← Quay lại trang sách

Phần Kết Hai năm rưỡi sau

MẸ EVELYN ĐANG đứng ở nơi hai thế giới giáp nhau.

Những vết bánh xe giờ đã hằn trên mặt đất, từ những chuyến đi và đến thường xuyên của những người từ vùng giáp ranh dọn vào hay dọn ra, hay những người từ đặc khu của Cục trước đây đi đi về về hằng ngày. Túi của bà ấy tựa vào chân, tại một trong những trụ giếng khoan trên mặt đất. Bà giơ một tay lên chào khi tôi đến gần.

Khi đã leo vào trong chiếc xe tải, bà hôn lên má tôi, và tôi để bà hôn. Tôi cảm thấy một nụ cười nở trên mặt mình, và tôi cứ để mặc nó ở đó.

“Chào mừng đã trở về,” tôi nói.

Thỏa thuận, khi tôi đề nghị với bà ấy hơn hai năm trước, và khi bà ấy thương thảo lại với cô Johanna không lâu sau đó, là bà ấy sẽ rời thành phố. Bây giờ, Chicago đã thay đổi quá nhiều đến mức tôi không thấy việc bà ấy quay trở về sẽ có hại gì nữa, và bà ấy cũng vậy. Qua hai năm trời, nhìn bà ấy trẻ trung hơn, gương mặt đầy đặn hơn và nụ cười nở rộng hơn. Thời gian đi xa đã có ích cho bà ấy.

“Con thế nào rồi?” Bà hỏi.

“Con… ổn,” tôi đáp. “Hôm nay bọn con sẽ rải tro của cô ấy.”

Tôi liếc nhìn cái bình đựng tro cốt đặt trên ghế sau như nhìn một hành khách khác. Tôi đã để tro của Tris lại nhà xác của Cục rất lâu, không chắc em sẽ muốn kiểu đám tang như thế nào, và không chắc tôi có thể vượt qua được.

Nhưng ngày hôm nay lẽ ra là ngày Lễ Chọn, nếu chúng tôi vẫn còn các môn phái, và đã đến lúc phải tiến lên một bước, dù chỉ là một bước nhỏ.

Mẹ đặt một tay lên vai tôi và nhìn ra ngoài những cánh đồng. Những vụ mùa một thời từng bị cách ly chỉ có xung quanh tổng hành dinh Amity đã mở rộng, và tiếp tục mở rộng hơn nữa ra khắp những không gian đầy cỏ khắp thành phố. Thỉnh thoảng tôi thấy nhớ những mảnh đất hoang vu, trống trơn. Nhưng ngay bây giờ, tôi cũng chẳng thấy phiền gì khi lái xe băng qua từng hàng, từng hàng bắp hay lúa mì. Tôi nhìn thấy người giữa đám cây cối, kiểm tra đất đai với những dụng cụ cầm tay được chế tạo bởi những nhà khoa học của Cục trước đây. Họ mặc đồ màu đỏ, xanh dương, xanh lá cây và tím.

“Sống không có môn phái cảm giác như thế nào?” Mẹ hỏi.

“Rất bình thường ạ,” tôi nói. Tôi mỉm cười với bà. “Mẹ sẽ thích nó thôi.”

Tôi đưa mẹ về căn hộ của mình ở ngay phía Bắc con sông.

Nó nằm ở tầng dưới, nhưng qua nhiều cửa sổ, tôi có thể nhìn thấy vô số tòa nhà trải rất rộng trước mắt. Tôi là một trong những người đầu tiên an cư ở thành phố Chicago mới mẻ này, nên tôi được chọn sống ở đâu. Zeke, Shauna, Christina, chú Amar và anh George chọn sống ở những tầng trên của tòa Hancock, còn Caleb và Cara thì dọn về lại những căn hộ gần công viên Thiên Niên Kỷ, nhưng tôi thì đến đây vì cảnh đẹp, và vì nó không ở gần ngôi nhà cũ nào của tôi cả.

“Hàng xóm của con là một nhà nghiên cứu lịch sử, ông ấy đến từ vùng giáp ranh,” tôi nói trong lúc lục túi tìm chìa khóa. “Ông ta gọi Chicago là ‘thành phố thứ tư’ – vì nó từng bị hỏa hoạn phá hủy, nhiều năm trước, rồi tới Cuộc Thuần Chiến, và giờ chúng ta đang nằm trong nỗ lực thứ tư để an cư lạc nghiệp ở đây.”

“Thành phố thứ tư,” mẹ lặp lại khi tôi mở cửa. “Mẹ thích cái tên đó.”

Bên trong hầu như không có đồ đạc gì, chỉ có một cái ghế sô-pha và một cái bàn, vài cái ghế tựa, một căn bếp.

Nắng trải trên con sông bùn lầy để chiếu lấp lánh trên những ô cửa sổ của tòa nhà. Một số những nhà khoa học của Cục trước đây đang cố đưa con sông và cái hồ trở lại thời hoàng kim của chúng trước đây, nhưng sẽ còn phải mất một thời gian nữa. Thay đổi, cũng như lành vết thương, cần thời gian.

Mẹ thả túi xuống ghế. “Cảm ơn con đã cho mẹ ở ké một thời gian. Mẹ hứa sẽ sớm kiếm chỗ khác.”

“Không có gì đâu mẹ,” tôi nói. Tôi thấy căng thẳng với việc mẹ tôi ở đây, chọc vào mớ tài sản nghèo nàn của tôi, xuất hiện trong hành lang của tôi, nhưng chúng tôi đâu thể nào giữ khoảng cách với nhau mãi. Nhất là khi tôi đã hứa với bà sẽ xóa nhòa khoảng cách giữa chúng tôi.

“George nói cậu ta cần trợ giúp để đào tạo lực lượng cảnh sát,” mẹ nói. “Con không đề nghị giúp sao?”

“Không,” tôi đáp. “Con nói với mẹ rồi, con không rờ tới súng ống nữa.”

“Phải rồi. Giờ con đang dùng từ ngữ của con mà.” Evelyn nhăn mũi. “Mẹ không tin các chính trị gia, con biết đấy.”

“Mẹ sẽ tin con, vì con là con trai của mẹ,” tôi nói. “Với lại con không phải là chính trị gia. Chưa phải. Mới là một trợ lý thôi.”

Bà ấy ngồi xuống cạnh bàn và nhìn quanh, bồn chồn và lanh lợi, như một con mèo.

“Con biết ba con đang ở đâu không?” Bà hỏi.

Tôi nhún vai. “Có người nói với con ông ấy bỏ đi rồi.

Con không hỏi ông ấy đi đâu.”

Bà chống cằm. “Con không có điều gì muốn nói với ông ấy sao? Bất cứ điều gì?”

“Không,” tôi đáp. Tôi xoay xoay chùm chìa khóa bằng ngón tay. “Con chỉ muốn để ông ấy lại phía sau con thôi, đúng chỗ của ông ấy.”

Hai năm trước, khi tôi đứng đối diện ông ấy trong công viên, tuyết rơi quanh chúng tôi, tôi đã nhận ra rằng việc đánh ông ấy trước mặt những Dauntless trong Trung tâm Ác Ôn không hề khiến tôi cảm thấy dễ thở hơn so với nỗi đau mà ông ấy gây ra cho tôi, gào thét vào mặt hay thóa mạ ông ấy cũng vậy. Chỉ còn lại một lựa chọn duy nhất, đó là để nó qua đi.

Mẹ trao cho tôi một cái nhìn lạ lùng, dò xét, rồi băng ngang qua phòng và mở cái túi bà đã quăng trên ghế ra. Bà ấy lôi ra một vật làm bằng thủy tinh màu xanh dương. Nhìn nó giống như nước đang rơi, bị thời gian ngưng đọng lại.

Tôi nhớ lúc bà ấy cho tôi vật đó, tôi còn nhỏ xíu, nhưng không quá nhỏ để nhận ra rằng đó là một vật cấm trong phái Abnegation, một vật vô dụng và do đó là vật nuông chiều bản thân. Tôi đã hỏi bà ấy nó phục vụ cho mục đích gì, và bà đã bảo tôi, Nó không làm gì rõ ràng. Nhưng nó có thể có ích ở đây. Rồi bà chạm tay lên tim. Đôi lúc là những điều tuyệt vời.

Trong nhiều năm, nó đã là biểu tượng của sự chống đối thầm lặng của tôi, sự khước từ nhỏ bé không muốn làm một đứa trẻ Abnegation dễ bảo, dễ dắt mũi, và cũng là biểu tượng của sự chống đối của mẹ tôi, dù tôi tin bà ấy đã chết. Tôi đã giấu nó dưới giường, và cái ngày tôi quyết định sẽ rời bỏ phái Abnegation, tôi đã đặt nó lên bàn để cho ba tôi nhìn thấy nó, nhìn thấy sức mạnh của tôi, và của bà ấy.

“Khi con đi, cái này giúp mẹ nhớ về con,” bà ấy nói, ôm miếng thủy tinh đó vào lòng. “Giúp mẹ nhớ con đã can đảm như thế nào, luôn luôn can đảm như thế nào.” Bà khẽ mỉm cười. “Mẹ nghĩ có lẽ con muốn giữ nó ở đây. Sau cùng thì mẹ dành cái này cho con mà.”

Tôi không tin giọng mình sẽ còn bình tĩnh nếu tôi mở miệng, thế nên tôi chỉ cười đáp lại và gật đầu.

Không khí mùa xuân khá lạnh nhưng tôi vẫn mở cửa sổ xe, để có thể cảm nhận nó trong lồng ngực, để nó đâm lên ngón tay tôi, một lời nhắc nhở về mùa đông vẫn còn đang nấn ná ở lại. Tôi dừng xe trước nhà chờ ở ga gần Trung tâm Ác Ôn và bê hũ tro ra khỏi băng ghế sau. Nó làm bằng bạc và rất đơn giản, không có chạm khắc gì. Tôi không phải là người chọn nó; Christina đã chọn.

Tôi bước dọc theo nhà chờ tiến về một nhóm đã tụ họp sẵn ở đó. Christina đang đứng với Zeke và Shauna, cô ấy ngồi trên xe lăn, chân được phủ một tấm mền. Cô ấy đã có một cái xe lăn tốt hơn, không còn tay đẩy đằng sau nữa, nên cô ấy có thể điều khiển nó dễ dàng hơn. Matthew đứng trên bậc thềm bằng nửa bàn chân.

“Xin chào,” tôi nói, đến đứng cạnh Shauna.

Christina mỉm cười với tôi, còn Zeke vỗ vai tôi.

Uriah mất chỉ mấy ngày sau Tris, nhưng Zeke và cô Hana đã nói lời tạm biệt chỉ vài tuần sau đó, rải tro của cậu ấy trong lòng vực, giữa tiếng huyên náo của bạn bè và gia đình họ. Chúng tôi đã hét to tên cậu ấy trong căn hầm âm vang của Hố Bẫy. Tuy thế, tôi biết hôm nay Zeke đang nhớ về cậu trai ấy, cũng như nhóm còn lại chúng tôi, mặc dù hành động can đảm kiểu Dauntless cuối cùng này là dành cho Tris.

“Có cái này cho cậu xem,” Shauna nói, và cô ấy quăng cái mền qua một bên, để lộ một cái nẹp kim loại phức tạp trên chân. Chúng cao đến tận hông và bó quanh bụng cô ấy như một cái lồng. Cô ấy cười với tôi, rồi cùng một âm thanh ken két, chân cô ấy thả xuống đất phía trước cái xe lăn, rồi tìm tư thế thích hợp và bắt đầu, cô ấy đứng dậy.

Mặc cho tính nghiêm túc của sự việc, tôi cười.

“Chà, coi kìa,” tôi nói. “Tôi quên mất cậu cao thế nào rồi đấy.”

“Caleb và các chiến hữu phòng thí nghiệm của cậu ta làm cho tôi đấy,” cô ấy nói. “Vẫn đang tập cho quen thôi, nhưng mấy người đó nói một ngày nào đó tôi sẽ chạy được luôn đó.”

“Tốt quá,” tôi nói. “Mà cậu ta đâu rồi?”

“Cậu ta và ông Amar sẽ gặp chúng ta cuối đường dây,”

cô ấy nói. “Phải có người ở đó để đỡ người đầu tiên chứ.”

“Cậu ta vẫn là một tên bánh bèo,” Zeke nói. “Nhưng mình đang thay đổi cái nhìn về cậu ta.”

“Hừm,” tôi nói, không chắc chắn lắm. Sự thật là tôi đã thiết lập lại hòa bình với Caleb, nhưng tôi vẫn không thể ở cạnh cậu ta lâu được. Cử chỉ của cậu ta, giọng nói của cậu ta, cung cách của cậu ta, chúng là của em. Chúng khiến cậu ta trở thành một lời thì thầm về em, điều đó không đủ, nhưng cũng là quá nhiều.

Tôi định nói thêm, nhưng con tàu đã đến rồi. Nó phóng về phía chúng tôi trên những thanh ray bóng loáng, sau đó rít lên khi chậm dần rồi dừng hẳn trước sân ga. Một cái đầu thò ra khỏi toa tàu đầu tiên – là Cara, tóc cô ấy cột thành một búi chặt.

“Lên đi!” Cara gọi.

Shauna ngồi lại xuống xe lăn và tự đẩy mình qua cửa.

Matthew, Christina và Zeke theo sau. Tôi lên cuối cùng, đưa cái bình tro cho Shauna cầm hộ, rồi đứng ở ngưỡng cửa, tay nắm chặt thanh vịn. Con tàu lại lăn bánh, tăng tốc từ từ. Tôi nghe tiếng nó nghiến trên đường ray và tiếng gió rít luồn qua thanh ray, và tôi cảm thấy sức mạnh của nó đang dâng lên trong người tôi. Gió quất ngang mặt tôi và ép quần áo sát vào người, và tôi nhìn thành phố giãn rộng ra trước mắt tôi, những tòa nhà được nắng thắp sáng rực rỡ.

Nó không còn giống như trước đây, nhưng tôi đã vượt qua được cảm giác đó từ lâu rồi. Tất cả chúng tôi đều đã tìm được những nơi chốn mới. Cara và Caleb làm việc trong các phòng thí nghiệm trong đặc khu, bây giờ là một bộ phận nhỏ của Sở Nông Nghiệp, nơi chịu trách nhiệm giúp việc trồng trọt chăn nuôi hiệu quả hơn, có thể cung cấp thực phẩm cho nhiều người hơn. Matthew thì tham gia một công việc nghiên cứu tâm thần đâu đó trong thành phố – lần cuối cùng tôi hỏi thăm cậu ta thì cậu ta đang nghiên cứu thứ gì đó về ký ức. Christina làm việc trong một văn phòng giúp tái định cư cho những người ở vùng giáp ranh muốn đến sống trong thành phố. Zeke và Amar là cảnh sát, còn anh George thì huấn luyện lực lượng cảnh sát – những công việc đầy Dauntless, tôi gọi chúng như vậy. Còn tôi thì làm trợ lý cho một trong những đại biểu của thành phố trong chính phủ: cô Johanna Reyes.

Tôi vươn tay nắm cái tay vịn còn lại và vươn người ra khỏi toa tàu khi nó chạy vòng qua góc rẽ, gần như treo toòng teng phía trên cao hai tầng lầu so với mặt đường.

Tôi cảm giác thấy một cái rùng mình trong bụng, sự rùng mình vì sợ mà những Dauntless đích thực yêu thích.

“Này,” Christina đứng sau tôi mà gọi. “Mẹ anh sao rồi?”

“Ổn,” tôi nói. “Chúng ta sẽ sớm biết thôi, tôi đoán thế.”

“Anh sẽ trượt cáp chứ?”

Tôi nhìn đường tàu xa thẳm trước mặt chúng tôi, đang chạy thẳng xuống độ cao ngang bằng mặt đường.

“Có,” tôi nói. “Tôi nghĩ Tris sẽ muốn tôi thử chơi ít nhất một lần trong đời.”

Gọi tên em vẫn làm tôi hơi nhói đau, một cái véo để tôi biết rằng ký ức về em vẫn vô vàn thương mến với tôi.

Christina dõi theo đường ray phía trước và tựa vai lên vai tôi, chỉ trong mấy giây. “Tôi nghĩ anh nói đúng.”

Ký ức của tôi về Tris, một số trong những ký ức mạnh mẽ nhất mà tôi giữ, đã sạm đi theo thời gian, theo cách những ký ức vẫn thường thế, và chúng không còn nhức nhối như trước đây nữa. Thi thoảng tôi thật sự thấy thích ôn đi ôn lại chúng trong đầu, dù không thường xuyên. Đôi lúc tôi ôn lại nó với Christina, và cô ấy lắng nghe tốt hơn tôi mong đợi, với một Candor ăn nói có duyên như cô ấy.

Cara cho đoàn tàu dừng lại, và tôi nhảy xuống sân ga.

Ở bậc thang trên cùng, Shauna bước khỏi cái xe lăn và bước xuống những bậc thang với cái nẹp, từng bậc từng bậc một. Matthew và tôi khiêng cái xe không đi theo cô ấy, nó cồng kềnh và nặng trịch, nhưng không phải không thể xoay xở.

“Có tin tức gì của Peter không?” Tôi hỏi Matthew lúc chúng tôi xuống tới bậc thang cuối cùng.

Sau khi Peter tỉnh khỏi trạng thái ngu ngu đần đần của huyết thanh ký ức, một vài khía cạnh sắc sảo hơn, gay gắt hơn trong tính tình của cậu ta đã trở lại, dù không phải là tất cả. Sau đó tôi mất liện lạc với cậu ta. Tôi không còn ghét cậu ta nữa, nhưng điều đó không có nghĩa tôi phải thích cậu trai đó.

“Cậu ta đang ở Milwaukee,” Matthew nói. “Nhưng tôi không biết cậu ta đang làm gì.”

“Cậu ấy đang làm việc trong một văn phòng ở đâu đó,”

Cara nói vọng lên từ chân cầu thang. Cô ta đang kẹp bình tro vào người bằng cả hai tay, lấy từ lòng Shauna lúc xuống tàu. “Tôi nghĩ như vậy tốt cho cậu ấy.”

“Tôi đã luôn nghĩ nó sẽ nhập bọn với những tên nổi loạn GH ở khu giáp ranh cơ đấy,” Zeke lên tiếng. “Điều đó sẽ chứng minh cho những gì tôi biết về nó.”

“Cậu ấy giờ khác rồi,” Cara nhún vai.

Ngoài vùng giáp ranh vẫn còn những kẻ nổi loạn GH

tin rằng một cuộc chiến tranh nữa là cách duy nhất để chúng tôi đạt được sự thay đổi mà chúng tôi muốn. Tôi nghiêng nhiều hơn về phía muốn làm việc để tạo nên thay đổi mà không cần bạo lực. Cả đời tôi đã có đủ bạo lực rồi, và tôi vẫn còn đang phải chịu đựng nó, không phải qua những vết sẹo trên người mà là qua những ký ức cứ hiện ra trong tâm trí tôi khi tôi ít muốn nhất, nắm đấm của ba tôi nện lên quai hàm tôi, khẩu súng tôi nâng lên để xử tử Eric, xác những Abnegation trải đầy đường phố trước căn nhà cũ của tôi.

Chúng tôi đi qua những con đường để đến nơi trượt cáp. Những môn phái không còn nữa, nhưng khu này của thành phố vẫn còn nhiều Dauntless hơn các khu khác dễ dàng nhận diện bởi những gương mặt sứt sẹo và làn da xăm trổ, dù không còn qua quần áo họ mặc nữa, những bộ quần áo đôi lúc lòe loẹt. Vài người thả bộ trên đường giống chúng tôi, nhưng phần lớn đều đang đi làm – tất cả mọi người ở Chicago đều được yêu cầu làm việc nếu có thể.

Trước mặt tôi là tòa Hancock đang cong mình đâm lên trời, phần chân rộng hơn phần đỉnh. Những cây xà màu đen đuổi nhau leo lên đến tận mái, chăng ngang chăng dọc, chặt chẽ và bành trướng ra. Đã lâu rồi tôi chưa ở gần đến vậy.

Chúng tôi bước vào sảnh chờ bên trong, với những sàn nhà bóng loáng, lấp lánh và những bức tường loang lổ những hình vẽ graffiti Dauntless chói chang, được những cư dân của tòa nhà để lại làm một dạng di tích.

Đây là một nơi Dauntless, vì họ chính là những người đã trân trọng nó, vì độ cao của nó và, tôi cũng khá ngờ, vì sự cô độc của nó. Những Dauntless thích lấp đầy những nơi trống rỗng với sự ồn ào của họ. Đó là điều tôi thích ở họ.

Zeke dùng ngón trỏ nhấn nút gọi thang máy. Chúng tôi lũ lượt bước vào trong, và Cara nhấn số 99.

Tôi nhắm mắt lại khi cái thang máy phóng lên trên. Tôi gần như nhìn thấy được không gian mở toạc ra dưới chân tôi, một đường tối thui, và chỉ có một mẩu đất cứng diện tích bằng bàn chân ngăn giữa tôi và nguy cơ chìm xuống, rơi xuống, lao thẳng xuống dưới. Cái thang máy giật lên một cái trước khi dừng lại, và tôi bám vào tường để lấy lại thăng bằng khi cánh cửa mở ra.

Zeke chạm vào vai tôi. “Đừng lo, bồ tèo. Tụi này làm chuyện này suốt mà, nhớ không?”

Tôi gật đầu. Không khí tràn qua lỗ hổng trên trần, và trên đầu tôi là bầu trời xanh trong. Tôi lê tới cái thang sau mọi người, người tê đi vì sợ nên chân không thể nào đi nhanh hơn được.

Tôi mò được cái thang bằng đầu ngón tay và tập trung vào từng nấc một. Phía trên tôi, Shauna đang vụng về leo lên, phần lớn là dùng lực của cánh tay.

Có lần tôi từng hỏi cô Tori, trong lúc đang xăm những biểu tượng lên lưng, rằng cô có nghĩ chúng tôi là những người cuối cùng còn sót lại trên trái đất không. Có thể là tất cả những gì cô trả lời. Tôi không nghĩ cô ấy thích nghĩ về việc đó. Nhưng ở trên này, trên tầng thượng, hoàn toàn có thể nghĩ rằng chúng tôi là những người cuối cùng còn lại ở bất cứ đâu.

Tôi dán mắt vào những tòa nhà phía trước cái đầm lầy, và ngực tôi thắt lại, bóp nghẹt, như thể nó sắp sửa tan nát đến nơi rồi.

Zeke chạy qua phía bên kia tầng thượng để đến chỗ cáp trượt rồi treo một cái yên to bằng người lên cọng cáp bằng thép. Cậu ấy khóa lại để nó không bị trượt xuống, và háo hức nhìn nhóm chúng tôi.

“Christina,” cậu ấy nói. “Cho em đi trước đó.”

Christina đứng gần cái yên, tay nhịp nhịp lên cằm.

“Anh nghĩ sao? Nằm úp hay ngồi ngược đây?”

“Ngồi ngược đi,” Matthew nói. “Tôi muốn nằm úp để không làm ướt quần, và tôi không muốn cô bắt chước tôi.”

“Nằm úp chỉ tổ khiến nguy cơ nó xảy ra cao hơn thôi, anh biết đấy,” Christina nói. “Nên xin mời cứ làm đi để tôi có thể gọi anh là Quần Ướt Nhẹp.”

Christina trèo vào cái yên, chân vô trước, bụng hạ thấp xuống, để vừa trượt cô ấy vừa nhìn tòa nhà càng lúc càng nhỏ hơn. Tôi rùng mình.

Tôi không thể nhìn được. Tôi nhắm tịt mắt trong lúc Christina trượt đi mỗi lúc một xa, rồi ngay cả lúc tới lượt Matthew, rồi Shauna, tôi vẫn làm vậy. Tôi có thể nghe thấy tiếng reo thích thú của họ, như tiếng chim, lướt trên ngọn gió.

“Tới lượt cậu, Số Bốn,” Zeke gọi.

Tôi lắc đầu.

“Thôi nào,” Cara nói. “Vượt qua nó chẳng phải tốt hơn sao?”

“Không,” tôi nói. “Cậu đi trước đi. Xin mời.”

Cô ta đưa cái hũ tro cho tôi, rồi hít một hơi thật sâu.

Tôi ôm cái hũ trước bụng. Lớp kim loại ấm lên nơi nhiều người đã chạm vào. Cara leo vào trong cái yên, lảo đảo, rồi Zeke cài khóa cho cô ta. Cara bắt chéo tay trước ngực, và cậu ấy đẩy cô ta đi, phóng bên trên con đường Bờ Hồ, bên trên thành phố. Tôi không nghe thấy bất cứ âm thanh gì từ cô ta, thậm chí là một tiếng thở gấp.

Sau đó chỉ còn lại Zeke và tôi, nhìn nhau.

“Tôi không nghĩ mình làm được đâu,” tôi nói. Và dù giọng tôi bình tĩnh nhưng cả người tôi thì đang run cầm cập.

“Dĩ nhiên là cậu làm được rồi,” cậu ấy nói. “Cậu là Số Bốn, là huyền thoại Dauntless! Cậu có thể đối mặt với bất cứ thứ gì.”

Tôi bắt chéo tay và nhích gần hơn tới đường biên tầng thượng. Dù còn cách tới mấy mét, tôi vẫn cảm thấy như người tôi đang rớt khỏi cái rìa đó, và tôi lại lắc đầu nguầy nguậy, lần nữa, rồi lần nữa.

“Này.” Zeke đặt tay lên vai tôi. “Chuyện này không phải vì cậu, nhớ chứ? Nó là vì cô ấy. Làm điều cô ấy sẽ thích làm, điều cô ấy sẽ tự hào khi thấy cậu làm. Được chứ?”

Vậy đó. Tôi không thể né được chuyện này. Giờ tôi không thể chùn bước được, nhất là khi tôi vẫn còn nhớ nụ cười của em khi em trèo lên cái đu quay khổng lồ với tôi, hay cái quai hàm đanh lại khi em đối mặt với hết nỗi kinh hoàng này tới nỗi kinh hoàng khác trong trình mô phỏng của mình.

“Cô ấy đã leo vào như thế nào?”

“Hướng mặt về phía trước,” Zeke nói.

“Được rồi.” Tôi đưa cái hũ tro cho cậu ấy. “Hãy đặt cái này sau lưng tôi, được chứ? Và mở nắp ra.”

Tôi trèo vào cái yên, tay run tới nỗi suýt nữa không nắm được cái cạnh. Zeke khóa chặt cái khóa ngang lưng và chân tôi, rồi chèn cái hũ tro sau lưng tôi, hướng ra ngoài, để tro có thể bay ra. Tôi nhìn xuống đường Bờ Hồ, nuốt cục nghẹn, và bắt đầu trượt.

Đột nhiên tôi muốn lùi lại không làm nữa, nhưng đã quá trễ rồi, tôi đã đang phóng thẳng xuống mặt đất rồi.

Tôi la lên to thật to, tôi muốn bịt tai lại. Tôi cảm giác được tiếng la từ bên trong con người tôi, đang lấp đầy lồng ngực tôi, cổ họng tôi, và đầu tôi.

Gió làm mắt tôi đau rát nhưng tôi buộc chúng phải mở ra, và trong khoảnh khắc hoảng sợ mù quáng của mình, tôi hiểu ra tại sao em lại muốn trượt kiểu này, hướng mặt về phía trước – vì nó khiến em cảm giác như đang bay, như thể em là một con chim.

Tôi vẫn có thể cảm thấy sự trống trải bên dưới tôi, và nó giống như sự trống trải bên trong tôi, như một cái miệng sắp sửa nuốt chửng tôi.

Rồi tôi nhận ra tôi đã ngừng di chuyển. Những mẩu tro cuối cùng lơ lửng trên đầu gió như những bông tuyết màu xám, rồi biến mất.

Mặt đất chỉ cách chân tôi có mấy nét, đủ gần để nhảy xuống. Những người khác đã tụ lại bên dưới thành một vòng tròn, tay họ bắt chéo lên nhau để tạo thành một tấm lưới toàn xương và bắp thịt để đỡ tôi. Tôi úp mặt xuống cái yên và bật cười.

Tôi ném hũ tro trống không xuống cho họ, rồi vặn tay sau lưng để tháo dây đai. Tôi rơi xuống vòng tay của bạn bè tôi như một hòn đá. Bọn họ đỡ tôi, xương họ đâm vào lưng và chân tôi, rồi hạ tôi xuống đất.

Có một khoảnh khắc ngượng ngùng khi tôi bâng khuâng ngước mắt nhìn tòa Hancock, và không ai biết phải nói gì. Caleb mỉm cười với tôi, cẩn trọng.

Christina chớp mắt cho khỏi khóc và kêu lên, “Ồ! Zeke đang trượt xuống rồi kìa.”

Zeke đang lao về phía chúng tôi trong một cái yên màu đen. Thoạt tiên nhìn nó giống như một dấu chấm, rồi một giọt mực, rồi một người quấn tuyền màu đen. Cậu ấy hú lên khoái trá khi từ từ dừng lại, và tôi vươn tới nắm bắp tay chú Amar. Còn phía bên kia, tôi túm cánh tay xanh xao của Cara. Cô ta mỉm cười với tôi, và trong nụ cười đó có gì đó buồn buồn.

Vai Zeke đập vào tay chúng tôi, mạnh, và cậu ấy cười hết cỡ khi để chúng tôi đong đưa cậu ta như một đứa con nít.

“Hay quá là hay. Chơi lần nữa không Số Bốn?” Cậu ấy hỏi.

Tôi trả lời ngay không do dự. “Chắc chắn là không.”

Chúng tôi dàn hàng rảo bước về lại chỗ con tàu. Shauna đi bộ với cái nẹp của cô ấy, Zeke đang đẩy cái xe lăn không và trò chuyện với chú Amar. Matthew, Cara và Caleb đi với nhau, nói chuyện về thứ gì đó khiến cả ba bọn họ đều hào hứng, thật đồng tâm hợp ý. Christina rụt rè tới gần tôi và đặt một tay lên vai tôi.

“Mừng ngày Lễ Chọn,” cô ấy nói. “Tôi sắp sửa hỏi anh thật sự cảm thấy sao rồi. Và anh sẽ phải trả lời tôi thành thật đấy.”

“Tôi ổn,” tôi nói. “Khó khăn. Sẽ luôn là vậy.”

“Tôi biết,” cô ấy trả lời.

Chúng tôi đi đằng sau cả nhóm, ngang qua những tòa nhà vẫn còn bỏ hoang với những ô cửa sổ tối mù, đi qua cây cầu bắt qua bãi đầm lầy của con sông.

“Ừ, thỉnh thoảng đời dở tệ,” cô ấy nói. “Nhưng anh biết tôi đang sống tiếp vì điều gì không?”

Tôi nhướn mày.

“Những giây phút không dở,” cô ấy nói. “Mánh là cứ chú ý đến chúng khi chúng hiện diện thôi.”

Rồi cô ấy mỉm cười, và tôi cười lại, và chúng tôi cùng nhau leo những bậc thang dẫn lên sân ga.

Từ lúc còn nhỏ, tôi đã luôn biết điều này: Cuộc sống phá hủy chúng ta, tất cả mọi người. Chúng ta không thể thoát khỏi sự phá hủy đó.

Nhưng bây giờ, tôi còn học được điều này: Chúng ta có thể được cải hoán. Chúng ta cải hoán lẫn nhau.