6- Tâm Hồn Bao Dung
Thói đời ai cũng thích cho người ta khen mình tài giỏi, đạo đức v.v… Còn khi nói tới người khác, lời khen thì ít, lời chê thì nhiều. Người ta chỉ nhìn phiến diện nên sự khen chê ít khi công bằng, có khi việc đáng khen lại bỏ qua không khen, mọi việc sơ sót thì chê bai làm lớn truyện, rồi dư luận xuyên tạc, thêm mắm thêm muối, bớt đầu thêm đuôi, cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo, phán đoán một cách bất công chỉ vì yêu hay ghét bộ mặt đẹp, xấu, lời nói khéo chiều ý người bị hàm oan mang tiếng xấu thiệt thôi. Nếu bình tĩnh xét về tình người mà mình bất bình, sẽ thấy họ không hoàn toàn xấu như mình nghĩ; cho đến khi người hay bị chỉ trích nằm xuống bây giờ mới được minh oan, công tội dư luận sẽ công bằng hơn, nhưng người quá cố còn nghe hay cãi được nữa đâu.
Khi người Việt tị nạn mới tới Hoa Kỳ, tại các trại chuyển tiếp người còn ít, nhiều gia đình cứ tưởng dành được căn phòng rộng rãi cho gia đình thoải mái tạm trú chờ người bảo trợ để đi định cư, nhưng mỗi ngày các chuyến máy bay đổ xuống thêm nhiều người nữa và được phân phối vào các phòng, không ai có quyền dành riêng cho gia đình mình mà phải ở chung, nên người tới trước ở giường tầng trệt, ở sau phải trèo lên giường tầng trên, loại giường nhiều tầng của trại binh, người lớn tuổi ở tầng dưới, trẻ em thích leo trèo ở giường tầng trên. Vì cảnh tị nạn vừa lo vừa buồn, dù ở chật chột, ồn ào nhưng người ta dễ thông cảm nhau, ít có cảnh dành giật đồ dùng, thực phẩm; nếu cần được giúp đỡ giấy tờ, hỏi thăm tin tức, tìm thân nhân, trẻ lạc, ai ai cũng sẵn sàng giúp đỡ chỉ bảo những điều họ biết.
Theo luật lệ không một người tị nạn nào được ra khỏi trại để đi định cư nếu không được người bảo trợ tới lãnh ra, nên việc được bảo trợ đã trở thành một vấn đề lo âu đối với dân tị nạn vì biết ai, nhà thờ nào tới lãnh gia đình mình đi định cư đây? Luật lệ lại cũng ấn định rằng người tị nạn được phân tán khắp nơi trên toàn cõi Hoa Kỳ, nên người thì đi miền Bắc lạnh lẽo cô đơn, kẻ đi miền Nam ấm áp ẩm thấp, người ở thành thị, kẻ ở đồng quê.
Nhiều gia đình gặp được người bảo trợ có lòng nhân ái, giúp đỡ tận tình, tìm chỗ ở, công ăn việc làm nhiều người không may gặp phải người bảo trợ lợi dụng lãnh dân tị nạn về giúp việc nhà hay làm trong nông trại, phần nhiều không hợp với khả năng và thù lao không tương xứng, nhiều gia đình bị lâm vào cảnh sống dở chết dở không khác gì dân nô lệ ngày trước; có một gia đình được ông sĩ quan cố vấn đơn vị ngày trước tới bảo lãnh đưa về cho ở giữa một vườn cam rộng bao la, hoàn toàn bị cô lập, muốn ra ngoài nhưng không có xe, không thuộc đường, mỗi tuần được tiếp tế thực phẩm một lần, cả gia đình bị phân công chăm sóc trại trồng cam, đời sống tị nạn tưởng thật bi đát nhưng rồi gia đình này cũng thoát ra khỏi, lần về trại Fort Chaffee xin tái nhập vào trại, để rồi lại chờ người bảo trọ khác. Hầu hết người bảo trợ (sponsor) đều là người tốt, thương người tị nạn bơ vơ, số bảo trợ “thực dân” chỉ có một hay hai người mà thôi.
Câu truyện bảo trợ của gia đình này được loan truyền khắp trại nên bà con chuẩn bị kỹ lưỡng, học hỏi kinh nghiệm để rồi ngồi chờ, ai là người tới bảo trợ gia đình đi định cư đây? Tuy lo âu đấy nhưng ai cũng vui mừng vì tới được đất tự do, thoát được nạn cộng sản tức là thoát cảnh ngục tù, đói khổ, mỗi người tị nạn đều đem theo một tâm trạng não nùng, ít có gia đình nào đi được toàn vẹn; có gia đình thiếu cha, thiếu mẹ, thiếu chồng, thiếu con, thiếu anh, thiếu em, rồi lan man nghĩ tới cả thiếu bạn bè, hàng xóm, thân thuộc.
Nhiều người tị nạn chỉ thoát đi được một mình, cả gia đình bị rớt lại nên sống trơ trọi ở trại; có gia đình bà mẹ mang đi chín người con, đứa trẻ nhất còn đang bú sữa mà ông chồng bị kẹt lại, hỏi bà ấy lo âu đến mức nào? Nhưng rồi đời sống tị nạn cũng được ổn định dần dần, nhờ ở lòng từ tâm của các nhà thờ, lòng thương người rất đánh kính phục của dân chúng Hoa Kỳ, và cũng nhờ ở lòng bao dung của chính những người tị nạn biết bao bọc nhau “lá lành đùm lá lách”.
Trại chuyển tiếp đã được đóng cửa, dân tị nạn Việt Nam đã được định cư trên khắp nước Mỹ kể cả tiểu bang Alaska, nơi lạnh lẽo nhất cũng có hàng chục gia đình định cư và chẳng bao lâu dân mình tìm cách về ở gần nhau, tụ lại ở những nơi ấm áp hơn, những nơi công ăn việc làm sẵn, những nơi có trường học tốt cho con cái, nên hiện nay đời sống của gần triệu người Việt trên đất Hoa Kỳ này đã thấy thịnh vượng không kém bất cứ sắc dân nào khác và có vẻ trội hơn nữa, nhiều khu buôn bán của người Việt đã mọc lên ở khắp nơi như Little Saigon ở California, Houston, San Jose, Chicago v.v..
Dân tị nạn Việt làm ăn khá giả ở Hoa Kỳ thì cũng do đó, nhiều đoàn thể được thành lập, cơ quan truyền thông như báo chí, đài truyền hình, phát thanh phát triển mạnh; đời sống được ổn định nên có nhiều bộ mặt tốt cũng như xấu, đố kỵ nhỏ nhen cũng được phơi bầy nên mới có nhiều dư luận bàn ra tán vào, nhưng cộng đồng người Việt vẫn sống an hòa tuy cũng có một vài khi sóng gió nổi lên. Trong công cuộc định cư người tị nạn Việt Nam, khi mà nguồn những người, cũng như nhà thờ bảo trợ khan hiểm dần, thì các hội thiện nguyện vẫn tiếp tục lo việc định cư, nhưng cũng là lúc các hội đoàn của người tị nạn bắt tay vào việc đóng góp giúp người đồng hương an cư lập nghiệp.
Ngay những năm đầu tiên của chương trình tị nạn gần 400 anh em trong binh đoàn Nhẩy Dù ở Fort Chaffee được bảo trợ ra định cư ở một tỉnh miền Trung Hoa Kỳ, với kế hoạch nhận ra từng toán 4 người một, sau khi tìm được việc làm, mua được xe hơi, thì mỗi người trong toán lại bảo trợ 4 người khác nữa, rồi cứ thế nhân lên, công việc làm ăn ở tỉnh này đã được một hội đoàn lo liệu rất sẵn nhưng vấn đề khó khăn là nếu không có xe hơi riêng thì không thể đi làm được vì hệ thống xe bus không thuận lợi, mà thành phố thì lại qúa rộng. Vậy làm thế nào để anh em mua được xe, vừa mới ra định cư, công ăn việc làm chưa vững, anh em đâu có đủ “credit” để mua xe dù là xe cũ, mấy ai có tiền sẵn để trả tiền cọc.
Để giải quyết nỗi khó khăn này, ông P., giám đốc chương trình tìm việc làm đã xung phong, bất chấp thân sơ, đứng ra bảo lãnh (co-sign) mua hơn 200 xe cho dân tị nạn trong đó có anh em Nhẩy dù, nhiều người nghĩ rằng đây là một hành động liều lĩnh, nhưng ông P. tỉnh bơ nói rằng “Giúp được là tôi giúp để cho anh em được lạc nghiệp”, và kết quả vô cùng đẹp đẽ là anh em đều trả tiền đầy đủ có đi ở tiểu bang khác cũng vẫn trả tiền.
Các hội thiện nguyện đưa ra người tị nạn về tỉnh này định cư, có hội chỉ cấp cho mỗi đầu người một ngân khoản 200 mỹ kim, thế là hết và phải lo liệu lấy, lạ nước lạ cái, tiếng nói không thông nhiều người còn biết xoay xở ra sao, sau khi tiêu hết tiền lại phải chạy đến ông P. là có công ăn việc làm, không có chỗ ở ông đưa về nhà riêng tạm trú, ai có việc gì cần nhờ đến ông P. ít khi bị từ nan; đã một lần, một thanh niên tị nạn dở điên dở khùng lang thang ngoài đường phố, ông P. bắt gặp đã dám đưa về nhà nuôi dưỡng, dù trong lúc đó ở nhà còn mấy cô con gái lớn chưa lập gia đình, rồi chính anh thanh niên điên được nuôi nấng ấy, thừa lúc cả nhà đi làm đi học, ăn cắp một cây đàn guitare điện đáng giá 500 đồng mang đi bán lấy 30 mỹ kim để đi uống la de. Ông P. chỉ cười trừ và tiếp tục giúp đỡ hết người này đến người kia.
Nhưng nhân vô thập toàn, ông bà và các con lớn vẫn phải đi làm, số thu có hạn, mà khi ông giúp tha nhân vì lòng thương, ông đã không lượng được khả năng tài chánh trong nhà, rồi lại vướng vào vụ bảo lãnh vay tiền hộ bạn bè, nên có lúc đã không giữ được chữ tín đổi với người khác. Nhiều người không hiểu được công việc ông đã làm một cách vô vị lợi, nên khi còn sinh thời ông P. cũng bị dư luận nói xấu nhiều tốt ít.
Nhưng khi nghe tin ông P. đau nặng, nhiều người đã tới tỏ tình, thăm hỏi hơn, cụ thể hơn, đám táng của ông đã có mấy trăm người tới nghiêng mình tỏ ý biết ơn ông, trong số đó có nhiều cặp vợ chồng cùng con cái đến chịu tang vì chính ông đã đứng chủ hôn giúp gầy dựng gia đình, nhiều người đã nhờ ông tìm công ăn việc làm và đừng bảo lãnh mua xe. Nếu căn cứ vào dư luận mà xét đoán thì ông P. khi nằm xuống đã không có cảnh được ưu ái như trên.
Người cộng sản đã đặt thông tin, tuyên truyền dối trá lên hàng đầu, gây dư luận xấu cho người quốc gia, họ đã thành công vì kiên nhẫn cứ nói đi nói lại, gieo vào đầu óc mọi người mãi, rồi từ hoài nghi dần dần đến tin tưởng sự dối trá là thật, nên người quốc gia đã có câu “Nói như Vẹm”.
Người ta rất sợ dư luận nếu mình làm trái và không nên sợ dư luận khi sự thật bị bóp méo. Trong lịch sử nước Việt, vì dư luận, biết bao nhiêu vị trung quân ái quốc, những vị chính nhân quân tử, anh hùng hào kiệt đã bị thất sủng, bạc đãi, ô danh rồi được lịch sử phục hồi danh dự. Những người nghe dư luận bàn tán không đủ khách quan suy xét, nhận chân thực giả, lại xu thời, đã làm thiệt hại cho đại cuộc, cho đất nước, cho những người chân chính có tinh thần bao dung.