Chương 10 ÔNG CÔNG TƯỚC ĂN NẾN
Pháo đài cổ Bhangarh Fort là toà pháo đài ma ám nổi tiếng. Nghe nói dưới thời thực dân cai trị, chủ nhân của pháo đài cổ là há tước Marble tôn thờ giáo phải Máu Đen, uống máu người để được hất tử. Sau khi sự việc bại lộ, dân làng phẫn nộ kéo tới pháo đài, hắc bá tước Marhle, bôi sáp nến lên khắp người rồi buộc vào cọc đá thiêu sống. Cô con gái của bá tước là Jessica vốn không hề hay biết về tội ác của cha mình cũng bị lôi ra hiếp dâm tập thể rồi sát hại dã man.
Hơn một tháng sau khi sự việc xảy ra, dân làng mắc phải một căn bệnh lạ, chết như ngả rạ. Những người sống sót lũ lượt bỏ trốn khỏi làng. Theo lời họ kể lại, cứ đến nửa đêm, trong pháo đài cổ lại xuất hiện một ông già di lang thang, tay cầm nến, vừa đi vừa ăn.
Tôi đang dỏng tai chờ nghe Nguyệt Bính kể tiếp, nó lại thình lình hỏi tôi: “Bí Ngô, theo mày thì trên đời này, chuyện gì là đáng sợ nhất?”
Đã trải qua bao nhiêu chuyện kinh dị, với một kẻ nhát gan như tôi, để trả lời câu hỏi này chắc phải dùng đến một bảng danh sách liệt kê.
“Mày cũng biết là tao đã trải qua đủ chuyện ma quái rùng rợn nhưng chả bao giờ chóp mắt, chỉ riêng chuyện này, cho đến giờ nghĩ lại vẫn thấy ớn lạnh.” Nguyệt Bính nói rồi rùng mình một cái.
Tôi hào hứng hẳn. Một chuyện khiến cho Nguyệt Bính cũng phải sợ hãi hẳn không phải bình thường: “Là chuyện ma ám ở pháo đài cổ Bhangarh Fort phải không?”
“Không phải?” Nguyệt Bính ra vẻ thần bí. “Là một chuyện xảy ra trên tàu.”
Tôi lập tức mường tượng ra những toa tàu cũ kỹ. Chúng giống như những cỗ quan tài khổng lồ, chạy khắp mọi nơi, hấp thu đủ loại địa khí. Sở dĩ ban đầu, tàu hoả được sơn màu xanh, là vì một nguyên nhân rất đáng sợ...
Ấn Độ là nước đầu tiên ở châu Á sở hữu hệ thống đường tàu dài nhất, ngành đường sắt rất phát triển và đi cùng với đó là biết bao nhiêu chuyện rùng rợn ma quái.
“Chuyện gì thế? Mày kể xem nào!” Tôi giục.
Nguyệt Bính bóp trán, than thở: “Cả đời này tao không muốn trải qua lần thứ hai.”
“Mày cứ úp úp mở mở để câu like với ai thế?” Tôi bực dọc.
“Binh đoàn xác sống!”
❀ 1 ❀Tại phòng chờ dành cho khách nước ngoài ở nhà ga tại Bhangarh Fort, Ấn Độ.
Khách ngồi trong phòng chờ không nhiều, khác hẳn với cảnh tượng biển người nghìn nghịt thường thấy ở các nhà ga Ấn Độ, cứ như đã lạc vào một quốc gia khác. Nguyệt Bính ngẩn ra một lát rồi lấy chiếc máy ảnh Leica M9 mạ bạch kim phiên bản limited ra lau chùi ống kính.
“Máy ảnh của anh xịn thật đấy.” Cô gái tóc vàng ngồi đối diện với Nguyệt Bính thốt lên lời khen ngợi với giọng tiếng Anh rất Anh. “Rất nhiều quý ông người Anh dù chẳng biết chụp ảnh cũng rất thích mang theo loại máy ảnh này.”
Nguyệt Bính ngẩng lên. Một cô gái tóc vàng mang giày Nike, quần Jeans, áo thun in hình Hello Kitty. Lúc Nguyệt Bính bước vào phòng chờ, đã thấy cô ta dán mắt vào máy tính bảng, cho tới khi Nguyệt Bính lấy máy ảnh ta mới chủ động bắt chuyện.
“Tôi không nghĩ một kẻ thích mang theo những thứ mình không biết dùng lại được gọi là quý ông.” Nguyệt Bính đóng máy ảnh lại, cười đáp.
Cô gái cười tinh nghịch: “Tôi cũng thấy như vậy là rất giả tạo. Tôi là Jessica, người Anh, rất vui được làm quen với anh.”
Nguyệt Bính gật đầu: “Tôi là Nguyệt Bính, rất vui được làm quen với cô.”
“Anh đi Bhangarh Fort à?” Jessica rõ ràng rất có thiện cảm với Nguyệt Bính, cặp mắt to xanh biếc lúc nào cũng như tươi cười.
Nguyệt Bính có vẻ hơi mất tự nhiên trước ánh nhìn của Jessica, chỉ “ừ” một tiếng.
“Tôi là nhà văn, đang viết một câu chuyện về pháo đài cố Bhangarh Fort, không chung chúng ta cùng đường cũng nên.”
Nguyệt Bính kể tới đây, tôi vừa ngưỡng mộ lại vừa ghen tị chết lên được. Nhìn cái tướng đẹp trai lồng lộng của nó, tôi chửi thầm trong bụng: “Đúng là cái dạng đào hoa thành thần!”
Lúc đó, Nguyệt Bính thấy hơi bất ngờ: “Thật là trùng hợp, tôi cũng tới pháo đài cổ Bhangarh Fort.”
“Anh tới đó bắt ma à?” Jessica hạ giọng thì thào. “Đó là pháo đài bị ma ám nổi tiếng nhất Ấn Độ đấy. với lại người Ả Đông rất giỏi bùa phép mà.”
“Biết đâu lại trở thành tư liệu sống của cô đây.” Nguyệt Bính bật cười. “Tôi đi du lịch thôi.”
“Vậy ư?” Jessica tắt máy tính bảng, ngồi dịch lại gần Nguyệt Bính. “Hồi ở Anh, tôi có nghe ông nội kể một câu chuyện rất ly kỳ, anh có muốn nghe không?”
“Dầu hoả ở Ấn Độ chẳng bao giờ đúng giờ, hi vọng trước khi tàu đến, cô sẽ kể xong câu chuyện.” Nguyệt Bính gật gù.
Jessica mỉm cười, im lặng một lúc tựa như hồi tưởng, sau đó bắt đầu kể.
❀ 2 ❀Vào thời thực dân Anh cai trị Ấn Độ, người Anh đã xây dựng rất nhiều pháo đài làm chỗ ở cho quý tộc. Đó cũng là nơi họ tích trữ hương liệu, vàng bạc, đợi công ty Đông An cho người đến thu mua rồi vận chuyển về Anh.
Thực dân Anh còn xây dựng làng mạc ở gần pháo đài để thu hút người nghèo Ấn Độ tới định cư, tiện cho việc thuê mướn nhân công.
Khi công tước Marble đi xe ngựa tới pháo đài cổ Bhangarh Fort, ông đã phải bàng hoàng trước vẻ tráng lệ của công trình kiến trúc này. Ông không thể ngờ được rằng, ông chú chưa một lần gặp mặt mới chỉ hơn ba mươi năm đã tích cóp được khối tài sản kếch xù nhường này. Thật may mắn là ông chú sống độc thân đến chết, nên khối tài sản đương nhiên đã rơi vào tay ông. Khi nhận được bản di chúc của ông chú, mẹ ông mới ngập ngừng tiết lộ cho ông biết, ông chú rất đam mê những trò ma quái, sống phiêu bạt ở Anh, thường lén lút quật mộ, lấy trộm hài cốt để nghiên cứu những món quỷ thuật, sau bị phát hiện nên đã lên con tàu của công ty Đông An bỏ trốn sang Ấn Độ. Lúc đó ông vẫn chưa ra đời, gia đình coi chuyện này là vụ tai tiếng nên đã không nói cho ông biết.
Khối tài sản từ trên trời rơi xuống khiến công tước Marble nghèo túng sung sướng ngất ngây, chẳng thèm quan tâm xem ông chú thích nghiên cứu người chết hay người sống, bất chấp lời khuyên can của mẹ, hồ hởi lên tàu đen Ấn Độ.
“Mình đã lựa chọn đúng.” Công tước Marble đứng trước pháo đài, phấn khởi nghĩ thầm.
Quản gia Dodd là một ông già người Anh đã ngoài sáu mươi, có giọng nói trầm vang như tiếng chuông đồng hồ Big Ben càng khiến Marble cảm thấy hài lòng. Ông hỏi vài câu liên quan đến cái chết của ông chú, câu trả lời mà ông nhận được là, ông chú chết vì chứng thấp nhiệt, trước khi chết toàn thân lở loét. Marble cố gắng bày ra vẻ mặt đau buồn trước lời kể của ông quản gia.
Ông tới trước mộ ông chú, thấy trên cây thánh giá dựng trước mộ có khắc hai dòng chữ: “Henry Marble, 1714- 1778.”
Marble khẽ cúi đầu trước mộ, rồi nhanh chóng quay trở lại pháo đài.
“Thưa ngài công tước, ở đây có tất cả mười sáu người làm, mười nam và sáu nữ. Cố công tước thích ở trên tầng ba, xin hỏi ngài chọn tầng nào?” Dodd kính cẩn hỏi.
“Vậy thì tôi cũng sống ở tầng ba.” Marble ngáp dài. Cả ngày trời trên xe ngựa khiến ông mệt mỏi. “Phải rồi, sao ngôi làng kia ít người ở thế?”
“Thưa ngài, là do công ty Đông An vơ vét tài nguyên chở về châu Âu dẫn đến nạn đói kinh hoàng ở Bombay năm 1770, người chết đói lên tới hàng ngàn, dân số sụt giảm chóng mặt.” Dodd cúi đầu lịch sự đáp.
“Thế thì số người phục dịch cho chúng ta cũng sụt giảm theo phải không?” Marble nhún vai, kiêu hãnh bước vào pháo đài.
Dodd nhìn theo bóng của Marble rồi quấn chặt lại chiếc khăn trên cổ.
❀ 3 ❀Marble nằm dài trên giường uống rượu vang, nhưng nghĩ đến chuyện nằm trên chiếc giường này từng là cái xác của ông chú, trong lòng lại hơi gờn gợn. Ông chú chết trong trạng thái toàn thân lở loét, thế thì liệu tấm drap trải giường... Ngày mai ông sẽ bảo Dodd thay giường khác, ông chẳng thiếu tiền.
Marble hơi ngà ngà say, mí mắt nặng trĩu, ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
“Thưa ngài công tước, xin mời xuống nhà dùng bữa.” Có tiếng Dodd gọi khẽ từ tầng dưới.
Marble choàng tỉnh, quệt vầng trán ướt mồ hôi. Vừa nãy ông đã gặp một cơn ác mộng. Trong mơ, ông thấy mình toàn thân nổi mụn nước dày đặc, máu mủ vỡ ra, thấm loang lổ trên tấm drap trải giường. Ông muốn đưa tay lên lắc chuông gọi quản gia, nhưng lại thấy tay mình dính chặt vào tấm drap, nên chỉ có thể hét lên thật lớn. Cửa phòng mở ra, do sáp bóng nên ông không nhìn rõ người vào phòng là ai, chi nghe thấy giọng nói: “Đây là sự lựa chọn rất chính xác.”
Dodd lại gọi vọng lên: “Thưa ngài công tước, hôm nay có món gà hầm bơ, bít tết tiêu đen, rượu vang Bordeaux, do thời gian chuẩn bị gấp gáp, chưa thể làm theo đúng quy cách bữa ăn đầu tiên khi người quý tộc đến chỗ ở mới, mong ngài thứ lỗi.”
Marble vừa mặc quần áo vừa lên tiếng đáp lại, rồi bực dọc đưa mắt nhìn chiếc giường gỗ, quyết định ngay hôm nay sẽ đổi chiếc giường khác.
Ra khỏi phòng ngủ, lại thấy Dodd từ dưới nhà gọi vọng lên cứ như thúc giục, ông càng bực bội: “Phải thay luôn cả cái ông Dodd này nữa!”
Đang định quở trách, bỗng một bàn tay từ sau lưng vòng ra bịt miệng ông lại.
“Ngài công tước, đừng lên tiếng!” Là giọng của Dodd.
“Dodd, ông làm quản gia cái kiểu gì vậy?” Marble giận dữ vùng vẫy, quát lên.
“Thưa ngài, xin ngài hãy nghe đi.” Trong ánh mắt của Dodd lộ rõ vẻ khiếp sợ.
Marble ngấn người, lại nghe thấy tiếng Dodd gọi ầm lên ở dưới nhà: “Thưa ngài công tước, mời ngài xuống dùng bữa.”
“Ông... ông là ai?” Marble suýt ngất.
“Thưa ngài, cố công tước trước đây không phải chết vì bệnh thấp nhiệt.” Dodd lần thắt lưng lấy ra một chiếc chìa khóa đã hoen gỉ, đặt vào tay Marble. “Chốc nữa ngài sẽ nghe thấy giọng của ngài ngay thôi.”
“Dodd, bữa tối rất thịnh soạn, cảm ơn ông. À, phải rồi, ông cho thay chiếc giường gỗ cao su trên phòng luôn đi nhé.”
Thực vậy, Marble nghe thấy giọng của mình từ dưới nhà vọng lên.
Là ma? Hai hàm răng Marble va vào nhau lập cập.
“Mọi việc đều xuất phát từ chiếc chìa khóa này.” Dodd giơ ngón trỏ ra hiệu im lặng rồi dỏng tai nghe ngóng.
Dưới nhà, Dodd và Marble vẫn đang trò chuyện, cho tới khi tiếng thu dọn bát đĩa vọng lên loảng xoảng, tất cả mới trở lại như cũ.
“Họ ăn xong rồi, giờ thì chúng ta có thể xuống dưới đó.” Dodd thắp một cây nến trắng. Marble nhìn thấy toàn thân ông ta bao phủ trong một thứ vật chất màu trắng kỳ dị, đôi giày da bò cọ xuống thảm lột xột, chầm chậm bước xuống dưới nhà. “Thưa ngài công tước, đừng sợ, cứ đi theo tôi.”
Trên bàn bày món gà hầm bơ, bít tết tiêu đen, rượu vang Bordeaux, vẫn chưa có ai động đến. Cây nến to bằng cổ tay bập bùng ánh lửa vàng sẫm, phản chiếu lấp loáng trên từng đĩa thức ăn.
“Ngài công tước, mời dùng bữa.” Dodd thản nhiên như chưa hề có chuyện gì xảy ra, vuông khăn trắng tinh vắt trên cánh tay trái, kính cẩn nhấc chai rượu vang lên.
“Do... Dodd, ông nghĩ tôi có ăn nổi không?” Marble không muốn ở lại pháo đài một giây phút nào nữa, nhưng nhìn ra ngoài trời tối đen như mực, lại thấy ngần ngừ.
“Đây là lời trăng trối cuối cùng của cố công tước, ngài phải dũng cảm ăn xong bữa tối này mới có thể tiếp quản pháo đài, đồng thời biết được toàn bộ sự thật.” Dodd rót rượu vang vào ly thuỷ tinh chân cao, màu rượu sánh đỏ như máu.
Marble nghĩ ngợi một lát rồi ngồi xuống ghế, cắm cúi ăn.
Ông đã đưa ra lựa chọn!
Ông không muốn trở về nước Anh với phong độ quý ông giả tạo và thân phận quý tộc suy vong, cảm giác tự ti đó còn đáng sợ hơn cả việc đối mặt với bầy ma quỷ.
❀ 4 ❀“Bây giờ đã nói được chưa?” Marble nhấc khăn ăn lên lau miệng, thực ra nãy giờ ông chẳng biết mình đã bỏ vào miệng những gì.
Dodd thở phào: “Cố công tước chọn người rất chính xác, ngài đúng là có lòng can đảm của dòng họ Marble. Xin ngài hãy quan sát kỹ chiếc chìa khoá.”
Marble đặt chìa khoá lên bàn. Tuy ông chẳng hiểu gì về khoá và chìa khoá, nhưng vẫn nhận ra chiếc khoá không phải là sản phẩm của thời đại này. Chìa khoá đồng bám đầy gỉ xanh, hai mặt chạm khắc hình mãng xà, nghệ thuật chạm khắc rất tinh xảo, thậm chí còn nhìn thấy rõ từng lớp vảy li ti. Hai cái đầu rắn làm thành chuôi chìa khoá, lưỡi quấn vào nhau tạo thành cái móc hình bầu dục.
“Đây là di vật mà cố công tước để lại cho ngài, trước lúc lâm chung, cố công tước còn dặn tôi, nếu ngài biết được bí mật của thư phòng thì sẽ biết được tác dụng của chìa khoá.” Dodd thu dọn bát đĩa. “Tất cả các phòng trong pháo đài đều có chìa khoá riêng, còn chiếc chìa khoá này, thực sự là tôi cũng không biết dùng để làm gì.”
“Thế còn những giọng nói vừa nãy?” Marble vẫn chưa hết sợ hãi nên không còn tâm trí nào mà suy nghĩ về những lời rắc rối mà Dodd vừa nói.
“Là ma đấy.” Những bát đĩa bằng bạc kêu lanh canh trên tay Dodd, khiến giọng của ông ta trở nên lạnh lẽo khác thường. “Khi cố công tước chọn nơi này để xây dựng pháo đài, tôi đã từng can ngăn ông ấy, nhưng ông ấy vẫn khăng khăng theo ý mình. Sau khi pháo đài xây xong, ở đây đã xảy ra rất nhiều chuyện kỳ quái.”
Marble thấp thỏm: “Thế còn cái chết của ông ấy?”
Dodd lắc đầu gượng gạo, dưới ánh nến vàng, sắc mặt của ông ta vẫn tái mét tựa như xác chết từ trong mộ bước ra: “Sống trong pháo đài Bhangarh Fort, sau bữa tối không được ra khỏi phòng, bất kể bên ngoài xảy ra chuyện gì cũng phải hết sức bình tĩnh. Sau mười hai giờ đêm không được uống nước, không được thắp nến, càng không được đi vệ sinh. Chỉ cần làm được Những điều này, ngài có thể yên tâm làm chủ nhân của pháo đài.”
“Tôi cần một lời giải thích hợp lý.” Marble sợ sệt đưa mắt nhìn xung quanh, phòng ăn rộng thênh thang chỉ có hai người họ, bàn ăn hình chữ nhật vuông vức như cỗ quan tài, bên trên cắm một dãy nến trắng toát, trông rùng rợn không thể tả.
“Khi chọn địa điểm xây dựng pháo đài, tôi từng nghe dân địa phương nói rằng, vào thời đế quốc Maurya, từng có một ngôi làng toạ lạc ở vùng núi này, nhưng chỉ trong một đêm, toàn bộ dân làng đều mất tích. Truyền thuyết nói rằng, toàn bộ dân làng đã phạm phải điều cấm kỵ nào đó của thần Shiva nên đã bị trừng phạt. Từ đó về sau, ngọn núi này thường xuyên bị ma ám. Có người lên núi săn thú, đến khi xuống núi, thình lình phát hiện ra đám thỏ, gà rừng săn được đã biến thành một đống xương người. Cứ nửa tháng một lần, nước suối trên núi lại đỏ ngầu như máu, còn thường xuyên nghe thấy tiếng người gào khóc, nhưng chẳng nhìn thấy một ai. Đây cũng là lý do tôi can ngăn cố công tước xây dựng pháo đài ở đây.”
Quản gia kể rất điềm tĩnh, nhưng Marble nghe mà hồn vía lên mây: “Vậy tại sao chú vẫn lựa chọn chỗ này?”
Dodd lắc đầu: “Tôi không biết. Sau khi pháo đài xây xong, một hai tháng đầu không có chuyện gì bất thường, tôi ngỡ tin đồn khủng khiếp này chỉ là lời bịa đặt của dân địa phương nhằm xua đuổi chúng tôi. Nhưng vào một đêm mưa to gió lớn, chuyện khủng khiếp đã xảy ra...”
“Uỳnh!” Bên ngoài bỗng dội lên tiếng sấm vang rền, gió hú cuồng loạn, lùa vào khe cửa sổ. Nến trên bàn ăn bập bùng, hắt bóng nghiêng ngả như ma quỷ múa vờn. Không khí trong phòng ăn lại càng thêm ma quái.
Quản gia Dodd ánh mắt mơ màng, nhớ lại cảnh tượng xảy ra trong cái đêm của một năm về trước...
❀ 5 ❀Theo nguyên tắc làm việc của quản gia từ bên Anh, Dodd đi kiểm tra tất cả các phòng, đóng chặt cửa sổ rồi thắp một cây nến đặt trên bàn chính giữa phòng khách.
Đây là một truyền thống cổ xưa, nghe nói bắt nguồn từ thế kỷ 10, cho rằng ban đêm thắp nến trong phòng, sẽ tránh được ma quỷ quấy nhiễu. Nhà ở lâu năm kiểu gì cũng có linh hồn quanh quẩn, hoặc là người thân qua đời nhưng còn quyến luyến chưa muốn đầu thai, hoặc là trẻ sơ sinh chết yểu. Nếu trong nhà có quá nhiều linh hồn như vậy, họ sẽ tụ tập lại bên cây nến, khiến người ngủ trong nhà thường nghe thấy những âm thanh lạ.
Dodd quan sát một lúc, lấy đồng hồ quả quýt ra xem giờ, ngọn nến vẫn cháy bình thường, lúc này ông mới yên tâm, chuẩn bị quay về phòng ngủ.
Đúng lúc này, gió bỗng rít lên dữ dội, cánh cửa sổ bị gió thổi mở toang, gió lạnh ấm ướt cuốn theo đất cát và lá cây bay rào rào vào phòng khiến Dodd rùng mình ớn lạnh. Ngọn nến trên bàn chao đảo như sắp tắt.
Dodd vội đóng cửa sổ, ngạc nhiên vì rõ ràng vừa nãy đã chốt cửa cẩn thận, sao gió vừa thổi đã mở ra được? Sau lưng ông bỗng vọng lên tiếng thở dài của phụ nữ.
Dodd sợ tới mức toàn thân cứng đờ, lông tóc dựng ngược. Thoạt tiên, ông ngỡ rằng đó là ảo giác do tiếng gió tạo ra, nhưng lại không dám ngoái đầu nhìn. Đúng lúc này, tiếng thở dài lại vang lên lần nữa. Nhớ đến truyền thuyết rùng rợn về ngọn núi này, ông run rẩy lần cây thánh giá trên ngực, liên tục làm dấu thánh rồi chầm chậm quay người lại.
Một ông già ngồi quay lưng lại phía trước bàn tiếp khách, tay cạy mặt bàn, miệng liên tục phát ra những âm thanh kỳ quái.
“Dodd, ông nên nghỉ đi thôi!” Giọng nói cất lên khàn đặc, giống như bị bóp cố.
Công tước Marble!
Dodd thở phào: “Ngài công tước, ngài xuống từ khi nào vậy?”
“Ta ư?” Công tước nhún vai, tay vẫn cạy liên tục. “Ta ngồi đây rất lâu rồi, chẳng lẽ ông không nhìn thấy ta?”
Tay Dodd run lên lẩy bẩy, đầu óc căng thẳng, nghe rõ tiếng mạch máu rần rật.
“Ông không nhìn thấy ta thật à?” Giọng công tước Marble bỗng trở nên the thé. “Ta đã nhìn thấy ông thắp nến đánh thức ta dậy.”
Tiếng gió bên ngoài càng rít lên hung dữ, cát đá bay rào rào nghe như có vật gì đang lặng lẽ tiếp cận pháo đài. Công tước Marble từ từ quay đầu lại!
Ông vẫn ngồi nguyên, chỉ có cái cổ là xoay lại. Trước mặt Dodd là khuôn mặt của một phụ nữ Ấn Độ trẻ tuổi.
“Ông nên nghỉ đi thôi!” người phụ nữ nhếch miệng cười, hàm răng dính đầy sáp nến. “Muộn thế này rồi mà chưa ngủ, cẩn thận gặp ma đấy.”
“Ông đang nói chuyện với ai đấy?” Cánh cửa phòng ngủ trên tầng ba hé mở, công tước Marble mặc quần áo ngủ cầm tẩu thuốc đi ra.
Doddo ngồi phệt xuống đất, ngước nhìn công tước. Ánh sáng lập loè toả ra từ tẩu thuốc khiến cho khuôn mặt của công tước chìm trong bóng tối, không nhìn thấy rõ.
Công tước Marble rít một hơi, khói thuốc bay lên mờ mịt: “Sao thế, sao lại ngồi dưới đất?”
Dodd ngẩng đầu nhìn công tước, cổ họng cứng lại không thốt nên lời, chỉ biết cố hết sức giơ cánh tay mềm nhũn lên chỉ về phía bàn.
“Sao nến cháy nhanh thế? Đổi cây mới đi!” Công tước Marble quay vào phòng ngủ, đóng sầm cửa lại.
Lúc này, Dodd lại nhận ra trước bàn trống trơn, chẳng có ai cả, chỉ còn cây nến vừa thắp đã cháy quá nửa.
Ảo giác ư? Không thể nào, cảnh tượng đáng sợ vừa rồi tuyệt đối không phải là ảo giác. Ông hít một hơi thật sâu, đánh bạo bước lại gần, phát hiện ra trên sáp nến nóng chảy còn in hằn những dấu vân tay.
“Ngài công tước!” Dodd kêu rú, rồi gần như bò lên tầng ba.
❀ 6 ❀“Ông nói vừa nãy ta ngồi đây ăn nến?” Công tước Marble đặt ngón tay vào trong vết tay còn lưu trên sáp nến, không ngờ lại hoàn toàn trùng khớp.
“Vâng... vâng, thưa ngài.” Tim Dodd đập loạn xạ.
Công tước Marble vẽ mẫu sáp nến, ánh mắt chợt sáng quắc, rọi thẳng vào mắt Dodd, nhưng ngay sau đó lại tỏ ra thương hại: “Ông già mất rồi.”
“Thưa ngài công tước, chắc chắn là tôi đã nhìn thấy thật, xin ngài hãy tin tôi. Chúng ta cùng tới Ấn Độ từng ấy thời gian, tôi chưa bao giờ giấu giếm ngài bất cứ chuyện gì.” Dodd cảm thấy bị tổn thương, lập tức nghiêm túc giải thích.
“Có chuyện này không biết ta có nên nói với ông hay không.” Công tước Marble lại rít tẩu thuốc, ngón tay ấn mạnh đến trắng bệch. “Người ăn sáp nến là ông đấy.”
Dodd giật nảy mình, xua tay rốt rít: “Ngài công tước, ngài đang đùa đấy à?”
Công tước Marble thình lình vung tay chụp vào mặt Dodd, ông không né kịp, cảm thấy khóe miệng bị móc lấy rồi giật mạnh, một thứ gì đó bong ra. Công tước giơ tay lên: “Dodd, đây có phải là sáp nến không? Tối nào ông cũng xuống phòng khách, ngồi trước bàn cậy sáp nến ăn. Ta đã nhiều lần phát hiện ra, nhưng không nỡ nói cho ông biết. Ta nghĩ rằng ông đã trúng tà nên viết thư hỏi một người bạn làm bác sĩ ở Bangladesh, ông ta nói đây là một căn bệnh không hiếm gặp, là bệnh mộng du.”
“Nhưng... ngài công tước...” Dodd chỉ vào mặt công tước, “Tại sao khoé miệng của ngài cũng có sáp nến?”
“Đoàng!” Tiếng sét vang lên thình lình xé toạc màn đêm yên tĩnh, cả phòng khách sáng loà, trong một nháy mắt đó, cả hai người đều nhìn thấy rõ ràng khuôn mặt của đối phương với vết sáp nến còn dính trên khoé miệng.
Ngày hôm sau, dân làng sống bên ngoài pháo đài Bhangarh Fort trông thấy chủ nhân pháo đài và ông quản gia lên xe ngựa đi từ sáng sớm, mãi tới trưa mới về. Lúc xuống xe, có thêm một người ăn mặc như cha cố. Ba người bước vào pháo đài cổ rồi không thấy xuất hiện nữa.
“Thưa cha, trong pháo đài có ác ma phải không?” Dodd thấp thỏm hỏi. Vừa nãy cha cố đưa cho ông một lọ nước trăng trắng không biết là nước gì để vẩy ngoài phòng khách, bốc mùi cay nồng, chắc là nước tỏi.
Cha cố làm dấu thánh trước ngực rồi căng thẳng nhìn chằm chằm xuống đất. Trên nền đá hoa, nước tỏi đang chảy ngoằn ngoèo bỗng khựng lại như gặp phải bức tường chắn vô hình, bọt nước nổ lép bép rồi bốc khói trắng nghi ngút. Những chỗ không có nước tỏi thình lình hiện ra những dấu chân.
“Nơi này trước đây có một phụ nữ sau khi chết đã hóa thành oan hồn.” Cha cố làm dấu thánh trước ngực. “Khi xây dựng pháo đài, các ông không phát hiện ra sao?”
Hai người nhìn nhau rồi cùng lắc đầu.
“Chắc là khi đào móng, do đào sâu quá nên đã phá hỏng mất nơi giam giữ oan hồn.” Cha cố lấy ra một cái lọ, nhúng ngón tay vào nước trong lọ rồi chấm lên trán của hai người. “Nước thánh sẽ che chở cho các ông.”
“Thế...” Công tước Marble định hỏi nhưng lại thôi.
“Các ông có thể đã ăn sáp nến, có thể không, nhưng điều này không quan trọng.” Cha cố cầm cây thánh giá đi vòng quanh phòng khách. “Khi bị ma ám, các ông chẳng thể biết được mình đang làm gì, nhưng vẫn nhìn thấy đối phương đang làm gì. Đừng sợ, Chúa sẽ che chở cho các con chiên ngoan đạo. Hãy làm theo cách của ta, sẽ tìm ra được oan hồn, và bắt bà ta phải xuống địa ngục.”
❀ 7 ❀Nói đến đây, Dodd tỏ ra vô cùng mệt mỏi. Công tước Marble cháu vội hỏi: “Là cách gì vậy?”
“Ngoài bốn điều cấm kỵ tôi vừa nói với ngài, những điều còn lại, cha cố chỉ nói riêng với cố công tước thôi.” Hai mắt Dodd đỏ hoe. “Sau khi cha cố đi khỏi, cố công tước đã thuê rất nhiều người làm, những chuyện ma quái trong pháo đài vẫn tiếp tục diễn ra. Người làm đều sống trong ngôi nhà kề sát trang viên, họ không hề hay biết tôi và cố công tước ngày nào cũng phải trải qua bao nhiêu chuyện khủng khiếp trong pháo đài. Tôi và cố công tước đã bỏ bao công sức xây dựng công trình này để dưỡng già, nào ngờ lại xảy ra chuyện này. Từ đó, tinh thần của cố công tước ngày càng suy sụp rồi đổ bệnh liệt giường, sau nữa thì toàn thân lở loét. Cha cố đã tới xem, nhưng lắc đầu nói oan hồn đã ám vào người ông ấy, không thể cứu được, nhưng trái lại, cũng chính vì vậy nên những người khác không bị oan hồn làm hại. Tôi đành phải nói là công tước mắc chứng thấp nhiệt. Thời khắc cuối cùng của cố công tước, chỉ có mình tôi bên cạnh ông ấy. Ngày nào ông ấy cũng lảm nhảm những câu quái gở, nào là đế quốc Maurya, sông Hằng, cà ri, người xương bò... Cho tới trước khi chết, ông ấy mới giao chiếc chìa khóa này cho tôi. Nếu ngài giải mã được bí mật này, ngài sẽ trừ bỏ được oan hồn và sở hữu hoàn toàn pháo đài này.”
Marble đảo mắt nhìn quanh pháo đài tráng lệ, sắc mặt lúc xanh lúc trắng, cuối cùng nghiêm túc gật đầu: “Tôi sẽ làm được!” Rồi rót một ly rượu vang, trịnh trọng đưa cho Dodd.
“Cảm ơn ngài!” Dodd cảm động nói. “Dòng họ Marble luôn đưa ra lựa chọn chính xác nhất.”
Trở về phòng ngủ, Marble vuốt ve chiếc chìa khoá rồi chau mày ngẫm nghĩ. Bỗng dưng, ông cảm thấy hối hận về lựa chọn nông nổi vừa rồi. Chỉ một chiếc chìa khóa, giải mã bằng cách nào đây? Không giải mã được, sẽ không thể phá bỏ được lời nguyền rủa của oan hồn. Nhưng sở dĩ ông đưa ra lựa chọn này là bởi một bí mật sâu kín không thể nói với ai khác.
Đóng chặt của, ông ngồi trên ghế suy ngẫm. Đã có chìa khóa thì phải có ổ khoá. Nhưng đó là khoá tủ hay khoá của? Và ổ khoá đó đang nằm ở đâu?
“Thưa ngài công tước, xin hãy mở cửa, tôi mang cho ngài ly sữa nóng.” Có tiếng gõ cửa, rồi giọng nói ôn tồn của Dodd vọng vào.
Marble đang định mở cửa, bỗng sực nhớ ra những điều cấm kỵ mà Dodd đã nói, lập tức khựng lại. người ngoài cửa chưa chắc đã là quản gia Dodd, mà cho dù đó là Dodd thật, ông cũng không được phép mở cửa.
“Thưa ngài, xin hãy mở cửa, tôi đúng là Dodd đây. Ngài đừng tin lời hắn nói, Những lời hắn vừa nói đều là lừa gạt cả đấy, xin ngài hãy tin tôi.”
Ngoài pháo đài, gió vẫn gầm rú hung hãn, nước mưa quất ràn rạt vào cửa sổ, chớp loé loằng ngoằng từng đợt, sáng quắc cả phòng ngủ. Công tước Marble rúm người trong góc tường run rẩy. Trong ánh chớp sáng lòa, chốc chốc ông lại thấy một ông già toàn thân rộp đầy mụn nước, lở loét chảy mủ nằm bẹp trên giường gỗ cao su.
Marble không còn dám tin vào mắt và tai mình nữa.
“Đoàng!” Một tia sét khủng khiếp rạch đôi bầu trời đêm thành hai nửa, sáng lòa đến vài giây. Marble chết điếng người. Trong ánh chớp, ông đã nhìn thấy một thứ dưới gầm giường, trên bức tường đá kề sát mép giường có khắc một bức phù điêu hình con mãng xà quấn quanh người một thiếu nữ khoả thân, đầu rắn quấn quanh cổ, miệng há ngoác như muốn nuốt chửng cô gái.
Ánh chớp tắt ngấm, trước mắt tối sầm, nhưng hình ảnh vẫn lưu lại trong đáy mắt Marble.
Bên ngoài không còn nghe thấy tiếng gọi của Dodd nữa. Tiếng sấm sét xa dần. Marble nắm chặt mớ tóc, gào thét như phát điên để trút bớt nỗi sợ hãi trong lòng.
Tiếng gào thét ghê gớm đến nỗi đám người làm sống ở ngôi nhà kế bên cũng phải giật mình thức giấc. Họ vội vàng chạy xô đến trước cửa chính của pháo đài.
Cánh cửa kẹt mở, Dodd cầm nến bước ra, giọng lạnh tanh: “Tất cả về ngủ đi. Ngài công tước mệt quá nên gặp ác mộng thôi.”
Đám người làm nhìn nhau nghi hoặc rồi cũng quay về. Trận mưa bất ngờ khiến cho bãi trũng trước pháo đài biến thành ao nước, Dodd nhìn trăn trối vào từng bong bóng nước sủi lên theo Những giọt mưa, cảm giác khác nào những sinh mệnh đang theo nhau vụn vỡ.
Ông đóng cửa, ngẩng đầu nhìn lên phòng ngủ của Marble trên tầng ba, bất chợt thấy ánh nến lóe sáng, một bóng người hắt lên khung cửa sổ, cuộn tròn thành một khối như đang bò trên mặt đất.
❀ 8 ❀Marble cầm nến chui vào gầm giường, mặt sàn cống rắn, lạnh ngắt khiến cho đầu gối ông đau nhức. Bức phù điêu sống động như thật, biểu cảm của cô gái cũng rất sinh động, nhưng đó không phải là vẻ sợ hãi khi sắp bị mãng xà nuốt chửng, mà là vẻ khổ sở vật vã khi phải chịu đựng nỗi đau đớn khủng khiếp.
Cuối cùng, ông đã phát hiện ra điều bí ẩn.
Không phải con rắn quấn trên người cô gái, mà là chui ra từ rốn của cô.
Định thần lại một chút, ông đưa tay sờ lần trên những nét chạm khắc, cảm giác nhẵn nhụi, mát lạnh rất dễ chịu.
Đúng lúc này, ngón tay ông sờ vào đầu rắn, có cái gì đó hơi nhúc nhích. Ông ấn mạnh một cái, bức tường kêu đánh “kịch” một tiếng, đầu rắn thụt xuống, lộ ra một cái lỗ vuông nhỏ hẹp.
“Nếu ngài biết được bí mật của thư phòng thì sẽ biết được tác dụng của chìa khoá.” Câu nói của Dodd lại vang lên bên tai ông. Phát hiện bất ngờ khiến ông quên cả sợ hãi. Ông biết, người Anh thường xây những căn phòng bí mật trong pháo đài để cất giữ của cải, vàng bạc vơ vét được, cũng dùng làm nơi náu thân khi bị người bản địa tấn công.
Ông quệt bàn tay đẫm mồ hôi vào quần rồi lấy chìa khoá ra, run rẩy cắm vào lỗ vuông, vặn khẽ một cái. Cả cần phòng bỗng kêu lên uỳnh uỳnh.
Bò ra khỏi gầm giường, ông nhìn thấy chỗ kê tủ rượu khi nãy đã hé ra một cánh cửa hình vòm. Ông cầm nến soi vào trong, thấy một đường hầm chạy thẳng xuống một khoảng không tối om hun hút. Không có bậc thang, chỉ có hai sợi dây xích đỏ hoen gỉ thả xuống bên dưới, hơi ẩm ướt phả lên lạnh lẽo.
Marble chần chừ một lát, định gọi Dodd. Nhưng lại nhớ đến ngoài bốn điều cấm kỵ trong pháo đài còn có một điều khác nữa, ông lại từ bỏ ý định này. Huống hồ, chính Dodd cũng không ngờ rằng, trong bản di chúc mà cố công tước Marble gửi cho ông còn kẹp lẫn một bức thư.
Khát vọng cháy bỏng khiến ông quên hết tất cả, thậm chí còn tính toán, khi nào tìm được kho báu sẽ bán luôn pháo đài ma ám này đi rồi ôm tiền về Anh sống cuộc đời sung sướng.
Ông xé tấm ga trải giường thành từng dải mảnh, bẻ rời cái ghế gỗ quý giá, quấn thành vài cây đuốc rồi đổ rượu Absinthe vào, châm lửa đốt, quẳng xuống dưới hầm.
Cái hầm hình trụ tròn không sâu lắm, trên một bên vách có chỗ một ngách hầm dẫn đến nơi nào đó còn sâu hơn nữa.
Ông bám vào dây xích bò xuống hầm rồi cầm đuốc lên, soi vào ngách hầm, thấp thoáng nhìn thấy cuối ngách hầm có một khoảng không gian rộng lớn, chính giữa bày một cái hòm lớn hình chữ nhật. Marble vô cùng phấn khỏi, mắt sáng rực: “Đây hẳn là hòm châu báu mà chú đã nói trong thư.”
Bỗng dưng, ông mơ hồ như nhìn thấy nắp hòm tự động mở ra, bên trong đầy ắp vàng bạc châu báu lấp lánh mời gọi. Lòng tham khiến ông mất hết lý trí, trong mắt chỉ còn cái hòm, không kịp suy nghĩ đến điều gì khác. Ông lẩm nhẩm: “Của ta... tất cả là của ta...”
Như bị thôi miên, Marble đờ đẫn bước lại gần cái hòm. Ông nhận ra cái hòm được làm bằng đồng đen, lớp gỉ đồng dày cộp chứng tỏ đã rất lâu đời. Giữa hòm có một lỗ khoá, ông liền lấy chìa khoá ra tra vào, vặn mạnh. Chìa khóa lập tức gãy đôi.
“Sao lại như thế được?” Marble sững sờ mất một lúc, nhìn trân trân vào nửa khúc chìa khóa gãy trên tay. Đột nhiên, ông rú lên kinh hãi, quẳng luôn bó đuốc, nằm phủ phục trên cái hòm, cố hết sức đập phá, cào cắn.
“Rắc!” Một cái răng gãy rồi, nhưng Marble chẳng còn biết đau đớn là gì, vẫn mải miết gặm cái hòm đồng đen cúng rắn. Máu me nhỏ lem nhem lên nắp hòm, từ từ chảy vào lỗ khoá.
“Ha ha... cỗ quan tài này phải dùng máu người mới mở được. Hơn nữa, phải có máu của mười ba người. Để dụ anh tới Ấn Độ, tôi đã phải tính toán rất lâu.” Dodd giơ cao cây nến, tay còn lại nắm chắc con dao găm đâm xuyên qua bả vai Marble, lưỡi dao sắc kinh người, cắm phập vào nắp hòm, hay chính là nắp quan tài.
Cơn đau dữ dội khiến Marble bừng tỉnh. Ông ra sức giãy giụa, máu me tung toé. Lỗ khoá cứ như cái miệng, liên tục mở khép, hút lấy dòng máu.
Mất máu khiến Marble choáng váng, kiệt sức, nằm lả trên cỗ quan tài, hai mắt hoa lên.
“Dodd, xin hãy cứu tôi, tôi sẽ chia cho ông một nửa gia tài... Mà không, tôi sẽ cho tất cả, tôi nói thật đấy.” Marble van nài.
“Anh thấy có khả năng đó không?” Dodd đặt cây nến vào lỗ tròn ở chính giữa cỗ quan tài, bên trong đã đọng đầy sáp nến. “Tất cả mọi người đều sống vì tham vọng, thật là xấu xa! Ngay cả đứa cháu ruột của ta cũng không ngoại lệ. Chỉ có một người dâng hiến cả đời cho vu thuật Đen như ta đây mới được giác ngộ thực thụ.”
“Ông nói gì?” Marble bị găm chặt vào cỗ quan tài không thể xoay người lại được. Câu nói của Dodd khiến ông kinh hãi. “Ông là...”
“Đúng vậy, ta là chú của anh, người kế thừa vũ thuật Đen vĩ đại, công tước Marble!” Dodd ghé xuống hôn lên trán Marble cháu. “Trước đây ta chọn sang Ấn Độ, bởi vì đã phát hiện ra nguồn gốc của vu thuật Đen chính là ở Ấn Độ. Thế là ta với ông bạn thân Dodd theo tàu chở hàng của công ty Đông Ân tới mảnh đất thần kỳ này. Là vật tế cuối cùng, ta sẽ cho anh được chết thanh thản.”
Công tước Marble chỉ vào cây nến: “Khi nến cháy hết là lúc câu chuyện kết thúc, cũng là lúc anh chết. Hãy trân trọng những thời khắc cuối cùng.”
❀ 9 ❀“Marble, ông có chắc vu thuật Đen bắt nguồn từ Ấn Độ không?” Dodd đập muỗi đen đét. “Cái thời tiết quái quỷ, nóng nực, ấm ướt, tôi thật không chịu nổi nữa.”
Marble cẩn thận gấp tấm da dê cũ rích lại, cất đi: “Tôi đã khai quật bao nhiêu ngôi mộ mới tìm được vật này, chắc là không sai được đâu. Nếu tìm được những thứ đó, chúng ta sẽ biết được điều huyền bí nhất của vu thuật Đen, đó chính là bất tử!”
“Chúng ta đã có bao nhiêu tiền bạc, cuộc đời này muốn làm gì chẳng được, tôi không hiểu tại sao ông lại cần bất tử. Ông nghĩ mà xem, nhìn những người thân bên cạnh cứ lần lượt chết đi, trong khi mình lại trẻ mãi không già, thật là khủng khiếp biết mấy.” Dodd lắc đầu. “với lại ông đã tiêu hao bao nhiêu năm cho công việc tìm kiếm mà vẫn chưa tìm ra manh mối, giờ đã sáu mươi tuổi Tôi, tôi không muốn tìm nữa đâu.”
“Đã chịu đựng được hơn ba mươi năm rồi thì sá gì mấy ngày? Tôi nghĩ sắp tìm ra rồi, tôi đã linh cảm được điều đó.” Marble chỉ về dãy núi phía xa. “Ông nhìn ngọn núi kia xem có giống con rắn không? Theo như chỉ dẫn trong tấm da dê, đó là nơi sinh sống của những người sống cộng sinh với rắn, uống mỡ xác chết để bất tử.”
“Thôi ông đừng có nhắc đến chuyện này nữa, buồn nôn quá.” Dodd sờ vào cái túi da đeo bên hông. “Tôi uống cái thứ này sắp ba mươi năm rồi, thế mà già vẫn hoàn già. Giờ thì tôi thậm chí còn chẳng nhận ra mùi hôi thối nữa.”
“Bởi vì chúng ta vẫn chưa tìm ra thứ đó, dù chúng ta cũng không biết thứ đó là gì.” Marble vỗ vai Dodd.
; “Chúng ta đã già rồi, tôi không muốn già thêm nữa. Đối với người già, của cải nào có ích gì? Tôi sẵn sàng dùng toàn bộ của cải để đổi lấy tính mạng, cho dù chỉ thêm một ngày.”
Dodd thở dài: “Mong rằng lần này có thể tìm thấy.”
“Người Ấn Độ nói đây là ngọn núi ma ám, căn cứ vào các nguồn suy đoán, chắc chắn là ở đây. Truyền thuyết về người cộng sinh với rắn, nơi nào cũng có, nhưng ông có biết tại sao tôi khẳng định là ở Ấn Độ không?”
Không chờ Dodd đáp lại, Marble đã lấy tấm da dê ra, trải rộng trên bàn: “Ông nhìn đi, đừng quan tâm đến phần chữ Latin, hãy coi đây là một bức tranh.”
Dodd quan sát kỹ lưỡng, thấy từng dòng từng dòng chữ viết giống như những sợi dây thừng, hình như kết thành một bức tranh thật. Đó là bức chân dung của một
cô gái Ấn Độ, giữa trán có một chấm tròn màu đỏ.
“Từng ấy năm rồi, đến giờ ông mới chịu nói với tôi bí mật của tấm da dê đấy.” Dodd bực bội cầm tấm da dê lên xem.
❀ 10 ❀“Thế là ta đã tìm ra rồi!” Công tước Marble cười vang. “Cháu trai yêu quý nhất của ta, anh có biết khi ta phát hiện ra cỗ quan tài đồng đen này, ta vui mừng biết nhường nào không? Thế là ta đã xây dựng pháo đài ở đây, ngày ngày nghiên cứu hoa văn trên cỗ quan tài, đó là văn tự thất truyền của đế quốc Maurya. Chính vào lúc đó, trong lâu đài bắt đầu xuất hiện chuyện ma quái. Ban đầu ta rất sợ hãi, đã mời cha cố tới làm phép. Ông ta bỗng đối giọng đàn bà, nói rằng muốn mở cỗ quan tài, mỗi tháng phải tưới lên đó máu tươi của mười ba người. Vào tháng thứ mười ba, phải dùng máu tươi của người thân ruột thịt làm chìa khóa mở cỗ quan tài. Đương nhiên, cha cố đã trở thành người hiến máu đầu tiên. Đó là niềm vinh hạnh của ông ấy.”
“Thế là từ đó, tháng nào ta cũng tuyển thêm người làm. Giờ thì anh đã hiểu tại sao dân làng quanh đây lại thưa thớt như thế rồi chứ? Họ đồn đại rằng pháo đài ma ám đã cướp đi tính mạng của những người mất tích, nhưng lại không cưỡng nổi sự cám dỗ của khoản thù lao hậu hĩnh. Đúng là một lũ tham lam!”
“Còn Dodd, ông ta đã phản bội ta, ông ta muốn độc chiếm bí mật bất tử. Ha ha... nên máu của ông ta cũng đã chảy vào cỗ quan tài này.”
“Để dụ được anh tới đây, Dodd đã chết liền biến thành ta, còn ta biến thành Dodd. Một bản di chúc và cả bốc thư kèm theo tiết lộ trong pháo đài có kho báu đủ để khiến cho một quý tộc lụn bại bất chấp tất cả. Nhưng ta già rồi, Dodd cũng đã chết, không đủ sức để xử lý một thanh niên trai tráng như anh, nên chỉ còn cách để anh tự chui đầu vào rọ.”
Marble cháu đang thở thoi thóp bất chợt phá lên cười. Trong khi cười, cỗ quan tài đồng đen bỗng bật lên những tiếng ken két quái đản, tựa như có người đang dừng móng tay cạy nắp quan tài chui ra.
Nắp quan tài rung lên bần bật, hết bị xô lên lại rơi đánh rầm trở xuống. Sau vài lần như vậy, cuối cùng bị đẩy lên cao rồi sập thẳng xuống, đóng kín lại như cũ.
Khoảnh khắc đó đủ để ông công tước Marble nhìn thấy thứ bên trong cỗ quan tài. Ông ta “ồ” lên một tiếng kinh ngạc: “Cái gì thế này? Sao lại thế được?”
Trong căn hầm chật hẹp vang vọng tiếng cười sằng sặc của Marble cháu, tiếng va đập lịch kịch của nắp quan tài, tiếng kêu kinh ngạc của Marble chú. Những âm thanh trộn lẫn với nhau, tạo nên một bản nhạc giao hưởng chói tai và rùng rợn.
“Thất vọng lắm phải không? Quan tài làm sao mà mở nổi, bởi vì tôi tên là Henry Edward.” Marble cháu thôi cười, cố ngẩng đầu lên. “Công tước Marble, ông có thấy tim đau lâm râm không? Thằng cháu của ông trước khi bỏ mạng trên chuyến tàu tới Ấn Độ cũng có cảm giác như thế đấy. Cái thằng bị thịt vênh váo đó sau khi uống say đã phun ra tuốt tuồn tuột mọi chuyện. Và thế là tôi quyết định thế chỗ cho hắn. Tôi là bác sĩ, đương nhiên có cách cho hắn uống một loại thuốc khiến tim ngừng đập. Ông còn nhớ cốc rượu vang mà tôi đã đưa cho ông trong phòng ăn chứ?”
Marble chú bỗng ôm ngực, mặt tái mét, môi tím đen rồi ngã nhào xuống đất. Hai tay co quắp cào bới xuống nền đất, nhưng cái đầu vẫn kiên gan ngẩng lên nhìn cỗ quan tài đồng đen: “Không thể... không thể nào... ta sẽ bất tử.”
“Ta thì chọn tài sản.” Henry phun ra một ngụm máu rồi nằm lả người trên cỗ quan tài.
“Chọn ư? Ngay đến quyền được chọn ta cũng không có.” Trong cỗ quan tài bỗng vọng ra giọng nói phụ nữ. “Không biết ta còn phải chờ đợi bao lâu nữa mới được hồi sinh bởi tình yêu?”
Nắp quan tài bật mở, từ bên trong, một cô gái đứng dậy. Hình ảnh cuối cùng đập vào trước mắt Henry khiến anh ta không tài nào hiểu nổi: Một cô gái với mái tóc vàng lượn sóng, chiếc quần xanh nhạt bó chẽn lấy hai chân, chiếc áo cũn cỡn màu trắng bó chặt lấy thân mình, nổi bật những đường cong hoàn hảo, để trần vòng eo thon thả. Thình lình, một con rắn màu sắc sặc sỡ chui vọt ra khỏi rốn cô ta, thoăn thoắt leo lên người, quấn quanh cái cổ trắng ngần, há miệng cắn phập xuống.
Cô gái mỉm cười rồi từ từ nằm xuống cỗ quan tài.
“Rầm!” Nắp quan tài sập xuống như cũ.
“Hello Kitty?” Henry thều thào đọc dòng chữ in trên áo của cô gái, rồi hai mắt nhắm nghiền.
❀ 11 ❀Kể tới đây, Nguyệt Bính quay sang hỏi: “Mày đã hiểu chưa?”
Tôi ngẩn ra: “Thế còn Jessica?”
“Kể tới đây, cô ta đứng dậy nói đi vệ sinh, rồi đi luôn không thấy quay lại nữa.” Nguyệt Bính đáp. “Tao cho rằng đó là câu chuyện do cô ta tự sáng tác ra.”
“Có lẽ.” Tôi tán đồng mà trong lòng nặng trĩu.
Vì tham vọng mà mỗi người đều có những lựa chọn khác nhau. Thứ duy nhất không thể lựa chọn chính là định mệnh!
Lặng im hồi lâu, tôi sực nhớ ra một chuyện: “Nguyệt Bính, nhưng lúc nãy mày có nhắc đến binh đoàn xác sống gì gì đó cơ mà?”
Nguyệt Bính đăm chiêu một hồi lâu, trán chau tít lại. Tôi cứ nghĩ nó đang chuẩn bị để kể cho tôi nghe một câu chuyện ly kỳ, nhưng kết quả chỉ là một lời căn dặn không đầu không cuối: “Bí Ngô, mày nhớ đấy nhé! Nếu có đến Ấn Độ, dù có muốn trải nghiệm cũng không được mua vé tàu ngồi. Mày có tưởng tượng được không? Phải mấy nghìn con người lèn chật kín nhà ga, nồng nặc mùi mồ hôi, mùi cà ri và đủ thứ mùi kinh khủng khác, nóng ngốt như một cái nồi hầm. Chen lên tàu chẳng khác gì đánh trận, trên tàu nhồi chặt cúng, nhìn đâu cũng chỉ thấy người là người, có khác gì binh đoàn xác sống? Bên trong thì nhồi nhét đến không thở nổi, bên ngoài còn vô số người đu bám cửa sổ hay ngồi trên nóc tàu, trông không còn giống con người. Đứng trong toa tàu mà hai chân tao không chạm đất, người thì không tài nào cựa quậy nổi. Kinh khủng nhất là người ta còn xách cả gà vịt theo, chúng đập cánh phành phạch, lông phân bay toé loe. Đúng là ám ảnh cả đời tao!”
Tôi nghe mà không nhịn được cười: “Sau đó thì sao?” “Lao đến ga, tao bị dòng người cuốn theo xuống tàu, nên đành phải mua vé giường nằm. Sau đó, tao gặp một người kỳ dị, nghe anh ta kể một câu chuyện kỳ quái.” Nguyệt Bính nhướn mày. “Những chuyện ma quái lắm, tao nghĩ mãi mà vẫn chưa hiểu tại sao. Tao còn không hiểu thì mày hiểu thế quái nào được, nên thôi tao chẳng kể nữa.”
“Sao mày không chết bẹp luôn trên tàu cho rồi!” Tôi ghét cay ghét đắng cái tính úp mở của Nguyệt Bính.
“Tao nói thật mà, tao suy luận đủ kiểu mà vẫn không tìm ra đáp án. Rồi, để tao kể cho mày, xem đầu mày có rối tung lên không.”
Tôi lại khấp khởi chờ nghe, dù câu chuyện về pháo đài cổ Bhangarh Fort vẫn khiến sống lưng tôi lạnh toát.