CÁI BÀN VÀ CÂY VIẾT
Ngồi làm việc sau bàn giấy cổ, kiểu Louis XIV Thế Kỷ XVII, thì sao có được những ý tưởng tân tiến để theo kịp thời đại mà trị nước Pháp hậu bán Thế Kỷ XX?...
Đó là lời phê bình về De Gaulle, của một tác giả mà tôi không nhớ tên, trên một số tuần báo Arts cách đây bảy năm.
Tôi đã liên tưởng vài lần đến câu vừa kể, khi nhìn chiếc bàn của ông Ngô Đình Diệm, trên lầu Dinh Độc Lập cũ. Chẳng ra kiểu gì đặc biệt, chỉ lớn, nặng, màu vàng nâu, phủ nỉ xanh và tấm kính, gần như của mấy nhân viên cao cấp. Một di sản của thời trước.
Nếu quả thiệt có tương quan mật thiết giữa đồ dùng và con người, hoặc nếu nơi làm việc phản chiếu tâm lý nhà cầm quyền, thì ý niệm của ông Diệm về vai trò của mình không khác cái bàn kia, nghĩa là chẳng có gì đáng chú ý.
Những đồ gỗ ấy không được sử dụng hàng ngày. Ông chỉ tới ngồi khi cần cho chụp ảnh quay phim, khi nói hay đọc để ghi âm phát thanh. Phòng bị bỏ không, trên bàn chẳng có giấy tờ gì, chỉ thấy một cây cờ nhỏ và một giá bút bày làm cảnh.
Ông xét việc và tiếp nhân viên ngay trong phòng ngủ. Ai vào cũng thấy ông ngồi trên chiếc ghế bành sâu, dày, bọc da rất cũ, mà không bao giờ chịu cho thay. Trước mặt, là bàn tròn nhỏ, với ống hút, hộp thuốc lá, đĩa đựng tàn, tách nước trà. Sau lưng, một bàn rộng để chồng chất lộn xộn không biết bao nhiêu tập sách báo, văn thư linh tinh: Nếu cần tìm gì, chắc phải bới lộn hàng giờ. Trang trí, thì thiếu hẳn; lạ mắt, họa chăng có khung cảnh lớn đặt trên một nóc tủ cao, giữa hai cây nến bằng thủy tinh: Cụ Ngô Đình Khả, bút tóc củ hành, râu ba chòm, áo gấm bông vàng chữ thọ. Cách vài thước, một chiếc gường độc thân phủ tấm chiếu hoa, phía đầu, kỷ con, tráp nhỏ, nhiều ống thuốc bổ và những lọ dầu bạc hà...Tóm lại, một buồng lủng củng đồ vặt của một bà già thuộc thế hệ mẹ tôi, hơn là văn phòng của một Quốc Trưởng 1960.
Nếu áp dụng câu xét đoán về De Gaulle thì không biết tôi phải kết luận như thế nào? Tôi bèn cho là câu ấy không thể tin vì đầy ác ý. Để tìm hiểu một nhân vật cầm vận mạng xứ sở tôi, phải căn cứ vào những sự kiện nào quan trọng hơn...
Vào các tác phẩm như đối với Jefferson, Churchill hay De Gaulle? Nhưng ông không viết gì cả.
Vào việc điều diễn văn, tuyên cáo v.v...? Thì đã in thành tập đấy, nhưng lại do kẻ khác soạn thảo, và muốn hợp ý ông, thì chỉ chứa đựng những tổng kết thành tích với rất nhiều con số khô khan, hoặc những lời hô hào tương tự như của mấy ông Thủ Tướng thời trước thời sau. Đoàn kết, nhất trí, nỗ lực, hy sinh, cứu quốc, kiến quốc, trang sử oai hùng cần viết lại v.v...Đôi khi, Cố Vấn Ngô Đình Nhu gài thêm dăm câu hàm súc, bằng tiếng Pháp dịch ra tiếng Việt, về lý tưởng Nhân Vị hoặc lập trường của chánh phủ trước một thời sự.
Hay là ỷ vào Hiến Pháp mà Quốc Hội đã chấp nhận để thể hiện triết lý của ông và ông Nhu? Cũng chỉ có thể dựa dẫm phần nào, vì bản văn rất vắn tắt, hoặc đã được gọt sửa để giải thích co giãn, nên thiếu chính xác nếu muốn nhận chân thâm ý. Vả lại, như tôi đã có dịp phân tích, triết lý kia không ăn nhập bao nhiêu với phần thiết bị chánh quyền.
Vậy thì đứng vịn vào đâu, để nhìn rõ ông Ngô Đình Diệm thấy mình là gì, muốn được coi như thế nào, và mong làm gì cho đất nước?
Không thể có chi khác là lời và việc, miễn sao lời phải thành thực và việc phải hiển nhiên.
Nhưng sự khó khăn ở đây, là ông thường có lối nói rất hàm hồ, và công việc nhiều khi mâu thuẫn.
Nên người quan sát phải nghe và nhìn ở nhiều dịp khác nhau, trong một thời gian khá lâu, rồi so sánh, chắp nối, và lựa lọc, mới mong đi tới một nhận định không quá xa sự thật.
Cuối 1955, vài nhân viên được khẩu lịnh thâu thập tài liệu để khởi thảo dự án Hiến Pháp.
Rồi một buổi tối, ít ngày sau khi các tài liệu được đệ trình, ông Tổng Thống cho vời một người lên hỏi về mỗi tập thuộc mỗi quốc gia.
Biết ông chú trọng nhất đến thể chế Hoa Kỳ, đương sự giở ngay bản sơ lược về tổ chức chánh quyền xứ này.
Ông phán rằng:
- Hoa Kỳ, họ cũng có cái tốt, là Tổng Thống nhiều quyền. Làm chủ một nước, thì phải điều khiển, quyết định, không thể ủy quyền cho một Thủ Tướng rồi ngồi làm vì. Mình có cái tệ, là đã có ông Vua làm vì, ông Quốc Trưởng làm bù nhìn...
Tôi trộm nghĩ: Không biết tại ai mà trước đây ông Bảo Đại đã mất quyền từ 1954?
-...nên Tổng Thống không thể làm bù nhìn cho người ta bịt mắt, qua mặt. Việc giao ai, phải trình cặn kẽ, có đầu có đuôi, chớ tầm bậy, tầm bạ sao được? Kẻ dưới được tin hay bừa bãi, có khi quá trời...
- Thưa Cụ, ở những nước phỏng theo Tổng Thống Chế, dù giữ quyền tối hậu, các vị Tổng Thống đều ủy một phần thường vụ cho một người giải quyết, Thủ Tướng hoặc Bộ Trưởng tại Phủ Tổng Thống, để công việc khỏi ứ đọng.
- Nước người ta lớn, nước mình nhỏ. Quyền của quốc dân người ta giao cho mình, đặt vào tay mình vì người ta tin mình, không thể giao lại cho ai. Ông Bộ Trưởng N.H.C. muốn lãnh trách nhiệm thì cứ ký việc, nhưng đừng đổ lỗi cho ai. Đừng làm ông Thiện rồi dành cho Tổng Thống làm ông Ác trên chùa. Mà ủy hẳn sao được? Quyền của quốc dân người ta gửi người lãnh đạo, chớ gửi đâu ông Bộ nào?
Tôi hiểu vì sao mấy lần xin mà không được duyệt ký một nghị định ủy quyền chánh thức cho Bộ Trưởng để thừa lịnh giải quyết những việc hàng ngày. Hai tủ lớn chứa đầy hồ sơ đợi ‘’trình cụ’’ quá lâu, cứ độ một tháng lại phải tạm trả về các Bộ hay các cơ quan trực thuộc Phủ, để chờ dịp khác. Có những đề nghị thăng thưởng ba năm chưa được xét.
- Ông Gia Long đánh giặc, phải để mắt nhìn cả những chiếc đinh ốc đóng thuyền chiến, thợ nó cẩu thả lắm. Mắt ông chủ l'oeil du maitre bao giờ cũng tốt hơn, có nhìn khắp mới xong việc, bỏ mặc là hỏng. Mình làm quan, mình nhìn từng ven đê, nó để nước thấm mà nó đi uống rượu, để đê lở, dân chết rồi nó mới trình...
Ông liếc qua Hiến Pháp Hoa Kỳ:
- Người ta hai viện vì người ta có các tiểu bang. Mình đâu có tiểu bang đại bang. Tốn lắm. Mình nghèo. Cãi nhau nhiều, đình đám xôi thịt. Một viện thôi, vài chục người đủ rồi. Mà việc thì Viện viếc gì, đã có Tổng Thống làm, cả thảy dân người ta bầu mình làm việc cho người ta, thì mình cứ làm.
Rồi ông giở đến tập Á Căn Đình:
- Hề hề. Cái bà Evita Peron thiệt giỏi. Ông ta nhờ bà nhiều. Đàn bà nước người ta cũng giỏi hơn đàn ông nước mình. Mặc đẹp, là thói đàn bà, không sao...
Tôi thấy Evita bận đồ tơ lụa và đeo nữ trang lộng lẫy hộ cho những kẻ áo rách mà bà thường tuyên bố hết lòng che chở: Descamisados. Có lẽ vì thế, một số bà ‘’phu nhân’’ làm việc xã hội, đi thăm xóm nghèo cũng diện rất sang...
-...Người quyền trên phải trông nom người dưới...Mấy bà hôm trước cử đi phái đoàn ra ngoại quốc, coi bộ quê lắm, chưa đi thì kiếm người khác có mẽ hơn chút, nước ngoài, người ta chú ý lắm đến các ăn mặc.
Tôi nhớ lại: Thảo nào, có hôm ông Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống bị triệu lên gấp từ sớm vì có việc rất cần, nhưng vừa đến nơi đã bị lưu ý:
- Coi cà vạt ông thắt lệch!
Lệch thật, vì vội, không kịp thắt ngay ngắn, ông Bộ đưa liền tay lên cổ sửa nút, rồi mới được hỏi về vấn đề phát thanh của Pháp tại Sài Gòn.
- Portugal- Bồ Đào Nha. Chà, ông Salaxar giỏi quá! Mình phải hiểu rõ ông ta. Đi bộ tới dinh làm việc. Đi bộ về nhà nhỏ. Nghèo, không biết ăn tiền. Ông đáng làm phụ mẫu dân. Dân chủ như Pháp, Thụy Sĩ, đã sao được? Có quyền mới làm được việc cho dân. Dân Chủ là làm cho dân, không phải là dân làm ông chủ sai bảo ông Tổng Thống. Mình phải hiểu Leadership, sự lãnh đạo, khả năng lãnh đạo. Tại sao người ta gọi mục sư là ông mục sư? Mục là giắt, dìu giắt, chăn giắt, nuôi đàn chiên. Chăn giắt, mới có tình cha con thầy trò. Dân có tình, trên có tình, dưới có tình. Mình ngay thẳng, dân mới hiếu đễ, có trật tự. Ra đường, dân không chào là người chưa có tình. Nhưng mình phải dạy lễ nghĩa. Leadership, người Mỹ chỉ hiểu máy móc. Phải hiểu tinh thần. Mình làm quan, mình xử cho nó công bằng, nó mến. Khi mình về vườn rồi, nó còn lén tới cho cân trà. Giáo dân, dưỡng dân, Mạnh Tử hiểu Leadership, ông Salazar hiểu Leadership...
Riêng tôi không hiểu mấy, vì ông Tổng Thống nói lung tung, đang chuyện này qua chuyện khác rồi mới trở lại vấn đề lãnh đạo. Tôi chỉ nhận rõ ông muốn gì, ngót một năm sau, khi đọc kỹ một câu trong Bản Hiến Pháp mới: Tổng Thống lãnh đạo quốc dân. Thì ra Hành Pháp không phải là cơ quan thừa hành dân ý (Exécutif) như các nhà làm luật thường quan niệm, ví ở đây người giữ quyền hành pháp lại có nhiệm vụ tối cao của kẻ đưa đường chỉ lối.
Tôi tin rằng ông cảm phục Salazar buộc dân vào kỷ luật, chớ không cho tự do hoạt động, nên phù hợp với ý niệm Phụ mẫu chi dân (Paternalisme politique) mà ông Ngô Đình Diệm đã thấm nhuần từ nhỏ, giữa gia đình quan liêu, trong đời quan lại của ông, và ở tâm trạng một Giáo Dân trọng tôn ti và quen khuất phục bề trên.
Ý niệm đó cũng cũ kỹ như chiếc ghế bành của ông, hay bàn giấy của De Gaulle. Tuy nó dựa trên một thiện chí, tôi ngại rằng thiện chí đó lại hiện ra tiếng quát tháo của một cha già gay gắt, ra roi vọt của một thầy đồ cau có muốn đòi hỏi lũ trẻ phải ngoan ngoãn, khi thiếu nhi thời nay thích được thân yêu và đối xử như người khôn lớn.
Trong tâm khảm của người tự coi như bậc cha mẹ, tình thương hay pha trộn với lòng kiêu, hoặc bị lòng kiêu lấn át, lại không biểu lộ bằng vẻ cưng chiều âu yếm, nhưng bằng những cử chỉ hay ngôn ngữ dễ bị hiểu là ác nghiệt và làm cạn kiệt thân yêu.
Tình thân nào có thể ép buộc? Nhưng ảo tưởng dạy lễ nghĩa đã lây sang kẻ thừa hành ở các địa phương, khi họ bắt đầu cúi chào hoặc đứng dẹp bên vệ đường để nhường lối cho đoàn xe Tổng Thống. Có bận ông đi kinh lý về, nét mặt hầm hầm, bảo một Bộ Trưởng: ‘’hình như người ta không biết tôi là ai? Tổng Thống đi qua, mà chẳng có mấy ai cất nón!’’ Cũng tội nghiệp cho ông Bộ, vì ông Bộ làm chi được?
Bận khác, ông đi thăm vài hôm mấy Tỉnh Cao Nguyên, lúc trở về chỉ thấy ở Tân Sơn Nhất lơ thơ năm bảy nhân viên đón tiếp. Hôm sau, ông cho kêu một người thân cận đã trót vắng mặt ở phi trường, mà lầu nhầu trách rằng: ‘’Người ta phải mưa nắng xem xét các nơi ngay trong khi các anh nghỉ, đi chơi. Người ta mệt nhọc mà chẳng ai thèm săn sóc cả. Có mỗi một Tổng Thống mà thờ ơ, lỡ Tổng Thống đau, thì ai mà làm việc cho, không hiểu chi hết!’’
Tôi đoán ông Tổng Thống sẽ càng bực mình nếu ông trông thấy trên tranh ảnh, dân Thị Xã Tours cung kính ngả mũ chào Thị Trưởng tu sĩ Chanoine Kyr, hoặc dân Stokholm hoan hô vua Gustave đạp xe đi đánh quần vợt; hoặc trẻ già ở Luân Đôn lũ lượt nghênh giá Nữ Hoàng Elizabeth hồi loan từ Úc Đại Lợi.
Khi tôi học ở Trường Bưởi Hà Nội, có ông giám thị B tức Tàu Phè hay quắc mắt nếu không được chào như Giám Học Charpin. Tôi ái ngại và buồn cười. Trước sự phẫn nộ của ông Tổng Thống, tôi không nhớ đã buồn cười hay ái ngại?
Ông đòi thân yêu chớ không đòi sợ hãi như ông Nhu, dung mạo lầm lỳ và cử chỉ lạnh lùng của ông Nhu nhắc cho tôi câu của Racine gán cho Néron: Bạn hay thù, miễn là sợ ta, Ami ou ennemi, il suffit qu'on me craigne. Trái lại ông Diệm vẫn yên trí là mình thương mến và được mến thương. Một người như ông mà không được cảm tình, thì thật là khó hiểu đối với ông, cũng như đối với một phụ nữ thấy mình xinh đẹp. Ông tin rằng dân chúng thực lòng say tôn ông, vì ông tưởng mọi hành động của ông đều có lợi cho dân, dù là bắt người ta dầm mưa dãi nắng hàng giờ để đón rước ông.
Ngày 26 tháng 10 năm 1955, trước hàng vạn người được cán bộ hướng dẫn tới vườn Dinh Độc Lập để hoan hô tập thể, ông đã tươi cười bảo một Bộ Trưởng: ‘’Coi bộ quốc dân người ta hoan hỉ quá!’’
Sau hôm tuyên thệ nhậm chức lần thứ hai, ngày 30 tháng 4 năm 1961, ông lại cười tươi mà thuận lại cho vài nhân viên trong Phủ: ‘’Dân chúng nhiều nơi bị việt cộng ngăn cản, đã đả đảo cả việt cộng mà xô nhau đi bầu; thiệt là can trường đáng khen’’. Phải chăng vì nghe lỏm được chuyện này, hoặc biết ông sẵn lòng tin vào tình thân mến của đồng bào, mà trong bản phúc trình về kết quả bầu cử, một Tỉnh Trưởng đã kết luận bằng một câu gần đúng câu vừa kể?
Ông không thể tưởng tượng được rằng người ta oán ông. Mỗi năm, cứ gần Tết Nguyên Đán, ông cho làm tiệc bánh khoản đãi nhân viên dân sự và quân sự trực thuộc Phủ Tổng Thống. Ai chẳng nghĩ rằng đây là dịp hiếm có để ông gần gũi mọi cấp cộng sự và thăm hỏi ân cần vui vẻ...Nhưng không, mỗi lần là một phen quở trách nghiêm ngặt với giọng rất sẵng, về cách thức phục vụ hay tác phong đạo đức, nhất là khi lại có kẻ đổ thêm dầu và lửa. Có năm, một Bộ Trưởng hiểu thói quen của ông, đã đón ý và xin sửa bài ‘’huấn từ’’ thành một bản cáo trạng lên án toàn thể công chức: Nào là trễ nải biếng nhác, nào là tắc trách cầu an, bê bối thối nát...Như thế, phải có gan dạ lắm mới nuốt nổi ly trà giữa tiệc, nên sự cộng tác lâu năm, thay vì gây tình cố cựu, để làm tăng nỗi bất bình. Riêng tôi chỉ nghĩ đến Nữ Hoàng Elizabeth hay những Tổng Thống Coty niềm nở bắt tay và ngỏ lời thân mật trước ngày Giáng Sinh, với tất cả những nhân viên thấp nhất trong Cung Điện Saint James hay Elysèe.
Ông bạc đãi, mà muốn người ta phải tri ân? Tôi đã sẵn lòng nuôi oán. Nhưng vì quen hoài nghi cả tình cảm của mình, tôi có nghĩ lại, và nhớ rằng cứ mỗi đêm Giáng Sinh, là ông đích thân đến dự lễ ở một đồn xa lánh: Thực ra, những người chiến đấu xứng đáng được săn sóc hơn cả. Vậy nếu quả ông là người khinh bạc, thì chỉ như thế đối với những người ở quanh ông, những kẻ mà ông chịu đựng cũng như họ chịu đựng ông? Sự xét đoán của ông sai lầm, hay là tính tình ông khắc nghiệt?
Luật Gia Đình và Luật Bảo Vệ Luân Lý bị công kích rất nhiều, đến nỗi một Bộ Trưởng đã phải rủ vài người được ông tín nhiệm, lên xin ông cho thi hành linh động, với tinh thần cởi mở hơn, để tránh sự bất mãn lan tràn ra nhiều giới: Có những người đã trót ăn ở với nhau lâu năm và có con riêng, không lẽ cứ phải ruồng bỏ nhau? Thanh niên, binh sĩ v.v...có vấn đề sinh lý gay go cần được giải quyết như ở nhiều xứ khác để giữ sức khỏe và thăng bằng cho thần kinh...Vì cấm đoán quá ngặt, nên nhiều vụ hãm hiếp, và nhiều trường hợp bệnh hoạn đã xảy ra khắp nơi v.v...
Ông quắc mắt và mỉa mai:
- Gia đình là nền tảng xã hội. Mình phải giáo dục cho dân, không thể nuông chiều, không thể tha thứ phóng đãng. Rượu chè, cờ bạc, nhảy múa, mèo chuột, phải cấm. Các ông dạy con mà không cấm sao? Các bà nào bằng lòng cho các ông mèo chuột? Cho làm nhà cửa ở đồn điền Thanh Tóa, tôi đã hẹn không được chứa bà bé bà nhỏ. Bổn phận người trị nước cũng như người trị gia. Xác thịt, mình làm chủ, chớ làm nô lệ sao? Ông Đại Biểu và Hội Luân Lý người ta kêu nhiều lắm, đã cho tôi xem tranh quảng cáo, có cái con Lôlô chi đó phô đùi lòng thòng làm xiếc. Tôi ra chợ, thấy bán đồ lạ, hỏi chi, kêu đồ ngăn sinh sản, bậy quá, ai mà dám cho nhập cảng đồ đó ngăn sinh sản, bậy quá, ai mà dám cho nhập cảng đồ đó hại dân. Nhảy múa không người ta đánh giặc! Cứ thổi phồng nhu cầu sinh lý! Cấm. Chỉ có những kẻ mang hạ bộ ở trên đầu mới nói quá to chuyện. Phải có luân thường. Luân thường là lẽ thường mà không còn ai hiểu sao? Cấm mà còn thế, không cấm sao được? Người hiểu biết người ta biết cho mình. Pháp. Nhật, nghe nói còn cấm mãi dâm, huống hồ mình văn hiến?...
Tôi chợt nhớ rằng nơi làm việc của ông không khác mấy căn phòng của những bà bằng tuổi mẹ tôi, cách đây năm chục năm...
- Chúng ta thuộc về một gia đình mà số phận gắn liền với vận mạng quốc gia, nous appartenons à une famille dont le sort est lié à celui de l'Etat...
Cố Vấn Chánh Trị Ngô Đình Nhu đã nói như thế vào đầu năm 1958, với một yếu nhân là bà con của Cố, để khuyên ông này tránh một hành động có thể gây tai tiếng cho cả họ Ngô.
Tôi thấy câu trên có thể theo nhiều nghĩa. Mọi sứ dở hay xảy ra cho gia đình ông đều có ảnh hưởng xấu tốy vào tình hình xứ sở, hoặc có hậu quả hau hay lợi cho uy tín của anh em ông? Hoặc là: Nếu gia đình ông còn, thì quốc gia còn, cũng như Trần Thủ Độ đã tâu Vua Trần Thái Tôn. Đầu thần còn thì xã tắc cũng còn.
Dù sao, ông Nhu cũng tin tưởng rất mạnh vào vai trò lớn lao của họ Ngô. Nhưng tính cách trọng đại này còn được xác nhận rõ rệt hơn nữa, khi xảy ra vụ Phật Giáo 1963.
Để trấn ai dư luận quá hoang mang trong dịp này, ông Tổng Thống đã kêu gọi các giới giữ bình tĩnh, đừng nghĩ là có sự tàn bạo, vì còn có Hiến Pháp ‘’nghĩa là có tôi’’ bốn chữ này do chính tay ông ghi thêm vào cuối câu dự thảo.
Hiến Pháp là tôi...có khác gì lời Vua Louis XIV: Quốc Gia là Trẫm, l'Etat, c'est Moi.
Đáng lẽ ông Ngô Đình Diệm phải ngồi ở bàn giấy Thế Kỷ XVII của De Gaulle.
Quan trọng hóa vai trò của mình, là một thường tình do lòng tự ái, có thể nhận thấy ở mọi cấp chính quyền, huống chi ở người giữ trách nhiệm rộng lớn, thì sao có tác phong tương xứng? Và phải tin vững vào sức mình và đường mình theo, mới đủ can đảm gánh vác, đương đầu, và dấn thân vì nước.
Khốn thay, từ chỗ vừa phải đó, tới chỗ thấy mình siêu việt, chẳng xa bao nhiêu. Trước hết, rất dễ gán cho tài đức của mình, những sự thành công hay thắng lợi do thời thế cho phép, hay do nỗ lực của nhiều người cùng góp. Một khi có uy quyền, thì hay được tán dương, dù không muốn gửi cũng thấy hương thơm, rồi ngây ngất lúc nào chẳng biết. Nghe mãi những tiếng tài năng, xuất chúng, dũng lược, anh minh, cứu tinh v.v...quá quen thì tưởng thật. Bị thổi phồng thành chí cao chí đại, thì kết luận rằng mình phải chí tôn, đứng trên cả quốc dân, to lớn bằng quốc gia, vậy mình là hiện thân của nước: Ai trái mình là ngu muội, ai chống mình là phản quốc, không có mình thì có họa diệt vong.
Không rõ tôi đã đứng trước trường hợp nào vừa kể?
Lời Trần Thủ Độ chỉ tỏ ý chí cương quyết để trần tĩnh làng Vua trong cơn nguy biến. Nhưng lời của ông Nhu và ông Diệm, phải chăng đã biểu lộ một sự tự tín quá mức, hay một ảo tưởng đáng ngại vào sứ mạng của mình?
Một hôm, vào đầu 1956, ông Tổng Thống ngó một tờ trình, thấy những nét chì đỏ ở dưới vài câu; ông hỏi ai đã vạch như thế?
Văn phòng đã gạch theo lệ thường, để lưu ý cấp trên đến những điều, hay những đoạn quan trọng.
Ông sầm nét mặt mà quở:
- Không hiểu chi hết! Nét son chỉ dùng để châu phê. Ngự châu phê mới được dùng cây bút son. Mà không ai có quyền đánh dấu hay phê vạch chi hết trên các tờ trình!
Hậu quả, là từ đó, phần đỏ cây viết chì xanh đỏ của các cao cấp trong Phủ, vẫn còn nguyên vẹn khi phần xanh đã cụt.
Chỉ có những chữ Y, chữ Bác, hay lịnh của ‘’Người’’ mới in nét mập và sâu trên những văn kiện phải đệ.
Bạn S. biết chuyện, đã bật cười:
- Thế thì những công văn phải trình, đáng lẽ nên gọi là Sớ hay Biểu thì đúng hơn.
Mới đầu tôi nghĩ rằng đây chỉ là một thói quen hoặc một sự lệch lạc về nghề nghiệp (déformation professionnelle) của một ông cựu Thượng Thơ triều Nguyễn, chứ khi nào ông Tổng Thống lại tự coi mình như một Đế Vương?
Nhưng trí tưởng tượng của tôi bị ngỡ ngàng, khi thấy một Bộ Trưởng bị trách.
- Ông phải dạy cho nhân viên rõ. Trình tôi, mà cuối tờ trình chỉ mang vẻn vẹn mấy chữ ‘’Nay kính trình’’ thì coi sao được!
Ông Bộ Trưởng lúng túng không hiểu.
- Thế ông quên rồi sao? Trước kia, viết trình ông Bảo Đại, thì nói thế nào?
Thôi, phải rồi:
Còn thiếu ‘’tấm lòng cung kính tri ân và trung thành bất diệt’’ mà người ta phơi bày ở câu kết những phúc trình đệ lên Đức Quốc Trưởng ngự lãm.
Rồi về sau, không tờ trình nào thiếu câu trên, và quả nhiên Người không quở trách gì nữa.
Sự độc quyền về bút chì đỏ, còn lan rộng ra nhiều vật khác có ý nghĩa tượng trưng. Trong thực tế, quốc kỳ không còn phất phới trên xe hơi của Bộ Trưởng như ở dưới chế độ cũ, phải dành riêng cho Mercédès hay Chrysler của Tổng Thống và chỉ còn được đặc biệt dung thứ với tính cách lệnh kỳ trên xe của Tổng Tham Mưu Trưởng, sau nhiều tuần xét đi xét lại. Nhưng Đại Tướng Lê Văn Tỵ không còn được áp tải như Tướng Nguyễn Văn Hinh hồi 1954 bằng mấy bằng mấy cặp mô tô bình bịch, chỉ có đoàn vệ bình hộ tống Cụ mới được sử dụng xe này. Tôi liên tưởng đến những điển lệ triều đình nghiêm cấm các cấp quan lại và thần dân không được dùng những sắc vật dành cho nhà vua, hoặc ăn mặc xây cất lộng lẫy để có ý ganh đua với oai nghi thiên tử, nếu dám trái, có thể bị đàn hạch là lộng hành.
Ông Tổng Thống luyến tiếc các biểu hiện quân chủ, nên tái lập Kim Khánh của Nhà Nguyễn và công nhận là huy chương cao nhất của Việt Nam. Ông gây lại không khí cung đình, đặt lễ phục gấm lam khăn đen cho các nhân viên cao cấp, và chỉ nhận chúc Tết Nguyên Đán vào sớm ngày mồng một. Đã có vài người xin ông cho chúc vào chiều ngày ba mươi, vì Tết đầu năm là ngày của gia đình, và theo cổ tục, buổi sáng dành cho gia tiên, đa số còn phải đèn nhang cúng vái, hoặc mừng tuổi ông bà cha mẹ. Ông không nghe, vì theo ông, xưa kia triều bái ở Điện Thái Hòa hoặc ở Vọng Cung của tỉnh, nghĩ đến Vua rồi mới đến nhà, vì Vua là nước. ‘’Vua ban hồng phước không tốt hơn là chờ người xông đất hay sao?’’
Bởi vậy, cứ tám giờ mồng một, là hàng trăm người, cả nhân viên, lẫn đại diện đoàn thể dân chúng, đành phải xúng xính áo khăn vào cầu ơn trên phù hộ cho ông.
Một công chức bực quá đã thốt ra một câu chua chát:
- Thôi thì coi bái khách như một công cụ đã được tính vào sổ lương tháng rồi!
Có lẽ vì thế mà hai tiếng Ngô triều đã được nói đến ngay từ 1957, chớ không phải từ sau Cách Mạng 1963, do một Tôn thất Nhà Nguyễn đương làm Giám Đốc một Nha.
S. lại bảo:
- Ngô triều cũng chưa đúng hẳn. Muốn đối lại với Dân Chủ Cộng Hòa ngoài Bắc, ta nên kêu chế độ miền Nam là Quân Chủ Cộng Hòa do một Tổng Đế thống trị.
Sự thống trị này, vẫn bị gọi là gia đình trị. Nhưng gia đình trị không phải do ông Ngô Đình Diệm và anh em nghĩ ra và đặt ra đầu tiên. Sự can thiệp vào nhiệm vụ ông anh chẳng qua chỉ mô phỏng hoặc tiếp tục nếp cũ của các hoàng gia thời trước. Một người làm vua, nhưng họ hàng thân tích gần xa có thể xen lấn nhiều ít vào công việc triều chính, hoặc chia xẻ quyền lợi của người trị vì, với tư cách ông hoàng bà chúa. Nếu sự tín dụng ông Nhu ông Cẩn v.v...còn do nhiều lẽ khác, thì sự dung dưỡng các ông này mặc dầu bị chỉ trích nhiều, cũng một phần vì sự tham gia việc nước của anh em ruột, được ông Tổng Thống coi là rất tự nhiên và không thể chê trách vào đâu. Theo ông, có ai nói gì, khi các Vua Trần dùng những Trần Nhật Duật hay Trần Khánh Dư, khi ông Bảo Đại dùng Bửu Lộc hay Vĩnh Cần! Song nhận định như thế, là gián tiếp coi mình như vương giả?
Trong nhiều năm, tôi đã thấy lạ. Tôi đã tự hỏi không hiểu vì sao ông có quan niệm như trên về vai trò của ông để bị chê bai là quá lỗi thời. Nếu quả ông lạc hậu, thì ít ra cũng còn ông Nhu thuộc sử và thừa rõ lẽ tiến hóa?
Ông Nhu đọc sách nhiều và nghĩ nhiều về vấn đề chậm tiến. Nhưng phải chăng ông lánh trong tháp ngà, nên không theo kịp tâm lý của quần chúng và nhu cầu của thời đại?
Tôi rất ngờ rằng ở hai lãnh vực này, có nhiều sự thật mà ông không biết, phần vì thiếu tin tức đích xác, phần vì quá bận việc chống chọi để bảo vệ chánh thể, phần vì không tin rằng có thể thâu phục nhân tâm và hòa hợp với đa số. Đã có lần ông bảo một cộng sự: ‘’Mình khỏe thì họ theo, thấy phải thì cứ làm, đừng có mong ai thương mến mình thế’’.
Chắc vì thế mà khi tổ chức Thanh Niên Cộng Hòa, ông chẳng hề tìm cách thu hút thành phần ưu tú nhất, là Sinh Viên. Sinh viên không được ông chú ý và gần gũi, tuy ông thừa tư cách. Nên ông không rõ những người trẻ tuổi hiện nay cần gì, muốn gì, và có thể làm gì hơn người lớn? Ông không tự hỏi Chủ Nghĩa Nhân Vị có lôi cuốn nổi không những thế hệ đầy thắc mắc và đòi sống mạnh? Những quan niệm của ông về quốc gia, xã hội, dân tộc, ông chưa từng thử thách xem có thích ứng hay không với tuổi hai mươi, nghĩa là với tương lai xứ sở?
Cũng như ông Nhu, ông Ngô Đình Diệm không sống với thanh niên, nhưng với phụ huynh của họ, những chủ gia đình có trách nhiệm và phải có uy tín: Bảo được họ, là bảo được con em; họ lại ít nhu cầu hơn, muốn được yên hơn là cần đổi mới. Nên ông nghĩ có thể quay về dĩ vãng, với những ý tưởng cũ và chính sách cũ đã duy trì trật tự ngày xưa.
Hình ảnh ông về người dân, là hình ảnh của người quần nâu áo vải thời Pháp thuộc, chịu nhẫn nại, quen khuất phục, dễ cai trị theo đường lối giản dị. Ông tái lập ‘’Chánh Tổng’’ như ở Trung và Bắc trước 1945, dù gọi là ‘’Cai Tổng’’, ông cũng không nghe, vì ‘’Chánh Tổng’’ oai hơn, nhiều quyền và được dân kính nể hơn.
Theo ông, dân ta hiền lành, muốn trị an, chỉ cần cho ấm no. Ông quên rằng no ấm hơn cả là dân thành thị, mà chính thành thị lại là nơi có nhiều nhất những phe nhóm đối lập với ông. Ông cho là người dân thuần hậu chất phác, vì mỗi khi đi kinh lý, ông chỉ được tiếp xúc với người già cả: Ai để ý, tất thấy như vậy trên phần nhiều các ảnh Thông Tin. Đa số thanh niên bị việt cộng bắt hoặc lẩn tránh lên các thành phố kiếm ăn; từ khi ra đời, họ đã trải loạn lạc, đã cảm khác, nghĩ khác bác Nhiêu hay ông Xã thời xưa, và không có dịp tìm hiểu lại những nền nếp cũ đã bị phá hủy từ 1945, tuy ông Diệm tưởng vẫn còn được giữ gìn hay mến tiếc: ‘’phải để quyền cho cha anh, cho đàn anh, ông Ayub Khan bên Hồi Quốc muốn gây dựng dân chủ Démocratic de base từ xóm làng, là chí phải, mình có sẵn thì mình đừng để mất’’.
Tại Dinh Độc Lập hay Dinh Gia Long mỗi năm vài lần, trong dịp khánh tiết, ông tiếp các đại diện của rất nhiều đoàn thể, không bao giờ thấy văn nhân, nghệ sĩ, thanh niên trí thức. Chắc ông biết rằng thành phần này đòi hỏi đối thoại chớ không chịu đến nghe huấn từ. Thỉnh thoảng, ông chỉ tới thăm một hạng sinh viên có bổn phận phục tòng: Sinh Viên các Trường Võ Bị.
Thiếu liên lạc với những giới đòi tiến mạnh nhất vì có đời sống tinh thần hiếu động, ông không có dịp theo dõi các trào lưu tư tưởng, các biến chuyển của phong tục và sinh hoạt, các ảnh hưởng ngầm ngầm hay rõ rệt từ các phương trời lạ lan tới miền Nam đất Việt.
Đất Việt được ông biết nhiều hơn người Việt. Vì đất còn mang nặng vết tích thời qua mà ông dễ nhận, chưa thay đổi mấy từ khi ông ra làm quan, vẫn còn xơ xác nghèo nàn, hoặc hứa hẹn xanh tốt mà chưa được vun tròng hay xây dựng. Nhưng con người đã bị vùi dập, xô đẩy, lôi kéo khỏi những cổ lệ, những hương tục, những quy củ và giá trị mà ông yên trí là vĩnh cửu.
Ông thuộc nhiều tên quân tên xã, tên núi tên sông rạch ở Kiến Tường, Darlac hay Quảng Nam...Ông đã tốn nhiều ngày giờ thăm nom và đặt tên chữ Hán cho những Dakto, Dakhut, Cheo-reo hay Blao...Nhưng thực ra, ông chú ý đến cảnh vật và thổ sản hơn là dân tình: Cấp hữu trách hay che giấu ông và chính ông vẫn tưởng là đã thừa hiểu biết.
Ông nhớ vùng này có cây gì, địa điểm kia có thể thành khu trù mật, nhưng không rõ rằng người nơi đó không chịu nổi cường hào, rằng con gái nông thôn cũng ưa uốn tóc, rằng bô lão không còn uy thế như khi ông làm tri huyện, rằng J.P.Sartre hay Brigite Bardot đã thành thần tượng của một số khá đông vì họ không biết đem gửi cho ai những hoang mang và sôi nổi có thừa. Ngay đến ý niệm về sinh hoạt hàng ngày, cũng rất thiếu sót ở một người vẫn cho là mình gần dân. Ông đã bảo một nhân viên có vợ và bốn con, vào năm 1960, lương ông mà những năm ngàn thì tiêu sao hết?
Nói tóm lại, giữa người cầm quyền và người dân, không có sự tương hiểu.
Ông tin rằng dân theo ông, và chỉ bực mình vì triết lý và chính sách của ông chưa được thấu đáo mà thôi.
Nhưng đa số lại có nhiều lẽ để trách ông không chịu tìm hiểu, và chỉ khăng khăng nghĩ và làm theo ý mình.
Sự thiếu thông cảm, ngay từ 1959-1960, đã gây một bầu không khí gượng ép và chaứ đầy lo ngại, tuy cả hai bên đều mong muốn một ngày mai êm đẹp.