← Quay lại trang sách

MỘT ĐƯỜNG HAI NGÃ

Những bông lúa sắp vàng, mùa 1956; xóm dừa bên đồng bát ngát, ngàn thông reo trong nắng gió, giữa trưa Hè 1957; bến chài, cầu gỗ, mặt trời trên sóng, con đường bụi đỏ qua bóng rừng đưa tới dãy nhà đương dựng đầu năm 1958...

Đâu phải là quê tôi? Nhưng vẫn là những hình ảnh quen thân của xứ sở tôi, dù mang tên Bến Lức hay Trảng Bàng, tuy là ven đồi Đà Lạt, bờ biển Phú Quốc hoặc đồn điền Xuyên Mộc...

Vì sao tôi đã mến? Vì ở mọi nơi, tôi đều thấy êm đềm như khi tôi còn ít tuổi. Có lúc tôi ngồi nghe hư không và thả mình trong tịch mạc, tịch mạc lắng dịu của ba mươi năm đầu trong đời tôi. Tôi hồi tưởng đến những giờ phút yên lặng trong làng tôi, sau khóm tre, bên sông vắng, hay trên những vỉa hè đường đầy hoa Sấu và tiếng ve của Hà Nội 1935...

Những người trạc tuổi tôi, đã cùng chung cảnh sống, chắc sẽ thông cảm cho tôi. Tôi muốn quên và đã quên được khá nhiều những gì xáo trộn sinh hoạt quanh tôi trong mười năm qua: Những tiếng nổ long trời, những giọt nước mắt, những lớp người ầm ầm đả đảo, những bộ xương ma đói lả, những bức tường đổ, nét mặt hung ác, lời thao thao ngụy biện, vụ tranh giành tiền và chỗ ngồi, đám khói cao trăm thước, trẻ già bồng nhau chạy loạn...

Bây giờ hai con trâu nằm nhai cỏ bên gốc cây, lại có người lôi vó cá như đầu thôn tôi xưa kia. Một chiếc xe ngựa chợt dừng cho mấy khách buôn quảy hàng xuống chợ gần đây. Người và vật đều không có vẻ gì sợ hãi, chắc vì dọc đường không ai khủng bố, không có mìn, hố hay ụ đất. Thanh niên kia dạo mát, coi bộ cũng bình tĩnh như tôi, từ hai năm nay, ngày chủ nhật, thỉnh thoảng tôi đi chơi xa Sài Gòn, trên nhiều ngã vắng, trái với khi còn ở Hà Nội, trước 1954, có bao giờ tôi dám lang thang ra khỏi ngoại ô?

Tôi thấy nhẹ mình, nhưng lại tự hỏi: Cảnh yên vui này, liệu có được lâu dài không? Tọa hưởng, chắc không xong. Còn phải cố gắng, may ra mới gìn giữ được những giờ phút nhìn mây, mơ màng trong khói thuốc lá, nghĩa là vớt lại đôi chút hạnh phúc rẻ tiền.

Trong bức công hàm mới gửi, để yêu cầu hiệp thương và nối lại quan hệ bình thường giữa hai miền Nam-Bắc, Phạm văn Đồng còn nói: ‘’Kính thưa Tổng Thống...’’ Nhưng sau ngày có tuyên bố trả lời cự tuyệt, giọng lễ độ ôn tồn chắc sẽ đổi thành những luận điệu gay go. Không khí nhẹ nhàng ở quanh tôi, vẫn chứa ngầm tiếng sấm và cơn giông.

Muốn giữ bền sức sống dù gặp buổi xấu trời, phải được ấm no và mạnh khỏe. Trâu người và tôi đều cần như vậy. Lẽ dĩ nhiên này, được nhận thức lại trong khung cảnh tầm thường của đồng ruộng, lạ thay, hình như khơi lại một nguồn động lực thầm kín sâu xa tiềm tàng trong dĩ vãng, hay ở gốc cây, đáy nước, và dãy núi chân trời. Tôi thấy lại phải làm. Làm cái gì không phải cho riêng mình.

Trâu kia sẽ nhiều gấp năm bảy lần, khỏi phải mua lậu ở biên giới Việt-Miên; hoặc là nó sẽ đỡ mệt đỡ gầy vì được máy cày giúp sức như ở Đài Loan? Tại sao lúa gạo không thể xuất cảng nhiều, bằng hay hơn trong thời Pháp thuộc? Mái lều kia mà thay bằng mái gói đỏ, hay ít ra bằng ván như ở Cao Nguyên, thì khóm dứa trước mặt đáng đưa lên bìa tạp chí; kỹ nghệ tạo tác cần hơn bao giờ hết, nếu ông N.D.T. còn điều khiển Kiến Thiết chắc nắm được cơ hội hằng chờ mong mà xây thêm hai mươi khu cư xá bình dân với nhà thương, trường học v.v...V.Đ.D. hẳn sẽ thích chí, nhưng anh chàng kiến trúc sư này có máu kịch sĩ và chỉ mơ ước tái lập một ban kịch lớn. Có lẽ cũng nên, may ra bây giờ nhiều người sẵn lòng đón nhận những trào lưu phát triển nghệ thuật dồn dập từ các xứ ngoài...Nhưng ai cho tiền? Ngân sách phải dành cho các dự án trong bị kỹ thuật của kế hoạch ngũ niên. Tâm lý giới hữu quyền chưa đổi. Quan niệm và hoạt động chánh quyền cần được cải tiến như tổ chức và thủ tục. Trông cậy vào người cũ không dễ bằng thu dùng người mới? Phải đào tạo theo những phương pháp mới nhất. Những người còn ở nước ngoài, có cách gì mời về? Mời chuyên viên ngoại quốc? Thì đã có ngoài năm mươi vị, nhưng sử dụng chưa đúng mức, có ai chịu xét lại vấn đề không?

Nông phu dần bước đi vào nắng mai.

Trong câu và cảnh đẹp Bàng Bá Lân, nắng mai liệu còn nghĩa nữa là tương lai sáng sủa không? Nhìn đồng hồ, quá 17 giờ rối. Gà sắp lên chuồng...không, đó là hình ảnh của nhà quê Bắc Việt ngày xưa. Bây giờ tưởng tượng rằng những người cày cấy trở về nhậu la ve, và nghe ca sĩ qua máy thâu thanh...

Tôi rời khỏi mảnh báo cũ giải trên cỏ rậm. Ngồi bóng mát hai giờ ở ven đường cái, cách Đô Thành dăm cây số, như thế cũng đủ hả rồi. Thôi, ra về, không phải vì ngại du kích, nhưng để tiếp tục mộng cầu an qua mấy vấn đề vừa nhớ lại. Cũng có những việc nên làm.

Trong khoảng 1948-1954, những ai hay tới các công sở trung ương, lắm khi có thể nghĩ với nụ cười, rằng công chức sống cuộc đời vô sự.

Tới đầu 1957, cảm tưởng đó chắc không còn y như trước. Quân sát viên ngoại quốc cũng nhận rằng nhiều cơ quan bị bận rộn và bề bộn đến nỗi khó tránh sự tràn ngập giấy tờ. Công Báo ngày nay thường dầy gấp bội Công Báo năm xưa, vì số quyết định của chính quyền đã tăng mau lẹ. Khách qua đường có thể thấy khá nhiều phòng giấy cấp trên chong đèn tới gần hay quá tám giờ tối.

Phải chăng tinh thần phục vụ lên cao? Gạt những danh từ dễ gây ngộ nhận, tôi thấy tình trạng như trên có thể cắt nghĩa bằng nhiều sự kiện khách quan.

- Thời trước, các Chánh Phủ Trung Ương lâm vào cảnh nhàn hạ, vì phần lớn việc hàng ngày được trút cho các Phủ Thủ Hiến. Các Phủ này đã bị bãi bỏ, các Tòa Đại Biểu còn lại cũng bị mất quyền, nên nhiều hoạt động dồn về các Bộ và Phủ Tổng Thống.

- Các Bộ xưa kia có muốn làm nhiều cũng khó. Vì một phần quan trọng trách và hầu hết phương tiện còn nằm trong tay Cao Ủy Pháp và các cơ quan hệ thuộc. Nay chiếu các thỏa ước và hiệp định 1954-1955, chủ quyền và tài nguyên được trả lại, quân đội viễn chinh cũng rút khỏi Việt Nam, khiến các lực lượng Việt Nam phải đứng ra đảm lãnh công cuộc phòng thủ và bình định. Các việc quân sự và dân sự đều tăng.

- Làm việc nhiều hơn, là sự bắt buộc với các cơ quan hồi đó. Có những vấn đề cấp bách mà giới hữu trách không thể trốn tránh. Phải nuôi sống ngót triệu người tỵ nạn vô Nam riêng cuộc định cư và dinh điền đã đẻ ra không biết bao nhiêu việc lớn nhỏ. Những vùng tiếp thu sau ngày tập kết, cần được kiểm soát, trấn an và tổ chức, cũng như miền Hoàng Triều Cương Thổ trước kia chưa thuộc quyền Chánh Phủ, vả lại, phương tiện dồi dào hơn, hay muốn được dồi dào, thì hoạt động phải nhiều và mạnh; ngoài viện trợ Pháp và Mỹ, còn nhờ được của các quốc gia khối kế hoạch Colombo và Liên Hiệp Quốc song phải nghĩ, phải tìm, phải bàn mới lập nổi chương trình khả chấp với những dự án khả thi, để các nước bạn giúp bằng tiền, bằng người hay máy móc.

Nhu cầu sinh hoạt cũng nẩy nở rất nhanh và lan rộng ra những lãnh vực mới, nên vừa kích thích nhiều lớp dân chúng, vừa thúc đẩy guồng máy chánh quyền. Sau ngày đình chiến, sự gia thông đỡ khó khăn, nhiều địa phương xa xôi hẻo lánh như vùng Cà Mau, miền Cao Nguyên và các Tỉnh Bắc Trung Phần, cần được tiếp tế đấy đủ hơn xưa, cung cấp phương tiện sản xuất và khai hoang. Pháp kiều theo nhau bỏ về nước khá đông và nhượng lại nhiều xưởng, tiệm hay nhà ở; Hoa kiều không nhập Việt tịch không còn được làm mười một nghề; nhiều quyền lợi kinh tế như vậy có thể giành lại cho người Việt với hy vọng đó, một số người thuộc giới hữu sản tân tiến dám bước vô các ngành công kỹ nghệ và ngoại thương hay ngân hàng. Giới doanh nghiệp Bắc Việt bị tổn thất nhiều vì phải di cư, cố gắng gây lại cơ sở; hàng chục ngàn người Hà Nội, Hải Phòng hay Nam Định để đổ xô vào các ngành nhập cảng hay tiểu thương. Trong hoàn cảnh đó, tấp nập nhưng dễ hỗn độn, nhiều luật lệ mới phải được ban hành, với những biện pháp và thể thức hướng dẫn, kiểm soát, hay tài trợ. Bởi vậy, tại các công sở liên hệ, đa số nhân viên không còn dư thời giờ để ngồi chơi xem báo. Những sự vừa kể không có gì lạ đối với công thức, nhưng ít khi được công chúng biết vì thiếu sự phổ biến và giải thích, nhất là khi người giới khác chỉ quan tâm đến kết quả của công vụ, chứ không chú ý tìm hiểu mọi hoạt động đưa tới những kết quả này, cũng như khách hàng chỉ cần thấy món ăn ngon hay không ngon, chẳng hơi đâu dò hỏi xem đầu bếp của tiệm cao lâu nấu nướng trong hoàn cảnh nào.

Nhưng về phần riêng, đáng lẽ tôi nên bày tỏ ít nhiều cho Giáo Sư N.T.L. để tránh sự hiểu lầm của một người có học vấn cao.

N.T.L. gặp tôi trước một tiệm sách lớn, trên vỉa hè đường Tự Do, anh trợn mắt hỏi với giọng quen thuộc nửa đùa nửa thật:

- Tên lại già này, bây giờ nhà ngươi xách cặp cho ai?

Rồi L. kéo tôi lại gần, bảo nhỏ:

- Mi tội thân gì kéo cày trâu ngựa? Viết báo đi, làm thầy cãi ở tòa cũng được, như thằng Lê...j'approuve! Làm cạo giấy mọt đời à? Được việc gì? Đi tới đâu? Ta đã bảo mi từ 1945...

Tôi thấy đối với những người làm việc chánh quyền, thành kiến của L. quá lớn, nên có trả lời cũng không ích gì.

Vả lại, tôi không có thì giờ, còn phải vô tiệm sách kiếm một loạt bài báo và mấy cuốn vừa xuất bản; về kinh nghiệm mở mang những xứ chậm tiến (Pays en voie de développement). vấn đề này đáng chú trọng hơn.

Tranh luận mười hai năm về nhân sinh quan và đường lối xuất xử, không bằng tìm cách xây một cây cầu.

Chung quanh tôi, tại các bộ phận trung ương, có một số người từng trải, ham làm, biết làm, và có thể được việc.

Những người đó và tôi, tuy khác nhau về nhiều phương diện, đều ôm một hoài bão chung: Góp phần thiết bị nổi một guồng máy quốc gia tân tiến.

Một đồng điểm nữa, là mong được áp dụng trong hoạt động hàng ngày, những phương pháp đã chứng tỏ hiệu năng ở các cơ quan chính quyền Âu Mỹ.

Những phương pháp đó cũng từng được thí nghiệm phần nào trên đất này trước 1945, song cần được phổ biến sâu rộng hơn, với những sự châm chước mà tình thế đòi hỏi, dù về mặt tổ chức hay điều hành ở mọi giai đoạn công vụ, từ nghiên cứu đến khi thực hiện và kiểm soát.

Tuy chánh quyền quốc gia thành lập từ 1948-1949, chưa chánh phủ nào nghĩ đến sự cần thiết cải tiến như trên, vì thiếu quyền hành, thiếu phương tiện, thiếu thời giờ, hoặc không nhận thức nổi tầm quan trọng của vấn đề.

Đến 1955, mới có hai tia hy vọng. Học Viện Hành Chánh được thiết lập và khuếch trương, đồng thời một phái đoàn vài chục giáo sư và chuyên viên của Đại Học Michigan được với sang góp sức với học Viện cùng các cơ quan trong sự truyền bá những phương pháp mới và hoạch định một chương trình canh tân.

Sau một thời gian nỗ lực, kết quả là những tập đề nghị rất dày, xếp lại chừng gần hai thước; nhưng chẳng mấy điều được xét, nếu có, cũng không được chấp nhận bao nhiêu. Nên các giáo sư Mỹ rất nản lòng, người nọ theo chân người kia về nước, mặc dầu chúng tôi khuyên nhủ kiên tâm. Đến 1958, một lớp người khác chịu kéo sang và thử lần nữa. Họ đi cả các địa phương, quan sát, tra cứu, chất vấn, thảo luận, rồi biên soạn rất công phu về các vấn đề cần giải quyết, và những giải pháp được tin là thích ứng. Riêng tôi cũng nhận thấy nhiều phần khả thủ. Khốn thay, mọi phương sách đưa lên, đều bị bỏ xó; và đến 1960, thì hợp đồng do chánh phủ ký với họ, bị chấm dứt hẳn.

Trong các bản trần thuyết, dĩ nhiên có điều nghe được, có điều khó theo, và quyết định thuộc người hữu quyền. Nhưng dù không đồng ý, cũng chỉ nên bác bỏ sau khi bàn luận, và ít nhất là cho biết lý do để người nghiên cứu phải suy nghĩ lại. Đàng này, tuyệt nhiên không có giải thích. Chỉ có một lần, ông Tổng Thống bảo: ‘’họ không hiểu’’.

Họ không hiểu thật, nghĩa là không rõ vì sao họ mất công. Theo vị này, thì chắc tại có chuyên viên bực mình, về Hoa Kỳ viết báo chí trích Chánh Phủ Việt Nam! Theo vị khác, đáng lẽ họ phải học tập chánh sách của Tổng Thống mà tìm các lý luận bệnh vực, thì họ cứ ngây thơ đưa ra toàn ý kiến riêng. Vài công chức lại cho nhau: Có mấy Bộ Trưởng, Giám Đốc và Tỉnh Trưởng không muốn họ tới sạo sục vào các cơ sở, e rằng họ nhìn thấy sơ xuất mà lên mách Tổng Thống, thì nguy...nên các ông đã viện cớ bảo vệ uy tín và chủ quyền, để lên thỉnh cầu miễn sự hiện diện của họ.

Các lẽ trên đều có phần đúng, nhưng không phải là nguyên do chính yếu.

Mấy anh em và tôi hợp tác với họ, đều nhận rằng có một số đề nghị đáng theo. Những điều này lại là kết luận chung, sau sự thỏa hiệp của hai bên Việt và Mỹ. Nên sự thất bại của họ cũng là của chúng tôi, hay đáng ngại hơn nữa, là của đường lối suy luận, của ý niệm căn bản về hoạt động chánh quyền, của những phương pháp và kỹ thuật đã đào luyện thế hệ chúng tôi.

Những phương pháp và kỹ thuật đó, thoát thai từ lý trí và khoa học, đều có công dụng nắm nổi sự vật hỗn tạp để đưa vào một trật tự hay một cơ chế, mà thỏa mãn một nhu cầu hay một lý tưởng. Áp dụng vào thực tế phiền phức của chính giới, nó thể hiện ra những quy củ chặt chẽ, những tổ chức vững bền, những hành động không trái với chủ trương, nghĩa là những sự kiện thuận lợi để thành công.

Nhưng nó cần được sử dụng dưới hai hình thức song song, vừa phân tích vừa tổng hợp. Nó đòi hỏi sự phân minh, nên bắt phân nhiệm, phân quyền, phân công, và giải quyết mọi vấn đề theo cương vị, theo giai đoạn, theo từng trạng thái. Ngược lại, muốn quan xuyến và điều khiển, nó buộc phải bao quát toàn diện bằng cách phối hợp các phần vụ trong nhất trí của chính sách hay của chương trình; phải liên tục trong tác động để loại trừ mâu thuẫn, bảo toàn hệ thống, tích lũy kết quả mà tiến không ngừng bước.

Nhưng trong công việc mỗi ngày, những phương pháp đã tạo cho các quốc gia tiền tiến một bộ máy hữu hiệu, được tôn trọng như thế nào ở cơ quan đầu não Việt Nam sau 1955?

Sự khen chê hãy còn quá sớm, nhất là đối với cá nhân. Song những lề lối cần tránh, không thể đợi mười hay hai mươi năm nữa một được nhận rõ.

Khi dọt đến căn nhà mới, tất nhiên phải sắp đặt gọn gàng trước khi bắt tay vào việc làm ăn.

Những sự luộm thuộm buổi đầu, còn có thể chịu đựng và bỏ qua...

Nhưng sau vài năm mà nơi ăn, chốn ngủ, chỗ làm vẫn lộn xôn và ngổn ngang khiến người trong nhà cứ dẫm chân nhau, thì công việc sao khỏi bị trở ngại?

- Những bộ phận sẵn có từ các chính phủ trước được tạm dữ gần y nguyên trong Phủ Tổng Thống mới. Tòa Tổng Thơ Ký, Văn Phòng Đặc Biệt, Văn Phòng Đổng Lý, Văn Phòng Bộ Trưởng. Song nhiệm vụ không hề được minh định, tuy những người hữu trách có nên vấn đề tổ chức và đã trình lên nhiều lần, mỗi bận đều thấy trả lời: Khỏi cần, chỉ có mấy anh em, liệu mà chia việc với nhau, người này giúp người kia, sao cho được việc thì thôi, phân biệt phòng này sở khác máy móc làm gì?

Rồi cấp trên cùng gặp ai thì trao việc cho người ấy, việc của Tổng Thơ Ký có khi bị nén sang Đổng Lý, hay Bộ Trưởng và ngược lại, mà không ai được phép chối từ. Hậu quả là ngay đến cao cấp ở các Bộ, hoặc chính người trong Phủ, mỗi khi cần cũng không biết hỏi đâu và tìm ai phụ trách, phải liệu thăm dò tùy trường hợp.

Cực chẳng đã, mấy anh em trong Phủ đành thu xếp riêng với nhau theo một thứ thảo hiệp tạm bợ Modus Vivendi để cố giữ vững ba chân vạc báu. Một người chịu bù đầu về việc nội Phủ; một người kéo co việc ngoại Phủ tức các Bộ; một người mắc míu vào ba, rồi bảy, rồi...mười chín ‘’cơ quan trực thuộc...’’ Hễ giấy tờ đến Phủ, thì được Phòng Công Văn chia theo ba hướng đó.

Đã tưởng là tạm yên...Nhưng cấp trên hết, việc do Đổng Lý trình, được giữ đó, rồi bị vứt qua Tổng Thơ Ký khi tới lượt ông này diện kiến. Đến khi việc được tái đệ, thì theo chỉ thị, cẩn giao một Bộ xét lại. Cách vài hôm hay vài tuần Bộ này phúc đáp, không biết nên gửi cho ai, cứ đề luôn cho Bộ Trưởng tại Phủ. Bộ Trưởng không rõ mô tê, vì nắm được mẩu chót, cho hỏi mới rõ, cùng một việc, mà khúc đầu thuộc ông Đổng, khúc giữa về ông Tổng, khúc cuối đến ông Bộ. Quả là đầu rồng đuôi rắn, tha hồ mà múa với nhau! Và múa luôn luôn, hết ngày này qua tháng khác.

Bèn giao hẹn với nhau rằng: Mỗi khi có sự lôi thôi hay điều thắc mắc về phần việc, thì liên lạc với nhau, rồi việc do ai làm từ trước, sẽ trả về người đó. Lệ này được cả ba nhóm tôn trọng, với hy vọng gỡ rối bòng bong giữa hàng trăm hồ sơ và hàng ngàn văn kiện.

Nhưng chẳng bao lâu, một trong bốn năm nạn nhân bị chợt hỏi: Việc phạt về quan thuế tới đâu? Ông không biết. Ông bị rầy la. Ông xuống hỏi ông Hai. Ông Hai không tường hỏi ông Bốn. Ông Bốn kêu chính Cụ bảo phải lo, tuy hôm trước ông Tài Chánh tới thân trình, thì nhân tiện có ông Bốn đứng đấy, Cụ cầm giấy tờ đưa cho và dặn ông làm gấp, rồi Cụ bận, quên không biết đã giao ai. Thành thử, râu cắm vào cằm ông này, lại tìm cạo vào cằm ông khác, và rút cuộc là có người bị cạo tuy mặt mày nhẵn nhụi. Kể cũng vui.

Ấy thế mà việc cứ phải chạy, muốn xoay thế nào thì mặc, nếu không xong thì búa rìu sấm sét chẳng từ một ai. Nên một Bộ Trưởng đã phải ngửa lên mái Dinh Độc Lập mà than rằng: Chúng ta làm trò xiếc với việc công, nous faisons de l'acrobatie administrative.

- Việc cáng nhiều càng phải cố cho chạy đều để tránh ứ đọng, và càng phức tạp càng phải giải quyết tuần tự mới khỏi rồi ren. Điều hành cũng có nghĩa là phân định trong thời gian, và làm chủ ngày giờ. Người có trách nhiệm chỉ huy, muốn không bị tràn ngập, cần đi sát một thời biểu thích ứng, được chừng nào hay chừng ấy. Quốc Trưởng hay Thủ Tướng ở các nước tiền tiến đều theo thông lệ đó.

Còn ở Việt Nam 1955-1963, chương trình hàng ngày dự định cho cấp tối cao, dù được chấp thuận rồi, vẫn hay bị đảo lộn, không phải chỉ vì sự bất thường, mà nhiều khi do thói quen của người lãnh đạo. Mỗi sớm mai, năm bảy cao cấp ôm hồ sơ vô xin chỉ thị, ‘’thỉnh thị’’ lắm bận, chầu cả buổi, rồi lại lắc đầu tặc lưỡi ra về, mặc dầu đã được hẹn trước hoặc bị kêu lên: Mất công vì ông Tổng Thống chợt nhớ đến một việc nào đó, lại cho triệu gấp người khác. Có khi vị được vào toan mở miệng về một vấn đề cấp bách, thì bị chặn hỏi về việc không liên quan gì đến mình: Như sắp thưa về ngân sách Hỏa Xa, thì được nghe quở về chợ trời Gò Dầu Hạ, hay chịu trách thay một Tỉnh Trưởng đã đọc diễn từ dài dòng văn tự...Kẻ yết kiến cung kính giơ tai nửa giờ hay hai giờ, rồi được phép rút lui với mười triệu đồng thiếu hụt chưa biết lấy chi bù đắp. Bởi vậy, trong Phủ, có nhân viên đã tìm mọi cớ thoái thác để trút cho người khác hân hạnh trình việc...

Đối với những việc có hạn, như các diễn văn, hiệu triệu, tuyên cáo cần đọc nhân dịp đại lễ, nhân viên hữu trách phải chuẩn bị trước hàng tuần, có khi một hai tháng. Nhưng các dự thảo rất ít khi được xét sớm: Mười lần thì chín lần phải đợi sát ngày mới thấy sửa chữa, cắt xén, chắp nối. Rồi mọi người phải ở lại đến đem chưa xong, và mỗi dịp là một cơn ác mộng cho cả mấy văn phòng. Khổ nhất, không biết là những người cầm bút hay đánh máy, đánh đi đánh lại mấy mươi lần. Và hại nhất, là mọi việc khác bị đình lại hết.

Muốn tránh tình trạng đó, đáng lẽ người hữu quyền phải soát lại sớm hơn, hoặc ít nhất là chỉ thị rành mạch cho nhân viên soạn thảo, để họ hiểu rõ mình muốn nói gì: Nhưng không bao giờ có sự may mắn đó. Ai được phép hỏi? Không biết gì thì ngồi đấy làm chi? Liệu mà đoán. Nên mấy anh em trong Phủ chỉ còn một cách là bàn với nhau theo hướng chung của mấy người chung trách nhiệm và cùng góp kinh nghiệm. Đa số chắc hẳn nhận xét khách quan hơn một người, để tìm thấy những điều cấn nói, nên nói, và nói theo giọng nào. Kết quả: Có bận hơn ba mươi trang đánh máy bị xổ toạc gần hết, một hai giờ trước khi phải nộp để ghi âm, có đoạn phải viết đi viết lại tám hay mười lần. Người ra lịnh, lại chằng biết mình muốn gì, chỉ nhận thức rằng như thế ni thế khác thì chưa hợp ý mình mà thôi.

Ý đó, thường khác hẳn của nhiều kẻ, dù những kẻ ấy ở trong vòng thân cận.

Như vậy, thì lý ưng phú cả về cho xong, hết thảy các nhân viên gần gũi. Đã có lần, việc của họ được giao cho nhân sĩ bên ngoài làm bộ, nhưng cấp trên cũng chẳng thỏa mãn hơn. Nên cho thay tên kèo bằng tên cột, thì cũng đến thế thôi. Chẳng lẽ ai cũng thiếu khả năng? Đúng hơn, thì không ai hợp được. Nhưng chắc người có quyền phải chịu khổ hơn, nếu thấy quanh mình không ai thông cảm được với mình, bởi vì từ việc nhỏ đến việc lớn, mình nhìn khác, thấy khác, nghĩ khác, và ưa thích khác.

S. cười sằng sặc mà bảo tôi:

- Hoặc ông ta là một dị nhân hay một vĩ nhân siêu việt, hoặc chỉ là một người quẩn trí. Siêu việt, nếu tất cả các anh đều ngu: Điều này, tôi hơi ngờ hộ các anh. Quẩn trí, nếu các anh biết việc: Điều đó, chắc các anh chưa dám tự tin. Ở mọi trường hợp các anh chịu khổ và các anh còn bán tin bán nghi.

Bán tin bán nghi: S. đã nói trúng phần nào, ít ra ở nơi tôi trước 1960.

Các anh em và tôi đều nghĩ rằng mình chẳng đến nỗi ngu độn; chẳng giỏi thì cũng biết suy xét, và hiểu đường lối. Ngoài ra, mọi người đều thấy rõ hậu quả của những thói quen bất lợi ở người cầm cân nẩy mực.

Song dù phải bực mình, trong nhiều năm, tôi đã cố nhận định cho đúng mức.

Nên tôi thấy những sự xáo trộn của một ông già gần sáu mươi tuổi, chưa hẳn đã gây hại ở mọi trường hợp. Có lẽ vì thế mà ông không chịu thay đổi, tuy đã có người khuyên nhủ.

Theo một nguyên tắc căn bản về tổ chức công quyền, thì sự liên lạc giữa các cấp đều phải qua hệ thống trung gian. Cấp dưới muốn trình cấp trên, phải nhờ cấp giữa chuyển đạt. Cấp trên cũng chỉ ra lệnh cho cấp chỉ huy cao nhất, để cấp này truyền lại cho cấp thuộc quyền. Kỷ luật, và uy tín của người hữu trách, chỉ có thể bảo tồn nhờ những thể lệ như trên.

Nhưng lắm bận ông Tổng Thống cầm máy nói mà hỏi thẳng một Đại Tá thay vì Tổng Tham Mưu Trưởng, một Giám Đốc thay vì Bộ Trưởng. Một Tỉnh Trưởng thay vì Đại Biểu Chánh Phủ. Nên nhiều vị phàn nàn rằng kẻ dưới lợi dụng cơ hội để dèm pha, khiến các ông bị trách cứ hay thất sủng. Thực ra, cũng có những nhân viên thấy mình được đoái hoài, thì không còn nể vì người trên của họ. Ông Tổng Thống thừa biết, nhưng vẫn mặc, vì theo ông, hệ thống làm mất thời giờ, hỏi ngay người chuyên trách thì rõ ngành rõ ngọn, hỏi Bộ Trưởng hay chỉ huy thì còn xin khất lần để tìm hồ sơ, xem lại chi tiết...vả chăng, dưới không được trình, thì người trên thường bưng bít, thành ra ngồi cao khó thấy sự thật.

Một nguyên tắc nữa cũng bị gạt bỏ: Trách nhiệm nào thì công việc ấy, và ngược lại, cấp nào cũng phải đứng trong phạm vi mình, Giám Đốc không thể làm việc thơ ký, nếu không, sẽ mắc vào việc nhỏ mà bỏ việc lớn, lại mang tiếng là xen lấn: Can thiệp là không tin và dễ làm nản chí. Đàng này, ông Tổng Thống đích thân quyết định trong việc thuộc thẩm quyền các cấp chuyên nhiệm mà không cho nghiên cứu trước: Bảo trồng cây này ở vùng này, xây ngôi trường khác ở quận đó, cấp số tiền lớn cho đào kinh mà Bộ sở quan không biết, đặt kiểu quần áo cho đồng bào Thượng, xét duyệt tranh nhãn hiệu cho một xí nghiệp quốc doanh...Lịnh đã ra thì phải được tuân hành, nhưng người hữu trách thành ra vô trách nhiệm, có lẽ cũng vì thế mà bó tay thụ động.

Song ông Tổng Thống than phiền luôn: Không ai chịu nghĩ gì cả, để mặc thì chẳng ai làm gì, không ngó tới thì hỏng hết, dù là việc rất nhỏ... ‘’Mình tiếp ông Đô Đốc, nó cứ để thợ hồ gõ chát chúa nhức óc trên mái nhà chẳng đứa nào biết chạy lên bảo im đi. Đành cậy kẻ đứng cạnh, kẻ ni theo hệ thống hành chánh nói ông Đổng Lý, ông Đổng Lý truyền ông Nội Dịch, ông Nội Dịch kêu ông cai thầu, ông cai thầu kêu thợ. Quá trời! Ông Đô Đốc cứ nghe búa đập! Quá trời!’’ Có lần họp gấp Tỉnh Trưởng trên lầu Dinh Độc Lập, ông liếc thấy thiếu ghế ngồi, hầm hầm ra hiên toan ôm ghế vô...cử chỉ của ông mặc nhiên lên án sự sơ xuất của nhân viên. Bận khác, ông bất thần ra kho bến sông xem thuốc viện trợ: Nhiều lô quá cũ, để hàng năm chưa đem phân phát, hư hỏng khá nhiều vì bị bỏ quên. Trận lôi đình của ông trong vụ này, theo tôi lại không đáng ngại bằng niềm tin vững như đóng đanh vào cột rằng chỉ ông là phải, và như ông mới phải.

Khốn thay, những trường hợp khiếm khuyết như trên, không thể chối cãi. Nên ông càng yên trí rằng phải can thiệp rất nhiều và hơn nữa, phải đảm nhận lấy những việc thường dành cho người khác. Cũng vì lý do ấy mà ông đêm về đặt thuộc quyền trực tiếp của ông nhiều Nha hay Sở đáng lẽ nằm trong các Bộ số cơ quan trực thuộc mỗi ngày một tăng cho tới giữa 1961.

Vài tỉ dụ, trong hàng chục tỉ dụ khác, cũng đủ cho thấy một tình trạng khó xử.

Theo lý thuyết hành chánh và thủ tục thông thường, thì ông rất ngang trái và đã gây nhiều trở ngại trong thực tế.

Nhưng cũng trong thực tế, nhiều khi lầm lỡ ở phía nhân viên, nên biết lấy gì bênh vực những quy tắc hợp lý?

Có vị đã nói. Lỗi ở người, không có quy tắc. Lỗi đã xẩy ra, không phải vì quy tắc sai lạc, mà vì không được tuân hành.

Song đối với ông, những quy tắc không khiến cho người ta làm tròn nhiệm vụ, là quy tắc đáng vất đi.

Ông chối bỏ phương pháp và chỉ nhắm vào kết quả: Miễn sao được việc thì thôi.

Trước một vấn đề, ông xông ngay vào một vài chi tiết, nên hay hỏi tỉ mỉ, nếu không trả lời được, thì ông quở trách là không biết việc và sau đó không buồn gọi nữa. Ông không chấp nhận rằng cấp điều khiển chỉ cần bao quát.

Tóm lại, trí não ông hoạt động theo lối thực nghiệm và tùy tiện, bắt gặp từng trường hợp, trạng thái hay thành phần dễ hơn là nắm trọn toàn cảnh, toàn bộ hay toàn thể (Empirique).

Trong khi đó, đa số chúng tôi thiên về luận lý cổ điển (Rationaliste), phải suy diễn có thứ tự, có liên hệ, có mạch lạc, và chỉ thỏa mãn nếu giải pháp hợp với nguyên tắc, và cần dựa vào lý căn bản mới luận ra cách giải quyết.

Những ngoại ngữ vừa kể đã được dùng khi mấy người thân cận đem ông ra mổ xẻ. Nhưng chẳng ai xin được ông đổi cách làm việc. Một bào huynh của ông đã phải tự an ủi rằng: Phải chấp nhận ông hay không chấp nhận ông, chỉ có thế thôi, chứ cải hóa sao nổi một người gần tuổi lục tuần?

Người Mỹ không tin: Sáu mươi, thì còn trẻ lắm, và nếu khéo trình bày, chắc có thể thuyết phục ông.

Một hôm, có chuyên viên Hoa Kỳ thưa với ông:

- Ông bắt nhân viên làm việc nhiều quá, người thì gầy ốm, người thì mắc chứng đau gan, đau bao tử, có chất mỡ trong máu, có người ngất xỉu mê man bốn mươi tám giờ, đưa vô nhà thương chữa hoài chưa bình phục. Buộc làm tối ngày, chỉ hại sức khỏe và mờ đấu óc, không lợi cho năng xuất. Nên ở khắp thế giới, trong công sở hay xí nghiệp tư, người ta đều phải bảo vệ nhân công, cho phép nghỉ ngơi hàng tuần, hàng năm. Chắc Tổng Thống cũng nhận là hợp lý.

Ông thủng thẳng đáp:

- Hợp lý. Nhưng cộng sản nó có ngừng đánh phá để nghỉ hè không?

Chuyên viên Mỹ thất vọng, đem câu chuyện thuật lại cho tôi và hỏi tôi nghĩ sao?

Theo tôi, nếu cả hai bên cùng an nghỉ thì hơn.