Chương VII
“Anh có biết, tôi triệu anh lên đây làm gì không?” Ông Trung trố sừng sộ, như vậy. Tôi nói: “Tôi không biết”. Ông Trung trố nói: “Cái thái độ anh. Anh đừng vờ”. Tôi im. Tôi làm vẻ đang nghĩ, và nghĩ không ra, để ông đừng giận. Ông Trung trố nói: “Để trấn áp. Anh hiểu chưa? Các anh không biết thân, mới ti toe ba tuổi ranh, mà đòi trò này, trò nọ. Các anh muốn ngóc đầu lên, thì bảo tôi. Tôi thay mặt một nghìn sáu trăm bà con, lớn, bé, già, trẻ, ở khối này, nói trước cho anh biết. Ngóc đầu lên, trăm đầu, nghìn đầu, tôi treo cổ ráo. Anh có biết, giặc Phạm Nhan không?” Tôi nói: “Không”. Ông Trung trố nói: “Im! Không được hỗn. Hay anh muốn hỗn thì bảo tôi. Anh im. Bao giờ tôi cho nói, anh mới được nói. Giặc Phạm Nhan, chặt đầu này, mọc đầu kia. Rốt cuộc nhân dân được, hay Phạm Nhan được? Đê quốc Pháp của bọn anh, với một bọn tàu bay, tàu bò, hùng hùng, hổ hổ. Rốt cuộc nhân dân được, hay đế quốc Pháp được?” Tôi nói: “Nhân dân được”. Ông Trung trố nói: “Ai cho phép anh nói?” Tôi nói: “Tôi tưởng ông hỏi tôi”. Ông Trung trố đập bàn. Ông quát: “Imm! Không tưởng gì hết! Không phải vấn đề tưởng! Đây là vấn đề trấn áp! Hiểu chưa?” Tôi nói: “Vâng. Tôi xin lỗi. Ông làm ơn giải thích, những thủ tục trân áp là thế nào? Đê tôi biết”. Ông Trung trố quát: “Anh hoạch tôi? Không có thủ tục gì hết. Anh đứng cho ngay ngắn. Ai cho anh dựa lưng vào cột? Đứng thẳng vào. Bao giờ tôi bảo cho nói, anh mới được nói. Hiểu chưa?” Tôi nói: “Vâng. Tôi hiểu”. Ông Trung trố nói: “Imm. Ai cho anh nói? Anh không cần vâng tôi hiểu. Tôi không lạ gì cái vâng của anh. Cả cái adiđàbụt dị đoan, của anh nữa. Bọn các anh 3 tuổi ranh, hỗn láo, nhân dân vặn cổ. Không còn Tây ở đây nữa, để các anh dựa thế làm càn. Trông kìa, cái đầu nom càn quấy chưa. Thế mà đẹp à? Cứ phải càn, phải ngổ, mới đẹp à? Bà con ở đây, ai cũng làm ăn thắt lưng buộc bụng. Để làm gì, anh biết không? Thứ nhất, để xây dựng miền Bắc. Thứ hai, để làm hậu thuẫn, cho cuộc đấu tranh giành thống nhất, của miền Nam. Thứ ba nữa, để góp phần bảo vệ hòa bình thế giới. Ba việc gắn liên làm một. Bọn các anh nay rượu, mai chè. Tiền ở đâu ra? Tụ bạ nhau, bày mưu, tính mẹo. Đểu cáng. Lêu lổng. Bày ra với nhau, trò kép, trò đúp. Anh, tôi vạch đích mặt anh, anh chủ trương chống chính phủ, phải không? Kìa, sao không nói? Cho nói”. Tôi nói: “Không”. Ông Trung trố quát: “Thái độ! Đả đảo thái độ! Thái độ loanh quanh. Lại cái mặt phớt. Anh chối à? Anh nói chúng tôi thịt ngầm anh, anh cũng thịt ngầm lại, anh chối à? Tôi nói: “Tôi không nói hẳn thế. Hôm ấy tôi buồn, tôi say. Tôi không nhớ”. Ông Trung trố nói: “Ai cho phép anh buồn? Chỉ ở chế độ cũ, anh mới muốn buồn, thì buồn. Anh không nhớ, không nhớ. Anh ngỡ, một mình anh đọc trinh thám. Vô khối người đọc. Tôi thì, tôi ỉa phẹt vào sách vở của anh. Không cần đọc, tôi cũng biết thừa tâm lí kẻ gian. Kẻ gian, lúc nào cũng tôi quên, tôi quên, tôi không nhớ. Anh nói anh chơi trò kép, trò đúp, chống chúng tôi, anh nhớ không?” Tôi nói: “Tôi chỉ nói chơi trò kép thôi”. Ông Trung trố nói: “Ai cho anh nói? Đấy, anh giấu đầu hở đuôi. Kẻ gian bao giờ cũng giấu đầu, hở đuôi. Chỉ chơi trò kép không thôi, và chơi trò kép, với chúng tôi, thì khác gì nhau? Cho nói”. Tôi nói: “Khác chứ”. Ông Trung trố quát: “Imm. Ai cho anh cãi? Đây không phải chỗ, để anh đôi co, bài bây. Anh chống chúng tôi ra mặt, mà còn chối. Anh trả lời đi, cái trò kép của anh, có phải để chống cộng không? Cho nói, nhưng không được cãi”. Tôi nói: “Không. Tôi bị nghi ngờ. Cảnh ngộ của tôi khó, tôi ăn ở khó, vì bị ngờ. Cho nên trong lúc say, tôi nói chữ trò kép, để đối phó với cảnh ngộ của tôi”. Ông Trung trố nói: “Càng cãi, càng lòi cái đuôi. Anh nói không chống cộng, lại nói chống cảnh ngộ. Cảnh ngộ với chế độ, khác gì nhau. Anh đừng chơi chữ. Tôi ỉa phẹt, vào cái đệ thất của anh. Bác sĩ, kĩ sư, bằng nọ cấp kia, văn hóa đế quốc, tôi ỉa phẹt, vào cả lũ. Anh muốn chơi chữ, thì tôi chơi chữ. Cảnh ngộ, cảnh ngộ nào làm anh khó ăn khó ở? Anh ám chỉ ai? Khu phố? Công an? Cộng sản? Tôi nói để anh biết, khu phố, với chính phủ, với cộng sản, chỉ là một. Anh còn chơi chữ nữa không?
Anh khó ăn à? Anh 3 ngày tiệc nhỏ, 5 ngày tiệc lớn, quanh năm ăn uống, ngập mồm, thế là khó ăn à? Bà con ở đây ở chui rúc, nhà bảy người, nhà chín người, một phòng bằng cái lỗ mũi. Cán bộ nhà nước, tiêu chuẩn cũng chỉ phòng bốn mét vuông. Nhà anh hai vợ chồng son, cả một biệt thự, sân trước, vườn sau, nhà tắm, nhà bếp, nhà kho, thế là khó ở à? Chính phủ đối đãi với anh, như bát nước đầy, mà anh khó ăn, khó ở. Thằng Tây quay lại, thì anh dễ ăn, dễ ở chắc? Anh đi càn, cướp của thiên hạ về nhà, một đống nồi đồng, nồi thau, tôi còn chưa đụng đến. Imm, tôi chưa cho nói. Anh còn muốn chơi chữ nữa không? Imm, chưa cho nói. Xem chừng ở miền Bắc này, anh không dễ chịu lắm thì phải. Quần tuýp, áo chim cò. Sách báo không xem. Xem trinh thám. Bao nhiêu tranh ảnh đẹp, phong cảnh đất nước, không thích. Thích ảnh cởi truồng. Vợ đẹp nhất nhì xóm, chưa đủ hay sao, còn phải chụp ảnh truồng, đâm đầu vào nghệ thuật đế quốc. Thanh niên sức rộng, vai dài, đi câu chẫu, câu nhái. Rành ranh, cái kế bất hợp tác, với cộng sản, lại còn cãi. Anh đừng tưởng, tôi không biết. Tôi biết hết. Anh nghĩ gì, trong đâu, tôi cũng biết. Lại còn đánh vợ, tiện đây tôi cũng trấn áp, luôn một thê. Đánh người đàn bà iếu đuối, anh hùng xó bếp. Anh còn chơi chữ với tôi nữa không? Imm, chưa cho nói. Anh khinh, cán bộ khu phố lèm nhèm, rồi anh sẽ biết thế nào, là chuyên chính. Chính phủ khoan hồng, anh chê khoan hồng Anh đi giày mõm cá, da tây bóng nhoàng thế kia, là xương máu của nhân dân cả. Đồ vong ơn bội nghĩa. Tôi nói sơ qua như vậy đã. Bây giờ, tôi cho anh nói. Kiìa. Nóói”. Tôi nói: “ Ông có nhiều điểm, rất đúng. Trừ điểm chống cộng, là thực tình tôi oan. Hôm ấy, tôi say”. Ông Trung trố cắt lời.”Thồồi. Đừng nói say. Thiếu gì người say, mà có ai bày kế chơi trò kép với cộng sản đâu. Âm mưu rành rành ra đấy oan cái gì. Rượu chè trai gái. Con Lily chỉ điểm đi, anh ở lại làm gì? Phát súng bắn anh bộ đội, là từ vườn nhà anh. Tại sao không bắn từ vườn nhà người khác? Anh chưa phá tan, được cái miền Bắc này, thì anh oan chứ gì? Anh vẫn nguyên hình thằng tàu bò, giờ thêm thằng chống cộng. Tôi không cho anh nói nữa. Tôi cho anh 3 ngày suy nghĩ. Bây giờ anh về, anh lấy giấy trắng, anh làm tờ thú”. Tôi nói: “Tờ thú?” Ông Trung trố nói: “Imm. Ai cho anh nói? Tờ thú, phần trên anh thú tội. Từ hòa bình đến giờ, anh đã có những hành động phá hoại, và lời nói phá hoại gì? Địch xui gì anh? Phát súng là anh hay ai bắn? Con Lily bàn giao gì lại, cho anh? Anh chơi trò kép, với cộng sản, ra sao? Ổ phản động của anh, có những thằng nào, con nào? Anh thú hết ra. Thú ra thì nhẹ tội. Ngoan cố càng chết. Không được giở trò chơi chữ. Chúng tôi đã biết tất cả, tai mắt nhân dân, có ở khắp nơi. Chúng tôi chỉ muốn xem mức độ thành khẩn của anh thế nào. Tờ thú của anh sẽ quyết định hết. Đấy là phần trên, còn phần dưới tờ giấy, anh xin được trừng phạt thế nào. Xin khoan hồng ra sao. Tôi cho anh 3 ngày. Đúng 10 giờ ngày kia, anh nộp tờ thú, tận tay tôi. Hiểu chưa? Nếu anh không thành khẩn, tôi sẽ có biện pháp. Cấm các anh tụ bạ, bàn mưu tính mẹo với nhau. Tôi không cho anh nói. Thôi về!”
Ngày số 5. Mưa mau hạt, cho nên cửa sổ toàn bộ trắng nhợt. Chiều hôm ấy, tôi ngồi trước tờ giấy trắng. Nhà vắng như nhà mồ. Ngồi mãi, mà chưa biết thú thế nào. Tôi lấy một tờ giấy nữa, để làm nháp. Vậy là tôi có hai tờ giấy trắng, nằm im lặng. Ông Trung trố cứ muốn, tôi thú nhận chống cộng, ông mới thích, mà tôi lại không thích. Cho nên mắc kẹt. Tôi hỏi sọ tôi. Sọ nói, cứ liệt kể tội, ra xem sao. Tôi viết một lúc lên tờ nháp, được một dãy tội, đứng đầu là tội rượu, thứ hai là tội gái, thứ ba là tội đánh đàn bà iếu đuôi, thứ chót là mặc áo chim cò. Nhưng xem chừng, bản đồ tội vẫn nhẹ quá. Sọ bảo tôi, thì vạch thêm bản đồ bụng, rồi ruột, gan, mè bên trong ra. Sọ muốn dung hòa giữa tôi và ông Trung trố, nhưng một bên đòi nhiều tội, một bên thời ít tội, thì dung hòa làm sao. Nếu không nghe sọ, ông Trung trố sẽ ra biện pháp khác. Nhưng nếu tôi nghe sọ, vạch hết bản đồ tội lỗi, thì vẫn còn thiếu cho ông Trung trố. Bao nhiêu cũng còn thiếu. Ông Trung trố vẫn không vừa lòng. Tôi chỉ còn một cách, tuyệt vọng. Sọ bảo, cứ bình tĩnh thú thật hết, thú thật thì nhẹ tội, thú thật thì đỡ bị người đời ghét, làm thằng thật thà, vẫn hơn làm thằng dối trá, mưu mẹo. Tôi bảo sọ, các thằng bạn tôi, thằng nào cũng nói dối trôi chảy, thằng nào cũng tài diễn kịch, cho nên chẳng thằng nào bị rắc rối. Thế là tôi quẳng bút, ngồi nhìn ra cửa sổ. Bên ngoài trời vẫn mưa xào xạc, là cái tiếng thu. Trong nhà lạnh, như nhà mồ. Tôi dậy đóng cửa sổ lại. Tôi bật điện ban ngày, cho tốn điện. Tôi hỏi sọ tôi, ai đưa tôi đến cảnh này? Sọ một lúc sau nói, là thằng Tinh Bốp. Không phải thằng Ngỡi, thì là Tình Bốp. Tôi nói, hoặc cả hai thằng, một thằng thủ mưu, bên mâm cháo ám, một thằng hành sự, sau khi đã đánh chén no say, vẫn còn được thêm khúc đuôi cá mang về. Tôi hỏi sọ, tại sao Tình Bốp lại chơi tôi cú chết người này? Sọ không nói gì. Tôi phải ngồi lí luận, một mình. Tôi nghĩ, có thể vì tôi dạo này tránh đi, qua cổng sắt nhà nó, cho nên nó thù tôi. Nhưng tôi lại nghĩ, ắt là phải có uẩn khúc, đâu đây, mà không biết. Thằng Tình Bốp có uống say, cũng không ba hoa vô tình, ngay cả khi say, cũng vì nó cố tình say. Tờ thú của tôi lúc này tắc tị, là do Tình Bốp, bởi vì nếu tôi thú thật mọi chuyện, tôi phải khai tên nó, là đứa đã chuốc rượu, và khích tôi nói láo. Tôi không muốn lôi bạn tôi vào chuyện rắc rối, cũng không muốn đánh mất cái thể diện của một thằng dằn di. Vả lại, tôi vẫn tự coi mình là nhân vật oai vệ số một, trong cả năm thằng. Tình Bốp vô tình, hay cố tình, để lộ cuộc rượu, của hai thằng, tôi đều không có bằng chứng. I như trong thánh kinh: tôi băn khoăn mãi. Và cũng i như trong thánh kinh: trong tôi vẫn còn sót lại, một hạt lương tâm bé nhỏ. Bây giờ 1 giờ chiều, hạt lương tâm tuy bé nhỏ, nhưng đủ để tôi tắc tị, suốt 3 giờ đồng hồ. Bây giờ, sọ tôi mới bảo, à, thôi cứ phải thú thật. Khu phố không phải một mình ông Trung trố. Còn đông người nữa, còn bác Mẫn, còn chị Hòa. Khu phố muốn bắt ai, phải trình lên trên, chỗ anh Thái công an, và còn lên cao nữa. Bao nhiêu người, sẽ đọc tờ thú này, bao nhiêu í kiến, bao nhiêu xác minh. Chắc chắn là, tờ thú này sẽ phải đem so, với các lời khai, của bạn bè tôi, của hàng xóm, của vợ tôi, có thể của cả mẹ tôi nữa. Nếu khai láo một li, tội tôi sẽ dài, đi một dặm. Nhớ các truyện trinh thám tôi đọc, người nói dối phải tiếp tục nói dối, đến hết đời. Nói dối, chính là một lối trừng phạt, của lương tâm. Cho nên, nếu vì cái hạt lương tâm bé nhỏ, mà tôi bảo vệ Tình Bốp, thì chính lương tâm, đến lượt nó, sẽ không để tôi iên.
Thế rồi mưa, mưa mau hạt, cho nên cửa sổ toàn bộ trắng nhợt. Tôi còn nghĩ, lương tâm nếu không trừng phạt được tôi, sẽ bỏ đi. Mất lương tâm, tôi sẽ thành con vật. Còn tồi tệ hơn. Cho nên bây giờ, tôi đồng í với ông Trung trố: tôi kể hết bữa rượu nem Phùng, cả rượu cả nem, cả thịt ngỗng béo. Kể khách quan thôi, không lí luận, không kết luận. Tôi cười nhạt. Kể khách quan, có nghĩa là tố ngầm. Nhưng tôi lại nghĩ, khi Tình Bốp kể lại với thằng Ngỡi, hoặc với một thằng nào đó, tuy kể khách quan, cũng là cố tình tố ngầm tôi. Vì khôn ngoan như Tình Bốp, phải là thằng Ngỡi, hoặc một thằng nghe trộm, sẽ nhanh chân đi, báo cáo chính quyền. Như vậy, Tình Bốp tố cáo tôi trước. Người nào đánh trước, là có tội, với người đánh sau. Tôi xé tờ nháp lúc nãy, viết luôn vào tờ giấy còn lại. Tôi viết, cái đầu đề là, TỜ TỰ THÚ. Tôi xuống hàng: tôi bắt đầu viết, nội dung như cuốn nhật kí, bìa dằn di. Nhưng tôi tóm tắt: tôi bỏ đi mọi lí sự, và mọi đối thoại. Tôi kể tôi trốn dưới hầm, tôi cùng Cốm đi, xem phố ngày tiếp quản, tôi xuống buồng tắm, tìm Cốm vào đúng buổi-tối-phát-súng. Tôi phải thêm giấy. Tôi kể tôi đến nhà Lily, đi chơi với Lily, và sau đó đuổi theo, cánh bướm trắng, chiếc mùi soa, trên sân ga. Tôi lại thêm giấy. Tôi kể tôi đi câu, tôi ngâm mình, dưới nước, trên bờ là những cột đèn, mới dựng. Tôi kể tôi bị công an cử người theo dõi, từ ngã tư đến ngã tư. Tôi thêm giấy lần nữa. Cuối cùng, mới là bữa rượu nem Phùng, và cơn say cùng Tình Bốp. Tôi kể được sáu trang, là ba tờ giấy hai mặt. Sáu trang, là 3 giờ liên tục. Tôi không thấy mệt. Tôi đứng dậy, ra mở cửa sổ, để xem mưa buổi chiều, hạt nào nhẹ, hạt nào nặng. Và để tôi thò, cả năm ngón tay, vào mưa, cho đỡ mỏi. Xem mưa chán, tôi quay lại tờ thú, và đọc lại nó. Thấy tôi xấu xí quá. Tôi chơi ảnh truồng, tôi ngốn trinh thám, tôi chụp ảnh nghệ thuật em Cốm, là nghệ thuật dằn di. Tôi bất mãn, với khu phố, tôi đi câu nhái, để chiều tính lêu lổng, sợ đi làm, bó buộc. Tôi thích xác thịt, tôi thích rượu, và thích uống, cho đến say, cho đến buồn ngủ. Tôi thấy, tôi lộ toàn bộ, là bản chất thằng lính tàu bò, không thay đổi. Tôi làm tờ thú, là một cách tự phê bình, thú vị. Tợ hồ đang dùng ngón tay, nghịch đúng vào cái nhọt nhức. Tôi đi lại, trong buồng, ba tờ thú trên tay. Tôi đến trước gương, nhòm vào cái bóng mặt tôi, thấy cũng xấu xí, làm tôi chỉ muốn cho một quả đấm. Cuối cùng, không hiểu sao tôi chìa tay, để bắt tay, với bóng. Tôi phải quay về tờ thú, tôi còn cả phần hai phải làm. Tôi phải xin được khoan hồng. Tôi xin hứa, sẽ đi làm phụ lái ôtô, hoặc phụ, cho bất kể cái gì. Tôi sẽ chừa, ảnh nghệ thuật, chừa cả truyện trinh thám, tuy nhiên tôi cảm thấy, lời hứa này không chắc chắn cho lắm. Nhưng tôi vẫn hứa. Tôi hứa, sẽ năng đi họp khu phố hơn. Tôi hứa, sẽ xây dựng gia đình, cho êm thắm. Tôi hứa xong, là 5 giờ chiều. Trời vẫn mưa. Tôi ngồi. Tờ thú đã xong. Tôi thấy nhẹ mình. Nhưng buổi chiều 5 giờ tại sao bỗng dưng, vô cùng trông trải, vô vị.
7 giờ tối, mưa muộn, cho nên cửa sổ toàn bộ trắng nhợt. Chắt sang nhà tôi. Miệng nó còn ngậm tăm, để vừa nói chuyện, vừa quèn quẹt, xỉa răng. Tôi lấy tờ thú, cho nó xem. Nó xem, cái tăm vẫn xỉa, quèn quẹt. Tôi pha càphê thết nó. Vậy là, nó vừa xem, vừa uống càphê, vừa tiếp tục xỉa răng. Xem xong, nó lại xỉa răng, để nghĩ. Nó nói: Được. Tao thấy thật thà. Từ hôm qua, tao cứ nghĩ vớ vẩn. Bay giờ, mới rõ đầu đuôi. Mày đừng chơi với Tình Bốp nữa. Nó hay khích, mà mày lại dễ bị khích. Lần nào gặp nó, tao cũng khó chịu. Nói thế này, nó bẻ ngoe ra thế nọ. Một lần, tao đạp thẳng: tao bảo thôi đi, ông anh, đừng có tác động tôi. Ông anh tâng bốc, xỏ xiên, khích bác, là cái trò ba que. Thế là nó tái mặt. Từ đấy nó trợn tao. Mày nghe tao, mày còn chơi với Tình Bốp, có phen hủi to, hối không kịp. Tao xem, nó không phải thằng lương thiện”. Chắt ra về trong mưa bụi, cho nên cửa sổ toàn bộ trắng nhợt. Nhà tôi vắng, như nhà mồ. 10 giờ tối tôi đọc lại tờ thú: tôi tự đặt tôi, vào địa vị ông Trung trố. Ông Trung trố không bằng lòng. Ông Trung trố không được thỏa mãn. Ông Trung trố nói: à đây, chỗ này anh ngờ vực chính sách khoan hồng, chỗ nọ anh đòi đi tu, đấy là cái trò kép đây. Anh vu vợ anh lăng nhăng với công an thế là đả kích cán bộ. Anh đánh vợ, cũng xen chính trị vào. Anh rượu chè, cũng xen chính trị vào. Anh ngoan cố. Tờ thú của anh, cũng là cái trò kép, trò đúp, của anh. Tôi nghe lời ông Trung trố, cầm bút gạch, tứ tung. Tờ thú nom nhằng nhịt. Tôi triết bỏ, triết bỏ câu văn, sự việc và sự thật. Tôi đã vứt đi 2/3 sự thật. Tôi đọc lại nữa, vẫn thấy hớ hênh, để ông Trung trố lại không hài lòng. Sự thật 1/3 vẫn là quá nhiều, để ông Trung trố lại có cớ, mà bắt tội tôi. Tôi gạch bỏ thêm. Xoay câu, đổi í, đổi mẹ cả sự việc. Thế mà, ông Trung trố vẫn không vui lòng. Bởi vì, không có tờ thú, ông Trung trố vẫn nắm được hết, mọi chi tiết tôi làm, từ trước rồi. Bởi vì, ông vẫn muốn tôi phải tự thú, có chống cộng thật, ông mới thích. Tôi thì ngược lại, tôi mà làm cán bộ, tôi chỉ thích mọi người tự thú, là có iêu cộng sản thật, có ủng hộ thật. Càng đông người, đông chân tay, tôi càng thích. Thế là tôi vứt đi, cả sáu trang tờ thú. Tôi đi lại trong buồng, tự nhủ kiếp sau, có lộn về Hà Nội, tôi sẽ làm cán bộ, để iêu quí, toàn bộ nhân loại. Tôi đi lại trong buồng, mỗi lần đi qua gương, lại nhìn mặt tôi, một cái. Mỗi lần đi qua gương, tôi lại chửi, một câu. Tôi thằng sắp chết. Tôi thằng nhọ, thằng dằn di. Tôi thằng bị phạt, phải làm kiểm điểm. Tôi thằng câu nhái. Tôi thằng iêu ảnh truồng. Tôi thằng nghiện trinh thám. Tôi đứng lại trước gương, tôi nhìn vào mặt thằng trong gương. Trước mặt tôi, là thằng vợ bỏ. Thằng một nghìn căn cước. Thằng ăn bớt tờ thú. Thằng này bị chửi, nhưng phớt lờ, nhưng vẫn giữ cái mặt phản ứng. Tôi ra sọt rác, lấy lại tờ thú sáu trang, tôi lộn lại trước gương, mà xỉa tờ thú, vào mặt nó. Tôi nói, tôi là ông Trung trố, anh còn phản ứng à? Còn oan ức gì nữa? Làm tờ thú thế này à? Không làm thì thôi, đã làm thì phải làm, cho tử tế. Tờ thú thế này, mà coi được à? Anh vờ vĩnh. Thằng tôi trong gương nghe vậy, thì cười khè. Nó cười ông Trung trố, chứ không cười tôi, tôi nghĩ như vậy. Cho nên tôi không đánh đập nó. Cho nên tôi quay ra bàn, tôi vứt tờ thú sáu trang, lên mặt bàn. Cả sáu trang rơi xuống đất. Tôi cáu. Tôi vồ lấy chúng, vò thành một cục tròn. Cục tròn lăn từ tay tôi, xuống mặt bàn, rồi từ đầu bàn, vê cuối bàn. Tôi ngồi thừ một lúc lâu. Tôi nhặt lại tờ thú, vuốt cho thẳng, rồi đọc, thêm lần nữa. Tôi thấy, nó nhạt thèo. Vì nó giả tạo, nên nó nhạt thèo. Tôi ghét nhất cái gì nhạt. Vì vậy ghét nhất cái gì giả tạo. Tôi ngồi thừ, lúc nữa. Tôi nghĩ trong số người tôi quen, có chị Hòa, có bác Mẫn không nhạt, bởi vì họ thành thật. Tình Bốp nhạt. Ông Trung trố đại nhạt. Ông Trung trố đại nhạt, bởi vì ông đại giả tạo. Có thể ông giả vờ như vậy, để giấu đi, cái mờ ám phía sau. Ông iêu miên Bắc, theo cái lối như không ai iêu băng ông. Như thế là giả tạo. Nhưng tôi cố xua đi, cái phát hiện bất ngờ này. Tôi quay lại tờ thú. 12 giờ đêm, tôi viết lại tờ thú. Tôi lấy, một tờ giấy đúp khổ to. Tôi cúi đầu viết, một lèo, chỉ toàn sự thật như cục gạch. Tôi viết, hệt như tôi nói, trong nhật kí Tôi viết không tính toán lôi thôi, hệt như tự vật ngửa tôi tênh hênh, trên tờ giấy trắng. Vừa gọn tờ giấy đúp. Tôi đề ngày tháng. Tôi kí tên, bên dưới. Tôi thấy thoải mái, thanh thản. Tôi đọc lại, lúc 1 giờ sáng. Rồi ra trước gương, để bắt tay thằng tôi, trong gương. Tôi lấy rượu ra, uống một mình, để kết luận, về sự thành thật, như nguồn gốc, của nhiều vui sướng, ở đời. Những người ở quê, tôi thấy họ nghèo, nhưng họ thật thà. Họ thật thà, nên họ sung sướng. Những người ở phố, có vẻ nhiều bi kịch hơn, bởi lẽ họ ít thật thà hơn. Những người thành phố nào, chẳng may thật thà, nom họ cũng sung sướng thật. Tôi triết lí sung sướng như vậy, được vài lúc, rồi cũng phải quay về thực tế, vì tôi là người thực tế. Tôi lại băn khoăn câu hỏi lúc nãy. Là, tờ thú này đến tay ông Trung trố, ông sẽ nói sao? Sọ tôi bảo, thôi đừng trố trố mãi, còn bao nhiêu chị Hòa, bác Mẫn. Còn anh Thái nữa. Ông Trung trố đâu phải là cả khu phố. Ông Trung trố không phải là cả khách quan. Tôi đồng í như vậy. Tôi đồng í thế này: tôi thật thà, còn ông ta giả dối. Tôi không giấu giếm gì, còn ông ta có những uẩn khúc, không rõ ràng. Tôi uống, không ăn: cho đến buồn ngủ. Đến 3 giờ, tôi làn kềnh ra giường. Đèn quên không tắt, cứ thế cháy đến sáng.
Ngày số 6. Trời vẫn mưa, cho nên cửa sổ toàn bộ trắng nhợt. Đúng là mưa dầm. Hôm nay là ngày thứ hai, trong cái nạn 3 ngày của tôi. Tôi định bụng, sẽ không đi đâu. Tôi đọc lại tờ thú lần nữa, vẫn thấy được. Nhà tôi hôm nay vắng, như nhà mồ. Hạt lương tâm của tôi, vẫn nằm iên ổn, thế là được. Tôi thổi cơm, rồi ra chợ, mua hai lạng thịt bò, mấy cọng hành tây, đủ để tôi thái thái, xào xào trên bếp điện. Tôi vừa làm cơm, vừa uống. Tôi nghĩ về Cốm. Tôi nghĩ, Cốm có lẽ vẫn ở trên nhà mẹ tôi. Không biết có nên đi gọi Cốm về. Gọi về thì sau này, cô ả càng được thể, lấn dần, vì đàn bà là hay được thể lắm, i như trong thánh kinh. Vả lại, hễ thằng chồng dọn cứt, cho con một lần, lần sau con có ị, lại thằng chồng tiếp tục đi hầu cứt, cũng i như trong thánh kinh. Thế là một mình, tôi ăn món thịt bò, xào cần tây. Một mình, tôi uống rượu quê. Uống đen đầu, hạt lương tâm của tôi lại lăn thêm, về phía Cốm, đến đấy. Thế là tôi áy náy. Tôi nghĩ, Cốm trước kia rụt rè, bây giờ đáo để thế. Tôi không đi gọi, đời nào Cốm tự dưng về. Nhưng mà, đàn ông, theo thánh kinh, cũng ghê lắm. Đàn ông mà tát vợ một lần, vẫn lời thánh kinh, lần sau nó không tát, mà cho một cái đạp chân. Thế thì cũng tội nghiệp cho Cốm. Tôi hỏi sọ tôi. Sọ bảo, đi gọi Cốm về. Sọ tôi định lí luận, thêm một lúc nữa, tôi cũng định băn khoăn, thêm một lúc nữa, thì có người đập cửa. Tôi ra mở cửa: trước mặt tôi là Tình Bốp.
Tình Bốp vào, lảo đảo rũ tóc, ra một đống nước mưa. Toàn thân sặc mùi rượu, mặt tái nhợt. Nó bước một bước chân trái sang bên phải, rồi một bước chân phải sang bên trái. Tôi nghĩ nó cố tình, chân nọ đá chân kia. Nó nói: “Saaay”. Tôi nói: “Ngồi xuống đã. Làm tí nữa”. Nó ngoan ngoãn, ngồi vào chiếu, có vẻ ưu tư và buồn bã lắm. Tôi rót rượu cho nó. Tôi nghĩ, Tình Bốp sang, để thăm dò, nên phải cẩn thận, và bởi vì cẩn thận, tôi đã không văng cho nó một quả đấm. Tôi nói: “Mày nói lộ hết cả, với thằng Ngỡi, để tao chết cháy”. Nó nói: “Cái thằng tệ. Ngờ đâu, nó đi báo cáo. Mà tao dặn nó rồi. Dặn đi dặn lại. Biết đâu là nó mạt đến thế. Sáng nay nó lại đến. Cái thằng bều nhều, lèo nhèo, tởm kinh. Mày còn lạ gì nó, chửi mắng nó, vô ích”. Tôi nói: “Kể lại tao nghe”. Nó nói: “Là thế này, chiều hôm kia, tao làm nồi cháo ấm, vì nhớ mày. Nó không mời, mà đến. Nếu không, tao cho gọi mày, thì đã không nên chuyện. Nó ăn uống no say, rồi ngồi nói xấu mày. Nó bảo mày trước kia, là thằng anh hùng, giờ thằng anh hùng đã bươm, bườm bườm. Mày biết tính tao, làm gì nói gì, tao cũng tính. Mùa hè, tao đã tính đến mùa đông, mùa đông của cả mấy năm sau nữa. thế mà hôm ấy tao hớ thật. Tao có lỗi với mày. Bây giờ, mày trách tao, tao cũng chịu. Nhưng tao luôn luôn đứng về phía mày. Kẻ hại mày, không phải là tao, chắc mày biết cả. Tôi nói: “Mày kể gì với thằng Ngỡi?” Nó nói: “Kể hết, nhưng không hết”. Tôi nói: “Là thế nào?” Nó nói: “ Kể hết bữa rượu nem Phùng. Chỉ trừ một chi tiết”. Tôi nói: “Thế là thế nào?” Nó nói: “Chỉ trừ chuyện tao với mày sẽ chơi trò kép, trò đúp. Vì đây là chuyện riêng, của tao với mày”. Tôi rùng mình. Tôi không hiểu gì nữa. Tôi vẫn đinh ninh Tình Bốp là thủ phạm, của vụ rắc rối này. Nhưng có lẽ không phải. Nó có vẻ thật thà, và hối hận lắm. Nó nói: “Thằng nào, con nào hại mày, chắc mày biết rồi. Trông mày vẫn phớt lắm. Chắc mày nom rõ nước cờ của đối thủ rồi, chứ gì?” Tôi nói: “Hừm”, vì tôi chẳng nom rõ cái gì cả. Tình Bốp nhắc lại: “Trông mày vẫn phớt lắm. Tao biết sấm ù ù trên đầu, mày vẫn không lo lắng gì”. Tôi nghe nó nói, cũng thích, vì cái lỗ tai của tôi thích. Cái lỗ tai thích, làm tôi nguôi giận. Tôi nói: “Tao lúc nào cũng vẫn thế”, rồi rót thêm rượu, cho nó.
Tình Bốp nói: “Thế mới đúng là mày. Đầu mày lúc nào cũng thẳng, như cột thu lôi, sét đánh không chết. Tao thi kém lắm, cứ như cái trạm khí tượng. Trời đất hôm qua khác, hôm nay khác, là tao đã lo cơn bão số mấy. Bão còn đang ở Philipin, ở đây tao đã lo, cuống cuồng. Tao không phải cái cột thu lôi, nên tao phải nấp vào bóng không thì sét đánh chết. Tao biết vậy, nên biết ơn biết ơn mày, nên tao bảo vệ mày, không ngờ lại. Nhưng mà, dạo này mày không gặp tao, nên nhiều chuyện mày không biết”. Tôi vểnh tai lên, tôi hỏi: “Chuyện gì?” Nó nói: “Thằng Ngỡi hôm ăn cháo ở nhà tao về, nó đến thẳng nhà thằng Đoành. Sáng nay tao hỏi thằng Ngỡi, nó thú nhận, có về qua cổng nhà thằng Đoành, thấy thằng Đoành tập hát, rất to, cả phố nghe thấy, nên vào nghe hát, một lúc. Nó nói dối, nhưng tao biết nó ghét âm nhạc. Nó đến để hai đứa bàn mẹo với nhau. Thằng Đoành bây giờ làm quân sư, cho cả ba thằng chúng nó. Sau đó, thằng Ngỡi đi, báo cáo ông Trung trố. Thằng Đoành, bên ngoài cứ hát với kịch, thế mà nó đẩy mày, đến cái chỗ bị trấn áp, đến cái nạn làm tờ thú”. Tôi nói: “Mẹ thằng Đoành, tao mới ngủ nhà nó, tối hôm kia, đúng lúc thằng Ngỡi đi, báo cáo ông Trung trố”. Tình Bốp nói: “Đấy, trước tao cũng quí mến nó, bây giờ qua việc này mới biết, thằng Đoành là thằng nào. Còn ông Trung trố mới nực cười, cứ láu ta láu táu. Lại còn đòi trấn áp mày. Lại còn bắt mày làm tờ thú, mà lại không được chơi chữ. Để tao giúp mày làm tờ thú. Cứ kể từ ngày hòa bình, cứ khai mày là thằng dâm ô, chỉ đớp với hít, toàn những thứ cả thành phố đều biết rồi. Mày phải nói là bên ngoài còn nhiều biểu hiện, của tàn dư đế quốc, nhưng bên trong, mày vẫn một lòng một dạ, quay đầu về tổ quốc. Đến cái trò kép, trò đúp, thì tại vì say quá, chăng nhớ đã nói gì nữa. Mày lúc ấy đang phiên muộn, vì mấy thằng bạn, chúng chơi đểu mày, chúng chơi trò đúp. Cho nên lúc say, mày mới buột ra, cái trò kép, trò đúp. Thế thôi. Mày đâu có làm như vậy, với họ. Rồi mày kêu oan. Thế là huề cả làng. Ván trò kép, trò đúp, của tao với mày, được bởi vì từ nay mày thấy rõ, thế nào là tình bạn thời bây giờ”.
Tôi rót rượu cho Tình Bốp. Hôm nay nhờ nó, mà tôi được biết ba thằng bạn đồng ấu của tôi, chúng lấy tôi làm vật-tam-sinh, để tế lễ khu phố, để dọn đường tiến thân của chúng. Tôi định bụng sẽ viết lại tờ thú, để gỡ lại ván cờ thua. Tình Bốp nhìn xa trông rộng, đã tính sang vài ván cờ mới. Nó nói: “Ván sau, là tiếp ván này. Vì là ván cờ đời, nên không bày lại quân, mà cứ đánh tiếp, đánh mãi”. Tôi trả lời: “Nói đi, mày thử dự đoán thời tiết, về sau xem thế nào”. Nó nói: “Cái tờ thú, là cái bẫy. Phải vào thằng chữ nghĩa, như mày, mới chuyển từ thua thành huề được. Vào tay tao, cũng vẫn thua. Chỉ có mày mới đủ thông minh, để xoay mũi dùi, đâm vào bọn ba thằng. Thế này, mày xoay tờ thú, thành luôn tờ kiện. Mày kiện lại bọn thằng Đoành. Thế mới nan giải. Bọn thằng Đoành tố mày. Mày tố lại chúng nó. Việc sẽ chẳng ra đâu vào đâu, ắt phai bỏ lửng. Bọn thằng Đoành sẽ mất tín nhiệm, với khu phố với công an. Từ chỗ ấy, chuyển sang ván sau, mới tốt được”. Tôi nghe nó nói, thấy hay. Hay bởi vì, tôi không sáng kiến được như nó. Nhưng tôi có làm như nó nói hay không, đấy là chuyện khác Tôi còn phải hỏi sọ tôi, còn phải lí luận dài. Chắc phải hết, cả một ngày. Tôi gật đầu. Tình Bốp nói tiếp: “Cái thằng Ngỡi, có thể mua được. Rẻ thôi chỉ một tí rượu tí thịt, nó có gì trong bụng, tao lôi ra bằng hết. Tao sẽ lo hộ mày, để mày rảnh tay, làm những việc khác, to tát hơn. Tao theo dõi thời tiết, mày cứ việc đội sấm lên đầu, mà tác chiến. Tướng của mày là làm tướng, chứ đâu chỉ làm thằng câu nhái. Anh hùng giữa lúc trần ai, phải người tinh mắt mới thấy. Bây giờ mày là vị anh hùng, đang lâm nạn, nhưng rồi xem, dăm năm nữa, có khi còn sớm hơn, đến thời của mày, lại vọt lên. Biết đâu lại ôtô, nhà lầu. Biết đâu mày thành ông đại tá tàu bò, cho ối thằng trắng mắt. Nhưng người ta nói, mọi chuyến đi vạn dặm, đều phải qua bước đầu tiên. Khởi động về hướng này, là đến vườn hoa phồn vinh. Khỏi về hướng khác, là đến chỗ lúi xùi. Khởi đầu của mày, là cái tờ thú. Nhưng thời tiết về sau dễ chịu. Hết đùng đoàng, tao với mày tính cách làm ăn. Hai thằng vừa làm, vừa ăn. Chỉ hai thằng thôi. Hậu vận tao với mày, thênh thang”. Tôi nói: “Iên trí. Rồi đâu có đó. Mày đừng nhòm, vào tờ thú. Để một mình tao, xoay xở”. 3 giờ trôi qua, tôi vẫn chưa tìm được sự thật.
Mưa mau hạt, cho nên cửa sổ toàn bộ trăng nhợt. Tôi làm việc với sọ. Tôi đọc lại tờ thú. Tôi thấy vẫn được. Tôi cất vào tủ, coi như xong. Sọ khen tôi, thế là tốt. tôi châm điếu Côtab. Bóng tôi xa xa, trong gương, đang nhìn tôi, chăm chú. Sọ khen, tôi giả vờ giỏi, làm sọ lúc nãy tưởng thật. Tôi nói, tôi học được cách đóng kịch, từ lũ bạn tôi. Chúng nó hồn nhiên, trộn lẫn thật giả vào nhau, cả bốn thằng, bây giờ thêm tôi nữa, là năm. Sọ bảo, thế thì nhạt lắm. Tôi nói, do hoàn cảnh thôi, vả lại Tình Bốp đến nhà tôi, với lời nói dối trên tay, tôi phải cho nó, cùng vài lời nói đối để nó mang về. Luật đời là thế, cho gì nhận nấy. 3 tiếng liền, nó ngồi nhà tôi. Lúc về cũng như lúc đến: nó đi chân nọ giâm chân kia nhưng tôi biết, chân nó không vô tình. Chân nó cứ đi sang hai bên, vậy mà vẫn đưa được nó, tới nơi nó muốn. Nó về có vẻ iên trí, nhưng cái bụng thầy dùi của nó chắc gì đã iên trí. Nó về, dưới mưa. Trời mưa, từ hôm tôi bỏ đi, từ hôm Cốm bỏ đi, thế là 3 ngày. Thế là mưa dầm.
Trời mưa, cho nên cửa sổ toàn bộ trắng nhợt, cho nên tôi lại ngồi lí luận. Tôi lẩm bẩm, có vấn đề, có vấn đề. Cuộc đến thăm sáng nay của Tình Bốp, đúng là có vấn đề. Nó nói, thời của tôi, là thời nào? Nó nói, dăm năm nữa, tôi có ô-tô-nhà-lầu, dăm năm nữa, tôi thành ông đại-tá-tàu-bò. Nó nói, tôi phải khởi đầu, từ cái tờ thú này, như khởi đầu cuộc làm ăn, giữa tôi và nó. Không nghe theo nó, không đến được vườn hoa phồn vinh, thì tôi ngu. Sọ tôi bảo, lại lưỡng lự rồi, nhưng mà theo nó, khéo thành Việt gian. Tôi cười vào mặt sọ, tôi ra soi gương. Tôi thấy, cái bóng tôi hồi lâu thẫn thờ, quả là tôi không có tướng làm Việt gian thật. Thầy dùi dùi nhầm địa chỉ. Tôi nghĩ, tại sao Tình Bốp lại dám trắng trợn, vờ úp, vờ mở như vậy, trong lúc thời tiết sấm sét thế này. Nó không sợ tôi tố nó. Có lẽ vì, chưa bao giờ nó sợ tôi cả. Sọ tôi bảo, có hai giả thiết. Hoặc nó là thằng phản động, nó nhè dịp này để lôi kéo tôi, làm phản động. Hoặc nó được công an cử đến. Tôi bảo sọ, tôi là cái thứ gì, mà khách đến nhà, trước kia là bạn bè, bây giờ tất cả biến dạng, thành hai loại: một là phản động, hai là công an. Sọ bảo, vì nhà thằng tàu bò, là cái ngã tư, để phản động và công an tự do đi qua. Chuyện này lạc đề cho nên tôi gác lại sau: trong sọ tôi có một góc toàn đồng nát, cứ đầy mãi, những vấn đề gác lại. Tôi không hiểu vì sao, Tình Bốp muốn tôi đánh nhau, với bộ ba Đoành–Chắt–Ngỡi, và tại sao nó thù ghét thằng Đoành, đến như vậy. Các tình bạn của năm thằng tôi, vốn êm đềm trong chiến tranh, đến lúc hòa bình lại chia nhau đi mất, về đủ năm hướng. Hôm nay, tôi cũng xếp những tình bạn này, vào đống đồng nát các vấn đề gác lại. Còn chừa lại chỉ những cái tên người. Ngỡi, thì rõ rồi một thằng chỉ điểm, mạt hạng. Đoành, một thằng nói dối giỏi hơn nói thật. Chắt, cá tính không rõ ràng và một thằng thấy gì cũng sợ. Tình Bốp, một thằng lúc nào cũng lên chương trình mưu mẹo. Còn Dưỡng cái thằng tôi, thuần một thằng tàu bò, lắm hoài nghi. Cả năm thằng đều dở dang, đều không kết bạn được. Cho nên, chỉ còn tôi và sọ và cái mặt tôi trong gương, còn chơi thân được với nhau. Nhưng chiều nay cũng lủng củng. Chiều nay, nhà tôi lạnh, như cái nhà mồ.
Mưa dầm, từ 3 ngày không nghỉ: từ buổi sáng, đến buổi trưa. Mưa dầm sang cả buổi chiều. Mưa dầm cho nên cửa sổ toàn bộ trắng nhợt. Không ăn cơm chiều, mà xông ra ngoài xem mưa. Tôi đạp xe lung tung, mà đầu để trần. Trên phố, tôi lại nghĩ tới Tình Bốp. Không hiểu ai đã kịp thông báo, cho nó biết, rất nhanh : là tôi phải ngồi nhà, làm tờ thú. Nó mưu mẹo biết tôi còn thích Lily, cho nên ra đến cửa, trước khi dấn thân vào mưa, nó tự dưng quay lại đượm buồn. Nó nói: “Tao đang có chuyện. Lily đi đã lâu, mà không gửi tin về. Không biết Lily đã đi, hay mắc lại đâu đó”. Lúc ấy, tôi không tin, cả bây giờ nữa, tôi cũng không tin. Phố bày ra trước tôi, phong cảnh mưa dầm, với hàng cột điện lòe nhòe, với các lòng phố bùn nước, và các vỉa hè ướt người đi lại. Gió đông bắc về, là đợt đầu tiên của năm. Tôi nghe thấy, gió thổi trong sọ. Tôi không có việc gì làm.
Tháng mười một 1965. Chị Trinh kể: em đang khâu áo lọt lòng, cho đứa con, sau này. Chỗ mẹ chồng em ở, rất hẹp. Ba mặt tường nhà là ba cái liếp tre, em đếm được 500 cái khe nhỏ, ngăn cách với ba gia đình khác. Mẹ chồng em đi họp tổ dân phố. Nhà em vào, thình lình ú òa sau lưng, cứ như không có cuộc cãi nhau 3 hôm trước. Thấy nhà em, em nghiêm mặt và quay vào tường. Ngọn đèn có mười lăm, nên tối. Mẹ chồng em hà tiện, không chịu thắp bóng sáng hơn. Em tiếp tục khâu, nhưng mũi nọ, xọ mũi kia. Em càng quay hẳn vào bóng tối. Nhà em hỏi: “Mẹ đâu?'' Em không đáp. Nhà em nói: “Khinh người nhỉ”, rồi ngồi ngay xuống, bên cạnh. Em cứ xích ra xa, nhà em tới gần. Em chỉ lo có người tò mò, nhòm trộm qua 500 khe liếp. Em nói: “Ở đây không phải như ở nhà; đâu nhé. Đừng có giở trò”. Nhà em nói: “Thế là nói rồi. Làm lành rồi nhé”. Em quay đi. Nhà em nói thầm, đằng sau lưng: “Thôi, đừng dỗi nữa. Tôi sắp đi tù rồi”. Em làm thinh. Nhà em nói tiếp: “Khu phố nghi tôi là gián điệp. Ông Trung trố gọi tôi lên trụ sở sáng hôm qua, để đập bàn đập ghế, để bắt tôi làm tờ thú”. Em quay lại. Em nói: “Đừng bịa khẩu”. Nhà em nói: “Thậật. Tôi lên chào mẹ và gọi Cốm về trông nhà. Đùng cái bị xích tay lôi đi, nhà không có ai”. Nhà em trông phờ phạc. Đèn tối, nhưng em vẫn nhìn, thấy mắt vằn vằn tia đỏ, như người vừa thua bạc. Em biết nhà em nói thật, nên không dỗi nữa. Em bàng hoàng lo sợ. Thảo nào, từ sáng thấy nóng ruột, đứng ngồi không iên. Lúc trưa, chị Hòa đến, khuyên em về nhà ngay. Qua thái độ không rõ ràng của chị, em cũng đoán, có chuyện bất thường. Chị hứa, chị sẽ bảo nhà em đến, đón em về, nhưng lúc ra đến cửa chị lại nói: “Cô xem xem, tính anh ấy có chấp nhặt thế không. Không thì cô cứ tự đi về, cho sớm”. Em rất muốn, nhân dịp mẹ chồng bênh con dâu, trị cho nhà em một trận. Nhưng bây giờ nghe nhà em, bị tình nghi là gián điệp, em hốt hoảng quá. Em đứng dạy, sửa soạn túi áo, để theo về. Mẹ chồng em vào, bà cụ nói: “Anh lên đây làm gì?” Nhà em nói: “Con đến đón nhà con về”. Bà cụ nói: “Đón về để anh hành nó à? Hôm nọ có mặt tôi, anh cũng không nể tôi”. Rồi cụ bảo tôi: “Con nghe mẹ, không về”. Nhà em bị mẹ mắng, đứng đực mặt. Em ghé tai bài, để 500 cái liếp đừng nghe thấy gì, và để nói thầm “Nhà con bị khu phố nghi phản động, bắt làm tờ thú. Mẹ để con về, xem chuyện ra sao”. Bà nói: “Lại còn nghi à? Nó phản động, rành rành ra đấy. Kệ nó. Cứ để khu phố bắt nó đi tù”. Bà cụ giận lắm mới nói vậy. Bà nói với tôi: “Mày cứ ở đây. Đưa cháu tao nuôi. Mẹ con, bà cháu đùm bọc lẫn nhau. Rồi xem có đám nào tử tế, tao gả cho. Gái một con, đẹp người ngoan nết, kiếm đâu chẳng được người, tử tế hơn thằng tàu bò”. Nhà em nói: “Mẹ cần gì nói nhiều. Đằng nào con cũng sắp đi tù rồi. Con đi tù, mẹ lại nhớ con. Con lên chào mẹ, đây mà”. Bà cụ nói: “Anh đi tù, tôi mừng nhất. Anh đừng đánh vào tình cảm mẹ con. Anh báo hiếu mẹ anh thế này, mẹ anh sung sướng lắm đấy. Mẹ góa con côi, nhưng mẹ anh có để anh thiểu thốn gì đâu. Mẹ anh buộc mồm, buộc miệng, anh thì sung sướng, quá con tổng đốc”. Nhà em bước đến, ngay cạnh 500 khe liếp im lặng, nói một câu tỉnh khô: “Phương pháp nuôi trẻ của mẹ sai. Chiều quá”. Bà cụ nói: “Phải. Saai. Nhưng mà không sai, thì anh lăn quay ra đất, dỗ cả ngày không xong”. Nhà em nói: “Hựự!”, làm em không nhịn được cười. Bà cụ vẫn nói: “Chứ ngoan à? Anh có lần tụt giày, ném cả vào mặt mẹ anh”. Nhà em nói: “Thằng mất dạy. Sao mẹ không đánh, cho nó một trận nên thân? Bà cụ nói: “Đánh à? Khốn nhưng anh chạy, ra phố, ai đuổi được anh? Anh không thiếu cách gì: ăn vạ, giả chết, dỗi cơm, bỏ nhà, trốn đi chơi. Mẹ anh khổ với anh từ bé”. Nhà em nói: “Sao mẹ không trói nó lại, bắt nhịn cơm, gọi cảnh sát, thiếu gì cách? Mẹ phải chịu thua nó à?” Em nghĩ hai mẹ con đã làm lành, với nhau, nên đem cái túi da buộc vào poócbaga xe đạp. Bà cụ vẫn say sưa kể tiếp, như thể cho 500 cái khe nhỏ, tối nay bỗng dưng im lặng, trên cả ba tấm liếp che. Bà nói: “Khốn mẹ anh hiếm hoi, chỉ có mình anh. Mà lắm lúc, anh thương mẹ anh lắm, nhưng cũng ngốc lắm. Anh có dạo, chỉ quanh quẩn ở nhà, quét dọn, nấu cơm, học bài. Anh thủ thỉ nào anh lớn lên, anh nuôi mẹ, nào anh xin Phật, cho anh ba điều ước”. Nhà em hỏi: “Nó xin ba điều gì?” Bà cụ nói: “Anh xin ba điều. Một là Phật cho mẹ anh khỏi ngay bệnh. Hai là biến anh thành người lớn. Ba là cho anh chiếc đũa thần, để anh muốn ăn gì, chỉ cần gõ một cái, là có”. Nhà em nói: “Thế thì ngốc cái gì. Nó thủ đoạn, cả với Phật, việc gì mẹ phải khen nó”. Bà cụ vẫn say sưa kể. Bà nói: “Anh ngốc thật. Anh lên sáu, thì bố anh chết. Vận áo tang, lại tưởng là áo mới, anh chạy đi khoe, cả xóm. Anh không khóc bố được một câu. Mẹ anh bảo khóc đi, anh cũng không khóc”. Nhà em nói: “Bố chết 18 năm rồi, nó vẫn chẳng khóc, được một câu”. Bà cụ nói: “Thế là anh bất hiếu”. Rồi bà quay sang, với em. Bà nói: “Trinh, ra tháo ngay đồ lề, khỏi xe đạp. Tao không cho mày về, với nó. Còn anh, về đi. Anh đi cải tạo, tu tỉnh sớm, thì về còn vợ. Trong tù anh vẫn bướng bỉnh, ngoan cố, ở ngoài tôi sẽ gả con Trinh, cho người khác. Anh về đi. Nhà em nói: “Con tu tỉnh xong rồi. Không tu tỉnh, sao chịu, để mẹ tha hồ mắng. Lại đến tận đây đón vợ. Thế là lép quá còn gì”. Bà cụ nói: “Tôi không tin”. Nhà em nói: “Con tu tỉnh thật. Mẹ trả lời người ta đi. Con chịu đi làm phụ lái, lương tám vạn cũng được. Rồi con lên chức lái chính”. Bà cụ nói : “Lúc anh nói đi tù. Lúc anh nói đi làm. Lúc anh nói đi tu. Ai mà tin anh được”. Nhà em nói; “Mẹ không hiểu, khu phố mới đang nghi ngờ thôi”. Em nghe đến đây sốt ruột quá. Em nói, cho cả 500 cái khe liếp, cùng nghe: “Nhà con vô tội. Nhà con oan uổng. Nhưng đã đến mức khu phố trấn áp, không phải chuyện thường”. Bà cụ ngồi phịch xuống giường, một lúc, rồi bà nói: “Chết mất thôi. Chưa qua nạn này, đã thấy nạn khác”. Rồi bà hỏi: “Thế mày có làm gì không? Không làm sao khu phố lại nghi mày? Bạn bè mày có xúi bẩy gì không? Chết thôi con ạ. Con mà đi tù, mẹ héo hơn sinh bệnh, mà chết. Khổ quá con ơi. Sao con cứ dăm ngày, bảy tật thế này. Mẹ chưa bao giờ sợ hãi, lo lắng như bây giờ”. Nói đoạn, bà cụ khóc thút thít. Em phải dỗ bà cụ mãi. Nhà em có vẻ cảm động lắm, nhưng lại nói thế này. Nhà em nói: “Căng thẳng kinh!” Em phải lườm nhà em một cái, rồi nhìn rất kĩ 500 cái khe liếp im lặng. Nhà em mới nói: “Mẹ iên trí. Chính phủ không bắt oan ai đâu, mà mẹ sợ. Mẹ cứ xin việc cho con đi. Tuần sau con đi làm”.
Mẹ tôi không khóc nữa. Nhật kí tiếp tục : hai vợ chồng hai xe đạp về nhà, trên phố có một tí mưa, tí bùn lầy, và tí gió lạnh. Tôi nhìn Cốm, thấy khác hẳn : Cốm đi xe đạp thành thạo hơn, môi Cốm đỏ hơn. Tí gió làm tóc Cốm ra hết phía sau, cũn cỡn. Nước mưa lấm tấm, trên má Cốm mấy hạt. Phía sau Cốm, ánh điện nhoáng trong mưa. Biết tôi nhìn nên Cốm thẹn, làm nổi núm đồng tiền, lũm má. Mặt Cốm do vậy cứ tòn tõn. Tôi nhìn Cốm, như nhìn cô dâu mới. Cô ả bỏ nhà đi 2 đêm, 3 ngày, lúc về lại xinh hơn lúc đi. Phố Hà Nội đèn tối. Phố ren rét, nhưng tôi thấy ấm lòng, vì tôi có Cốm để ngắm, và để xích xe đạp lại gần. Chiếc Stecling của tôi tợ hồ muốn tròng ghẹo chiếc Fôlit nữ của Cốm. Cốm nói: “Đứng đắn nào!” Tôi buột miệng kêu: “CÁ. CÁ”. Cốm hỏi: “Cái gì?” Tôi nói: “Không. Không”. Thực ra, tôi vừa nhìn thấy nó, mới cách đây vài giây, thằng nhọn cằm vọt qua đường, chỗ ngã tư đèn sáng. Nhưng có lẽ hắn đi đâu, không phái hắn đi theo tôi. Hắn bước vội vã trên phố, vận paravec bộ đội. Cốm quay lại nhìn, nhưng hắn đã rẽ vào ngã tư. Cốm dĩ nhiên không nhìn thấy gì, và cũng không hiểu, tôi nói gì. Hai vợ chồng vào tiệm ăn phở. Về nhà, tôi cho Cốm xem tờ thú. 11 giờ kém 10. Cốm nóng ruột, chạy ngay, sang nhà chị Hòa.
Tháng mười hai 1965. Tôi ngồi một ngày không rõ thứ bảy hay chủ nhật. Cả tuần nay, bên cửa số tôi tím, có nhật ký và bản sao nhật kí, có lọ mực tím, và bản thảo lem nhem mực tím. Từ một tuần nay, ngày nào tôi cũng mua báo, ngày nào trên trang nhất, cũng những tin chiến tranh, và chiến thắng. Từ hôm qua tôi nghĩ nhiều, tới những động tác vô tình, được sử dụng một cách cố tình, như một khả năng vô hạn, của sự tốt bụng. Điều đó giải thích vì sao, sự tốt bụng trong nhiều trường hợp có thể mất hẳn tác dụng nhân đạo. Hôm qua, tôi quay lại trụ sở khu phố, để gặp chị Hòa lần thứ hai. Chị mặc áo vải, tay đeo băng đỏ, khác hẳn chị Hòa má hơ lửa bếp đỏ ửng, trong trang đẩu nhật kí.
Tháng mười hai 1965. Chị Hòa kể: tôi là nhân viên ban bảo vệ khu phố, từ 11 năm nay, nên chuyện gì cũng nhớ. 10 năm trước cô Trinh sang tôi, vào lúc 11 giờ tôi. Mặt cô đượm vẻ lo âu. Tôi biết cô Trinh sang, vì chuyện chồng cô bị trấn áp. Nhưng tôi vẫn hỏi: “Có chuyện gì thế?” Cô Trinh kể, chồng cô đi đón cô thế nào, mẹ chồng và cô lo lắng, ra sao, rồi đột ngột hỏi: “Chị ơi, nhà em liệu có bị sao không?” Tôi nói: “Cô hỏi vậy, tôi rất khó trả lời”. Cô Trinh thở dài. Tôi nhớ cuộc họp bất thường 6 giờ trước: ông Trung trố tuyên bố, cậu Dưỡng có âm mưu phản động, chống lại chính phủ. Ông theo dõi cậu Dưỡng tư 296 ngày, không nghỉ: sáng nay Tình Bốp đến nhà Dưỡng, cả hai bàn mưu với nhau, suốt 3 tiếng liền. Lúc Dưỡng tiễn Tình Bốp ra cửa, ông nghe được 2 lần hai chữ Lily. Ông đề nghị bắt Dưỡng, để cậu khai ra cái âm mưu phản động, ông đặt tên là trò-kép-trò-đúp, và vụ-phát-súng năm trước. Bác Mẫn không đồng í với cách làm việc của ông Trung trố. Theo bác, không đủ chứng cớ để bắt, không rõ là âm mưu gì, hành động gì, không rõ những ai tham gia. Tất cả mới đang còn trong lời nói, sau đó chưa có hành động gì tiếp diễn. Bác Mẫn nói, thế là vội vàng quá, đáng lí phải điều tra, theo dõi thêm. Giống như khi mình bắt con chuột trong nhà, phải khéo léo, bình tĩnh và phải có phương pháp. Mình không bới tung nhà cửa làm đổ cái này, làm vỡ cái kia, làm con chuột lủi mất. Ông Trung trố lí sự rất hăng, cứ-bắt-là-ra-hết. Ồng nói, chính xác từng lời, thế này: “Tâm lí kẻ gian, là khi cùng đường hết lối, mới chịu hàng. Còn thừa một chỗ trống nhỏ, nó còn quẫy. Phải tóm cổ, xích tay, tống giam. Là khai ra hết. Dẫu có quá tay một chút, còn hơn là nhu nhược, để nó chạy mất. Thằng Dưỡng thì còn oan cái gì? Quần chúng đang đòi, đem nó ra đấu tố, nhẹ nhất là trại cải tạo. Mình không nghe quần chúng, thử hỏi đâu là quan điểm quần chúng? Các vị không nghe tôi, làm hỏng chuyên chính vô sản, là lỗi của các vị”. Ban bảo vệ bàn đi bàn lại, trên hai í kiến, của ông Trung trố và bác Mẫn. Đến lượt tôi báo cáo, về tình hình tư tưởng, của cậu Dưỡng. Tôi nói, cậu Dưỡng có một vài tiến bộ đáng kể, từ khi con Lily đi. Mặc dù đầu óc vẫn u ám và còn nghi ngờ chính quyền, nhưng cũng tỏ í muốn ăn năn. Ông Trung trố ngắt lời tôi. Ông nói: “Tỏ í với ai? Với con Trinh vợ nó? Để vợ nó te te sang tỏ í lại với chị bảo vệ khu phố, chứ gì?” Tôi biết ông ta ám chỉ tôi. Tôi trả lời: “Đấy là dư luận không đúng”. Ông ta nói: “Dư luận quần chúng bao giờ cũng đúng. Chị có vay tiền, có ân huệ gì, với nhà chúng nó không?” Bác Mẫn gạt đi, sợ vấn đề đi xa quá. Đến lượt mọi người phân tích í kiến của ông Trung trố. Tôi cũng phát biểu, là công tác ngụy quân ngụy quyền, ban bảo vệ đã giao cho tôi phụ trách nhưng ông ta khó chịu, mồm thở phìì phìì. Sau đó, anh Thái đại diện bộ nội vụ, cũng phát biểu. Anh Thái nói, chuyên chính vô sản không có nghĩa, nghi-bừa-bắt-ẩu. Nghi-và-bắt không phải là phương pháp tốt nhất, để bảo vệ chế độ. Cứu người, chứ không phải trị người. Nếu có trị, cũng cốt để cứu. Anh Thái là cấp trên, nên ông Trung trố nể, không cãi lại, chỉ làm như, không nghe thấy gì. Ban bảo vệ, sau lời phát biểu của anh Thái, quay sang phê bình ông Trung trố, từ chỗ không tin iêu người, đến chỗ vượt quyền hành, vô nguyên tắc và thiếu tập thể. Tôi thở phào, vì lệnh bắt cậu Dưỡng bị lùi lại. Riêng về cái tờ thú, cậu ta nộp, hay không nộp, cũng không bắt buộc. Chính quyền từ hôm nay, tiếp tục điều tra, hoàn toàn trong im lặng, và bí mật. Cuộc họp giải tán, ông Trung trố còn nói thêm: “Nhân danh phó ban bảo vệ, tôi đề nghị mọi thảo luận ở đây, tuyệt đối bảo mật. Không được để lọt ra ngoài”. Ông nhìn tôi, mà nói, đầy í nghĩa: “Trong chúng ta, nếu ai vì tình cảm cá nhân, để lộ ra, tôi sẽ điều tra đến cùng. Điều tra dễ thôi. Rất dễ”. Tôi biết ông răn đe tôi. Cho nên, bây giờ cô Trinh sang, tôi không biết giải thích, thế nào. Cô Trinh có lẽ hiểu, nên bảo: “Thôi em về”. Tôi giữ cô lại, để an ủi cô. Tôi thương cô, tôi cũng trách tôi, thấy người mắc nạn mà không cứu được. Nhưng tôi không có quyền để lộ bí mật công tác, tôi chỉ hỏi: “Nếu anh ấy có tội thật, thì cô nghĩ thế nào?” Đầu óc tôi lúc ấy lộn xộn, nên chỉ nói được có vậy. Cô Trinh càng thêm lo lắng, cô nói: “Sao chị còn hỏi. Nhà em nếu có tội, em phải biết chứ. Em muốn nhà em cải tạo, thành người tốt, gia đình hạnh phúc, cho nên xưa nay, nhà em có biểu hiện gì lạ, em đều báo cáo, với chị. Với em, chị là khu phố, chị là chính quyền. Trong gia đình, em mang tiếng rình chồng và tố chồng. Ngoài phố, em bị phê bình, bao che cho chồng, và không báo cáo hết. Chồng em đi cải tạo, em vẫn đi làm, nuôi con. 5 năm, 10 năm, em vẫn chờ. Em khổ lắm”. Nói rồi, cô rơm rớm nước mắt. Cô cắn môi, cho khỏi khóc. Tôi nói, rằng cô đừng khóc. Tôi cũng nói, rằng cô về khuyên chồng, phải tin tưởng, vào chính phủ, dù bị oan, cũng phải tin. Tôi chỉ nói được có vậy: tôi không có quyền nói nhiều hơn, tôi không có quyền làm nhiều hơn. Một giờ sau, cô Trinh về. Trời đang sụt sùi mưa, mà cô cũng sụt sùi đi về. Vấn đề của chồng cô, thuần những vẫn đề treo. Treo lơ treo lửng. Làm tôi cảm thấy buồn buồn. Ông Trung trố 6 giờ trước cũng tuyên bố, vì lí do nghiệp vụ ông không thể nói, đã lấy được thông tin về Dưỡng, như thế nào.
Tháng mười hai 1965. Chị Trinh kể: thế là em về. Ngõ tôi, mưa nặng hạt. Qua thái độ của chị Hòa, em đoán, câu chuyện có lẽ gay go. Chị Hòa có vẻ thương em, mà không làm gì được, cũng có vẻ muốn nói cái gì, mà không nói. Em nghĩ nhà em bị oan. Nhưng em làm gì nổi? Em không thể minh oan, cho nhà em được. Em vừa đi, vừa khóc. Em nghĩ đến con em, mẹ chồng em, đến những năm dài chờ đợi. Tới cổng nhà, em càng nức nở.
⚝ ⚝ ⚝
Ngày số 7. Nhật kí tiếp tục: sau 12 giờ đêm Cốm mới về hai mắt đỏ hoe. Trông mặt Cốm, tôi không cần hỏi gặp chị Hòa ra sao. Lúc Cốm đi, tôi đã gàn, đừng đi. Quả nhiên đúng vậy. Em Cốm ngồi, thờ thẫn bên bàn. Tôi làm lại giường. Tôi chọn khăn trải giường mới. Tôi chọn cái khăn trắng tinh, còn thơm mùi hồ giặt. Tôi lấy thêm cái chăn cưới, lúc nào cũng mới, với một trăm bông hoa, trắng, đỏ, hồng. Thế là cái chăn cưới bồng bềnh trên giường, như một hòn đảo hoa, hình chữ nhật. Tôi pha trò. Tôi nói: “Để đón cô dâu mới”. Ngoài phố, mưa dầm cả đêm, ngồi trong nhà cũng nghe được mưa roi trên mái, hạt nào nặng, hạt nào nhẹ. Buồng ngủ bốc mùi hồ giặt. Giống hệt đêm tân hôn. Cốm ngồi ghế khóc, sụt sịt. Ngoài kia, mưa cũng sụt sịt. Tôi hỏi em Cốm, có đói để đi mua phở, tôi đi mua phở áp chảo, là món Cốm thích. Cốm lắc đầu. Tôi hỏi để đi rang cơm, cũng là món Cốm thích. Cốm lắc đầu. Cốm càng khóc to, chắc vì lâu lâu mới được tí ân cần, nên tủi thân. Cốm khóc, núm đồng tiền, lúc nổi, lúc lặn. Cốm nói: “Bây giờ vợ chồng còn thấy mặt nhau. Mai kia, biết đâu con đẻ ra, không trông thấy bố”. Tôi nói : “Nín, nín. Không việc gì đâu, không việc gì”. Trong tôi đầy tiếng khóc, là tiếng của Cốm. Tôi dìu Cốm đến ngồi vào mép giường. Tôi pha càphê sữa, tôi ép Cốm uống. Cốm không uống. Ép mãi, Cốm mới uống vài ngụm. Tôi đổ chỗ còn lại vào chiếc cốc sắt để bếp điện, cho lúc nào cũng nóng. Tôi quay lại giường. Cốm gục đầu, vào vai tôi. Tôi không nói gì, nhưng sọ tôi nói: “Tây đầm nhỉ”. Tôi mặc kệ sọ. Tôi vuốt tóc Cốm trong tiếng khóc, Cốm nói: “Bao giờ em cũng coi anh là chồng. Dù anh có tội thật, em vẫn nuôi con, đợi anh”. Tôi nói: “Anh không việc gì đâu”, Cốm vẫn khóc, Cốm nói: “Anh nghe em, nếu anh có làm gì, anh cứ khai thật. Dù anh có đi 5 năm, 10 năm, cũng chỉ một lần. Cho xong hẳn. Anh nghe em”. Tôi định nói, có phải chị Hòa xui Cốm, về nhà chơi tâm lí như vậy, nhưng tôi ghìm lại được. Tôi cáu. Song tôi im lặng. Sọ tôi cũng im lặng. Cái bóng tôi trong gương cũng im lặng. Tôi bỏ Cốm lại, tôi ra bàn châm điếu thuốc. Điếu thuốc nửa đêm, cho nên trắng nhợt, Cốm ngừng khóc, Cốm nói: Sao người anh tự dưng trắng nhợt. Anh làm sao?” Tôi không nói gì. Cốm nói: “Kìa anh?” Tôi nói: “Anh không giấu tội. Bao nhiêu tội, anh đã biên hết, trong tờ thú”, Cốm đến bên tôi. Trong gương, có bóng tôi và bóng Cốm, trên cùng một ghế. Sọ tôi nói: “Bú dù”. Tôi mặc kệ sọ. Tôi vuốt tóc và gáy và vai Cốm Tôi nói: “Đừng lo. Mình lo, người ta càng nghi thêm. Anh không còn gì phải khai nữa. Rồi muốn ra sao thì ra. Thì cứ tin, vào chính phủ nhân đạo, sáng suốt. Cốm đừng lo nữa. Còn phút nào vợ chồng cứ vợ chồng phút ấy. Lo cũng chẳng được. Chưa biết công an có làm gì không, chỉ thấy tự mình áo ộp mình trước”. Tôi thấy, tôi nói hay và khôn, bởi vì Cốm không khóc nữa, Cốm hỏi: “Lúc trên phố, anh nói CÁ, là CÁ nào đấy?” Tôi nói: “Thằng nhọn cằm”, Cốm nói: “Thằng nhọn cằm trong tờ thú à?” Tôi gật, và bắt đầu vài động tác dằn di. Cốm không nói gì: có vẻ đang nghĩ. Người Cốm toát mùi cô dâu mới, mùi mới cưới. Xa nhau mới có 2 ngày, sao tôi thấy xa thế. Xa lắc, như đã xé trong tôi lả tả, không biết bao nhiêu tờ lịch. Tôi rúc mặt vào gáy, vào lưng Cốm. nhưng tự dưng Cốm nói: “Anh ạ. Em ngờ lắm”. Tôi nói: “Quanh quẩn mãi chuyện ấy làm gì”, Cốm nói: “Nhưng vô lí lắm. Em nghĩ, thằng nhọn cằm không phải là công an. Nếu công an theo anh nhiều thế, khu phố sẽ có biểu hiện khác, với anh. Chị Hòa cũng có biểu hiện khác, với em”. Tôi nói: “Không công an, thì ai?” Cốm nói: “Hay là địch?” Tôi nói, như cái máy: “Địch”. Bao nhiêu kinh nghiệm trinh thám của tôi chuẩn bị làm việc. Cốm nói: “Anh nghĩ xem, từ chuyện phát súng em đã nghi nghi, lại thêm thằng nhọn cằm nữa. Không khéo có kẻ lởn vởn, quanh anh, để hại anh. Bây giờ lại còn cái trò đơn, trò kép. Anh nghĩ lại xem, có ai thù oán gì anh không? Anh có tranh cướp người iêu với ai không? Tinh Bốp, Tình Bốp có thù gì anh không, mà anh không biết? “ Tôi không thể nói sao. Tôi và sọ tôi còn phải xem lại các kinh nghiệm trinh thám, có lẽ phải hết đêm.
Tôi nói: “Rất có thể”, vấn đề giản dị, mà tôi chưa bao giờ nghĩ tới. Tôi và Cốm nằm trong chăn ấm, vẫn nghe được mưa rơi trên mái, hạt nào nặng, hạt nào nhẹ. Tôi ngửi mùi hồ giặt, khăn trải giường. Điện tắt từ lúc nào, tôi không để í. Cốm chủ động ôm tôi. Cái thai trong Cốm được 4 tháng, là thai con so. Chưa bao giờ như đêm nay, khi em Cốm gần tôi. Em Cốm sặc mùi mới cưới. Rồi, Cốm ngủ. Đồng hồ tôi kêu tictăc. Cốm đã ngủ, tôi vẫn thao láo mắt. Tôi dậy bật đèn, tôi h?