rắc rối mới có được thứ này, lý đâu giờ lại đưa cho ông.”
“Vậy thì… hãy để ta đi. Cậu có thể giữ nó.”
“Không, chừng nào ông chưa khai ra các người đã bắt người của bọn này đi đâu!” Thằng nhỏ đó nói.
“Chúng tôi không bắt người nào của các cậu,” anh George nói. “Chúng tôi không phải là binh lính. Chúng tôi là những nhà khoa học.”
“Ừ, đúng rồi,” nó nói. “Một cái áo chống đạn? Nếu đó không phải là thứ đồ của lính tráng thì tôi là đứa giàu nhất cái nước này rồi. Giờ thì nói cho tôi biết điều tôi cần biết ngay!”
Tôi lùi lại đứng sau một cái lều, sau đó giơ súng vòng qua góc và gọi, “Ê!”
Toàn bộ đám đông quay lại một lượt, nhưng cái thằng cầm súng không thôi chĩa súng vào George như tôi hy vọng.
“Cậu nằm trong tầm ngắm của tôi rồi,” tôi nói. “Hãy đi đi và tôi sẽ để cậu đi.”
“Tôi sẽ bắn hắn ta!” Thằng nhỏ đáp lời.
“Tôi sẽ bắn cậu,” tôi nói. “Chúng tôi đi cùng với chính phủ, nhưng chúng tôi không phải là binh lính. Chúng tôi không biết người của cậu hiện ở đâu. Nếu cậu thả ông ấy ra, chúng tôi sẽ lặng lẽ rời đi. Nếu cậu giết ông ấy, tôi đảm bảo sẽ sớm có binh lính thật đến tóm cổ cậu, và bọn họ sẽ không khoan dung như chúng tôi đâu.”
Ngay lúc đó, ông Amar xuất hiện trong sân ngay phía sau George, và có người trong đám đông kêu lên thất thanh, “Bọn chúng còn nhiều người nữa!” Và mọi người chạy tán loạn tứ phía. Thằng nhóc cầm súng lặn vô con hẻm gần nhất, bỏ anh George, ông Amar và tôi lại một mình. Dù vậy, tôi vẫn giơ súng cao ngang mặt, đề phòng chúng quyết định quay lại.
Ông Amar quàng tay quanh người George, và anh đấm lên lưng ông ấy. Ông ấy nhìn tôi, thò mặt qua vai George.
“Vẫn không nghĩ rằng hỏng gen chịu trách nhiệm cho những rắc rối này sao?”
Tôi bước ngang qua vài túp lều và nhìn thấy một cô bé đang khúm núm gần cửa, tay bó gối. Cô bé đã nhìn thấy tôi qua những khe hở của những miếng nhựa chồng chất và đang thút thít khóc. Tôi băn khoăn không biết ai đã dạy những người này sợ binh lính đến vậy. Tôi băn khoăn cái gì đã khiến một thằng nhóc tuyệt vọng tới mức phải chĩa súng vào một trong bọn họ.
“Không,” tôi nói. “Cháu không nghĩ thế.”
Tôi có những người khác để mà đổ lỗi.
Lúc chúng tôi quay lại chiếc xe tải, Jack và Violet đang cài một cái camera giám sát không bị những người trong vùng giáp ranh này cướp. Trong tay Violet có một cái máy tính bảng với một danh sách dài những con số, và bà ấy đọc chúng cho Jack lập trình vào trong máy của ông ấy.
“Các anh đã đi đâu vậy?” Ông ấy hỏi.
“Chúng tôi bị tấn công,” anh George nói. “Chúng ta phải đi thôi, ngay bây giờ.”
“May mà đó là nhóm tọa độ cuối cùng đấy,” Violet nói.
“Đi thôi.”
Chúng tôi lại leo lên xe tải. Ông Amar kéo cửa đóng lại sau lưng chúng tôi, và tôi bèn đặt súng xuống sàn, chốt an toàn đã đóng, mừng vì đã thoát được nó. Tôi đã không nghĩ tới chuyện phải chĩa nó vào ai khi tỉnh dậy hôm nay.
Tôi cũng không nghĩ sẽ chứng kiến những cảnh sống như thế kia.
“Là phần Abnegation trong cháu,” ông Amar lên tiếng.
“Khiến cháu ghét nơi đó. Ta biết.”
“Là rất nhiều thứ trong cháu.”
“Nó cũng là một thứ ta để ý ở Số Bốn. Phái Abnegation sản sinh ra những con người nghiêm túc hết sức. Những người tự động nhìn nhận sự việc như nhu cầu,” ông ấy nói.
“Ta đã để ý rằng khi người ta chuyển sang phái Dauntless, nó tạo ra một số típ người tương đương. Erudite chuyển qua Dauntless có xu hướng trở nên độc ác và tàn nhẫn.
Candor chuyển qua Dauntless có xu hướng trở nên hung dữ, nghiện andrenaline đánh nhau. Và Abnegation chuyển qua Dauntless trở thành... ta không biết, những chiến binh, ta đoán vậy. Những nhà cách mạng.”
“Đó là điều mà thằng bé có thể làm, nếu nó tin vào bản thân mình hơn,” ông ấy bổ sung. “Nếu Số Bốn không quá tự làm khó mình vì nghi ngờ bản thân thì nó có thể trở thành một thủ lĩnh ra trò, ta nghĩ vậy. Ta luôn luôn nghĩ vậy.”
“Cháu nghĩ chú nói đúng,” tôi nói. “Lúc anh ấy làm theo người ta là lúc anh ấy tự đưa mình vào rắc rối. Như chuyện với chị Nita chẳng hạn. Hay với bà Evelyn.”
Còn mình thì sao? Tôi tự hỏi mình. Mình cũng đã muốn anh ấy làm theo lời mình mà.
Không, mình không có, tôi tự nhủ, nhưng tôi không chắc mình tin như thế.
Ông Amar gật đầu.
Những hình ảnh từ vùng giáp ranh cứ hiện lên trong đầu tôi như cơn nấc cục. Tôi hình dung mẹ tôi lúc còn là một đứa bé, ngồi co ro ở một trong những túp lều đó, tranh cướp vũ khí vì nó đồng nghĩa với một thẻo an toàn, ho sù sụ vì khói để giữ ấm trong mùa đông. Tôi không biết tại sao bà ấy lại sẵn lòng rời bỏ nơi đó đến vậy khi được cứu. Bà ấy đã bị hút vào đặc khu, và làm đại diện cho nó trong suốt phần đời còn lại. Bà đã quên mất mình đến từ đâu chăng?
Không thể nào. Bà ấy đã dành cả đời để giúp những người vô môn phái. Có lẽ nó không phải là việc hoàn thành bổn phận là một Abnegation – có lẽ nó đến từ ao ước được giúp đỡ những người giống như những người mà bà ấy đã bỏ lại.
Đột nhiên tôi không thể chịu được khi nghĩ đến mẹ nữa, hay nơi đó, hay những gì chúng tôi đã thấy ở đó. Tôi bấu víu lấy suy nghĩ đầu tiên xuất hiện trong đầu, để làm phân tán bản thân.
“Vậy chú và Tobias là bạn thân đúng không?”
“Có ai là bạn thân với thằng bé không?” Ông Amar lắc đầu. “Dù vậy, chính ta đã đặt tên hiệu cho thằng bé. Ta đã quan sát nó đối mặt với những nỗi kinh hoàng của mình và ta đã thấy nó gặp rắc rối như thế nào, và ta hiểu ra là nó có thể dùng một cuộc đời mới, nên ta bắt đầu gọi nó là ‘Số Bốn’. Nhưng không, ta sẽ không nói mình là bạn thân của thằng bé. Không thân như ta muốn.”
Ông Amar ngả đầu ra sau, dựa lên tường và nhắm mắt lại. Môi khẽ cong lên thành một nụ cười.
“Ồ,” tôi nói. “Chú có... thích anh ấy không?”
“Sao cháu lại hỏi vậy?”
Tôi nhún vai. “Chỉ là cái cách chú nói về anh ấy thôi.”
“Ta không còn thích thằng bé nữa, nếu đó quả là điều cháu đang thắc mắc. Nhưng đúng vậy, có lúc ta đã, và rõ ràng là thằng bé không đáp lại tình cảm đặc biệt đó, nên ta rút lui,” ông Amar nói. “Ta mong cháu sẽ không bép xép gì.”
“Với Tobias ấy à? Dĩ nhiên cháu sẽ không nói.”
“Không, ý ta là đừng nói gì thêm nữa kia. Và ta không tán chuyện về Tobias.”
Chú ấy nhìn vào gáy anh George, giờ đã có thể nhìn thấy qua đống thiết bị đã giảm đi đáng kể.
Tôi nhướn mày nhìn chú ấy. Tôi không ngạc nhiên chú ấy và anh George lại gần gũi nhau. Bọn họ đều là những pergent phải làm giả cái chết của chính mình để sống sót.
Cả hai đều là những người ngoài trong một thế giới lạ lẫm.
“Cháu phải hiểu,” Amar nói. “Cục bị ám ảnh bởi chuyện sinh đẻ – với việc truyền lại những bộ gen. Còn George và ta đều là những GL, thế nên bất kỳ sự rối loạn nào không sản xuất được những mã gen khỏe hơn... Nó không được khuyến khích, vậy thôi.”
“À.” Tôi gật đầu. “Chú không phải lo về cháu. Cháu không bị ám ảnh với việc phải sản xuất ra những gen khỏe hơn,” tôi cười nhăn nhở.
“Cảm ơn,” ông ấy nói.
Trong mấy giây, chúng tôi cứ ngồi đó trong im lặng, nhìn những tàn tích hóa thành những vệt mờ khi chiếc xe tăng tốc.
“Cháu biết không, ta nghĩ cháu tốt cho Số Bốn đấy,” ông ấy nói.
Tôi nhìn chòng chọc vào hai tay mình, đang cuộn tròn trong lòng. Tôi không cảm thấy cần giải thích với ông ấy rằng chúng tôi đang trên bờ vực đổ vỡ – tôi không biết ông ấy, mà nếu tôi biết, tôi cũng không muốn nói về chuyện đó. Tất cả những gì tôi nói được là, “Ồ?”
“Đúng thế. Ta có thể thấy cháu khơi dậy trong thằng bé những gì. Cháu không biết vì cháu chưa từng thấy, nhưng Số Bốn không có cháu là một con người rất khác. Thằng bé bị... ám ảnh, dễ bùng nổ, bất an...”
“Ám ảnh?”
“Cháu còn gọi một người cứ đi vào trong bối cảnh kinh hoàng của mình như đi chợ là gì khác được?”
“Cháu không biết... quyết tâm.” Tôi dừng lại. “Can đảm.”
“Ừ, chắc rồi. Nhưng cũng hơi điên, đúng không? Ý ta là hầu hết các Dauntless thà nhảy xuống vực còn hơn rơi vào bối cảnh kinh hoàng của chính họ. Có dũng cảm, và cũng có sung sướng trong đau khổ, và với thằng bé ranh giới rất mơ hồ.”
“Cháu rất quen với những ranh giới,” tôi nói.
“Ta biết,” ông Amar cười. “Dù gì đi nữa, tất cả những gì ta nói ở đây là bất cứ khi nào cháu nhập hai con người khác nhau vào với nhau, cháu sẽ có rắc rối, nhưng ta có thể nhìn thấy rằng những gì mà hai đứa có rất đáng giá, chỉ có vậy thôi.”
Tôi nhăn mũi. “Nhập người ta lại với nhau, thật chứ?”
Ông Amar chắp hai tay lại với nhau và vặn vẹo từ trước ra sau để minh họa. Tôi bật cười, nhưng tôi không thể làm lơ cảm giác nhoi nhói trong lồng ngực.