ÔNG LÀ AI ?
Khi mới lên cầm quyền, ông Ngô Đình Diệm cũng như các Thủ Tướng trước, đã đặt ngay vấn đề nhân sự, bỏ ai, dùng ai, và tìm đâu ra người khá?
Ông Diệm và một số thân tín của ông yên trí là tất cả bộ máy cũ với những con người cũ đã bị mục nát hết, và cần thẳng tay quét sạch. Tháng 7 năm 1954, câu hỏi đầu tiên được nên cho ông Thủ Hiến Nguyễn Hữu Trí, là làm thế nào loại trừ tham nhũng và các phần tử xấu?
Nhưng sau khi nhận xét thực trạng lớp người của chế độ cũ, ông Ngô Đình Nhu đã chịu rằng chỉ có thế, không dùng thì chẳng biết bói đâu ra hiền tài: ‘’chúng ta chỉ có những con người mà Lịch Sử cho ta’’ Rồi ông đành kết luận:
- Thôi thì chẳng có thép tốt, mình nhặt sắt vụn mà xài. Chánh sách mình theo, là Recupération de ferrailles. Đứa nào có tội thì đưa nó ra tòa. Còn thì coi là có thể sửa, tốt hay xấu còn tùy mình. Mình tốt thì họ phải tốt. Việt Minh nó lên, nó lôi cổ ra mần cho nó, cứ bắt mần còn hơn là để bất mãn ngồi dưng nói bậy. Được việc thì thôi. Mình chưa chi đã muốn thay đổi, nhưng mình làm cóc gì có người cho đủ. Mớ người bỏ nhà bỏ cửa vô đây theo mình, mình phải nuôi chớ gạt ra sao? Ai đánh kẻ chạy lại, dù nó đã ăn tiền ăn bạc?
Triết lý bi quan của Cố được nghe theo. Không có công chức nào mất việc ngay. Bảo Chính Đoàn, Việt Binh Đoàn và Địa Phương Quân thành ra Bảo An Đoàn. Sau nhiều lần bác bỏ, ông Thủ Tướng cho lập Ban Đặc Biệt tại Trường Hành Chánh để huấn luyện và thâu dụng lại các cựu Quận Trưởng Bắc Việt, mà ông đã dự tính loại khỏi chánh quyền. Và mỗi lần có hội thương, khánh tiết, biểu tình, lại thấy gần đủ mặt nhân viên của các cựu Toàn Quyền Thống Sứ Thống Đốc Bréviè, Catroux, Docoux, Halewyn, Hoeffel, Gauthier...của Hồ chí Minh và Giáp, Giám, Giàu, Liệu 1945-1946, của các cựu Thủ Tướng và Thủ Hiến Kim, Thinh, Hoạch, Xuân, Long, Hữu, Tâm, Lộc, Giáo, Trí, Vinh, Thành, Hoài v.v...Thật là vui như chợ Tết.
Trong rừng người đó, thành phần nào được trọng dụng, và nếu cần lựa chọn thì theo tiêu chuẩn gì?
Ông Diệm luôn luôn mang nặng - và nặng hơn cả các nhà cầm quyền trước kia - một thứ mặc cảm có thể gọi lại mặc cảm địa phương. Ông muốn tỏ ra và muốn được hiểu rằng ông không hề phân biệt ba miền Việt Nam. Bởi ông là người Trung, ông Phó sẽ phải là người Nam, và bên cạnh ông, các chức vụ quan trọng phải được phân phối đều cho nhân viên Nam và Bắc. Mỗi khi thấy đề cử một người, ông hỏi liền: Quê nơi nào? Sinh quán cũng thành yếu tố cần thiết trong sự chia phần học bổng; có lần ông bác bỏ đề nghị của Hội Đồng Du Học vì trong ba mươi sinh viên được tuyển đi Hoa Kỳ, chỉ có lác đác vài người miền Nam; cơ quan hữu trách cố tìm người sinh tại Sài Gòn hay Cần Thơ, nhưng hồi đó, thanh niên ở các nơi này muốn qua Pháp hơn là sang Mỹ. Bật khác, ông không ưng cho người đi dự một Hội Nghị Quốc Tế; lại Bắc! Tìm ai thay! Mỗi khi phải thay thế, và nếu thiếu người miền Nam đủ điều kiện, Bộ sở quan cố kiếm người miền Trung. Khối nỗi, người cùng miền với ông thường bị ông biết rõ quá, nên có khi bị gạt bắn. Một trường lớn muốn xin bổ giáo sư, đệ danh sách bốn vị, không có Bắc, chỉ có hai Nam và hai Trung, chắc ông phải bằng lòng? ‘’Cái thằng nớ ở Huế chỉ biết chơi chó Tây, dạy dỗ chi!’’
Nhưng dụng ý của ông là một chuyện, thực tế lại là chuyện khác, nên rồi ông phải đi ngược đường mình. Ông muốn tránh mọi sự kỳ thị, nhưng sau vài lần thất bại, ông không còn dám cử người miền này điều khiển các tỉnh miền kia. Ông sợ phân biệt, mà bị trách là phân biệt mạnh. Nhiều nhân viên Bắc oán ông, vì cho là ông coi rẻ họ, mặc dầu trong thực tế, họ giữ đa số chức vụ điều khiển từ cấp chủ sự trở lên, chính họ, và cả ông cũng chỉ biết rõ tình trạng này sau cuộc điều tra 1958. Anh em miền Nam thì lại có cảm tưởng là ông ưu đãi các nhân viên Trung và Bắc, và chẳng thiếu gì người không tha thứ cho ông việc bãi bỏ Tòa Đại Biểu Nam Phần, khi các Tòa Đại Biểu Cao Nguyên và Trung Phần vẫn được duy trì; đối với một số cao cấp, không khác nào ông đã xóa Nam Việt trên bàn đồ Việt Nam, tuy thực ra ông chỉ muốn giản dị hóa tổ chức hành chánh, vì tại Sài Gòn đã có Bộ Nội Vụ do Bộ Trưởng người Nam đảm trách: Dù sao, để trấn an dư luận, ông đặt ra các Tòa Đại Biểu Miền Đông và Miền Tây, lấy hai đền một để mọi người thấy rằng ông chỉ đổi một thành hai...Còn người miền Trung trách ông quên cả cố lý, chỉ chú trọng đến Nam và Bắc, nên Trung Phần cứ chịu thiệt thòi về nhiều phương diện. Phải chăng vì thế mà một hôm ông ra lịnh họp bàn cấp tốc và lập gấp Chương Trình Phát Triển Kinh Tế Miền Trung?
Có lẽ ông đã quên hay lầm, khi chính tay ông chia lại các địa giới, thay đổi diện tích và danh hiệu nhiều vùng: Ông vẫn giữ các Phần, khi Phần chẳng còn lý do tồn tại như xưa. Các phương tiện hàng không và viễn thông cho phép liên lạc dễ dàng mau lẹ với Trung Ương, và mọi vấn đề quan trọng vẫn phải trình lên cho ông quyết định. Dù sao, muốn chế hóa đầu óc địa phương, ít nhất phải bắt đầu bằng cách bỏ hẳn cấp Phần và chỉ giữ cấp Tỉnh.
Trong hai năm đầu, ông Diệm còn bỡ ngỡ vì trót xa chánh quyền quá lâu ngày, nên ông để một ít người thân giới thiệu giúp nhân viên cần thiết.
Ở giai đoạn này, ảnh hưởng của ông Ngô Đình Luyện rõ rệt hơn của ông Nhu. Ông Luyện vốn là kỹ sư và khuyến cáo được ông Diệm đặt nặng vấn đề trang bị, kiến thiết và kỹ thuật. Bởi vậy, các kỹ nghệ được trọng dụng, ở cả những chức vụ Tài Chánh Kinh Tế, đến nỗi nhiều người trong chính giới thì thào với nhau: Đây là thời kỳ oanh liệt của Pouts (Kiều Lộ) hay Centrale (Công Nghệ). Nguyên tắc được chánh thức chấp nhận về việc đào tạo nhân tài, là huấn luyện chuyên môn, và sinh viên chỉ được đi du học nếu chọn các ngành kỹ thuật. Chuyên viên ở ngoại quốc về, được hưởng nhiều sự dễ dãi về cấp bậc, lương bổng, nhà cửa...nên từ 1957, một số khá đông đã chịu hồi hương, và tới nay đã đủ kinh nghiệm để thành người điều khiển tối cần.
Trong khi đó, sự củng cố chế độ là mối lo lớn nhất của Cố Nhu. Chính sách nhặt sắt vụn của Cố được áp dụng để cung cấp cho chính quyền những phương tiện nhân sự không có không xong. Nhưng trên lãnh vực chánh trị, quan điển của Cố còn vượt tất cả các yếu tố và nhu cầu kỹ thuật. Một Bộ Trưởng, chuyên viên ưu hạng, phải từ chức khi tỏ ra khuynh hướng biệt lập. rồi chuyên môn hay không chuyên môn, ai càng thân Pháp cũng phải dứt bỏ liên lạc với Pháp; công chức có quốc tịch Pháp phải trở về Việt tịch, trả lại các chức vụ chỉ huy, hay bị loại khỏi các ngạch quốc gia. Sau vụ biến cố Bình Xuyên 1955, sự điều tra về nhân viên mọi cấp mỗi ngày một tỉ mỉ hơn.
Song trên địa hạt nhân sự, Cố Vấn Nhu phải chia thế lực với Chỉ Đạo Cẩn. Cố được nghe nhiều hơn ở Trung Ương, khi kén Bộ Trưởng, Tư Lệnh Quân Đội, cao cấp Ngoại Giao, và nhất là Dân Biểu. Đối với toàn thể nhân viên, ảnh hưởng của Cố nhiều hiệu quả, hễ Cố muốn giữ ai, thì ông Tổng Thống không nỡ ruồng bỏ dù vẫn không ưa. Chỉ Đạo Cẩn được túy ý chọn và đuổi ở miền Trung, rồi ở Cao Nguyên, về sau ở cả vài cơ quan tại Sài Gòn.
Vì hai người xung khắc về nhiều phương diện, đôi khi đã xẩy ra sự va chạm, khiến những kẻ biết chuyện lo ngại thấy tái diễn trò cạnh tranh gây cần của Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ, Kỳ tay, trong một huấn từ nhân dịp tất niên, ông Tổng Thống khuyên nhủ thành tín, mà không hiểu vì sao ông đã nhắc đến những chữ chiêu bài ‘’Thiên hạ đại tín’’ của triều Tây Sơn? Phải chăng ông đã gián tiếp ví anh em ông với anh em Nguyễn Nhạc? Có lẽ vì hai bên đều lật đổ Nhà Nguyễn Phúc, và đều chia xẻ quyền hành?
Ông Diệm đứng giữa cầm cân, phải lựa ý mỗi người ruột thịt, tất nhiên gặp nhiều lúc khó xử. Ông Nhu bệnh thì ông Cẩn chống và ngược lại. Có nhân viên thoát khỏi đe búa, chính vì được Chỉ Đạo buộc lỗi; ông Cẩn theo báo cáo của cận vệ, kêu rằng ở trong Phủ có kẻ hay gắt sằng và rất khó tính, phải cho y đi nơi khác; ông Nhu nói ông Diệm: Để hắn đấy, hắn thẳng thì hắn nóng. Một sĩ quan được Chỉ Đạo tiến cử, giữ chức vụ cao ở Sài Gòn, nhưng thỉnh thoảng ra Huế phàn nàn về nhiều sự khó khăn và yêu cầu can thiệp để có phương tiện hoạt động, Cố Vấn giận lắm: Muốn ra Trung, thì cho ra hẳn, đứng trở về đây nữa!
Tình trạng căng thẳng giữa hai người đã gây phiền nhiễu cho khá nhiều đệ tam nhân. Một cán bộ do Cố giới thiệu, được bổ nhiệm ra một tỉnh miền Trung; ông Cẩn hỏi: ‘’chắc người ta cho mi tới dò thám ta?’’ Đương sự vội vàng quặp chân lên cổ mà cao bay xa chạy về Sài Gòn cầu cứu. Một Giám Đốc ở Thủ Đô bị Chỉ Đạo bắn tin trách: Biết chơi hai trăm thứ lan mà không nghĩ đến ‘’Cậu!’’ Anh ra rất lo lắng, nhưng nếu đột nhiên đem cây đi cung tiến, thì không khéo lại bị Cố ghét; anh đành xin Bộ Trưởng một sự vụ lịnh công cán vài ngày ở Huế, rồi nhân dịp này đem đầu tạ tội và kính dâng mấy chậu xum xuê...
Ở nhiều trường hợp, ông Tổng Thống chấp nhận sự đề bạt của thân nhân, không hẳn vì muốn chiều lòng họ, nhưng vì ông cần tin và có thể tin. Ông đòi hỏi trước hết sự trung thành tuyệt đối, nhưng ông quen biết ít, đành ỷ vào sự đảm bảo của những người được ông tín nhiệm. Thái độ này có khi làm phiền cả Cố. Một bận Cố thuận lại cho ông: ‘’Hắn nói hắn nghe Tổng Thống dạy, hắn kinh sợ lắm, hắn quả quyết bảo leo cây hắn cũng leo, bảo làm loong toong hắn cũng làm...’’ Ông bèn cho một chức cao và còn cho lên khá mau, có biết đâu Cố chỉ mỉa mai. Chứng cớ, là sau khi thấy đương sự được ân sủng, Cố than với một Bộ Trưởng: ‘’Mình nói vậy, mà ông ấy tưởng hắn làm nổi việc gì, vâng dạ là cùng...’’
Từ 1956 trở đi, mỗi khi cần người, ông Diệm hay xét định lấy.
Ông nhớ rằng bao lâu ông sống bên lề chính giới, nên cần tìm cách quen biết nhiều hơn để đỡ phải nhờ cậy trung gian.
Ông chỉ thị cho những người phụ trách Công Vụ: Phải thu thập sẵn sàng tài liệu cho ông, và mỗi khi hỏi về nhân viên nào, phải trình bày thật đầy đủ về mọi phương diện. Có lần muốn chọn một người làm Đại Biểu Chánh Phủ, ông hỏi cấp hữu trách:
- Ông nớ con ai?
- Con ông X.
Ông quắc mắt:
- Người ta hỏi con bà thứ hay bà cả? Không biết ông thân sinh hắn nhiều vợ à?
Nhu cầu dò xét để lựa chọn, là một trong những lý do khiến ông hay kêu thẳng nhiều cấp dưới lên cật vấn về công việc, và nhân thể coi tướng mạo từng người. Ông rất chú ý đến bề ngoài của nhân viên được tiếp. Một bận ông triệu một sĩ quan vô, nhưng vừa trông thấy, ông giơ tay bảo đi ra, đương sự tỏ vẻ ngạc nhiên, nhưng được một tùy viên trong Phủ gọi lại giải thích: ‘’Cụ dạy lần sau nhớ lau giày sạch bùn sạch bụi.’’ Thực ra, ông còn bảo: ‘’Bản thân hắn, hắn còn không lo tươm tất, thì công việc của hắn tươm tất làm sao?’’ Bận khác, ông không chấp nhận một giáo sư được tiến cử để tổ chức về văn hóa, không phải vì lẽ thiếu năng lực hay đức hạnh, nhưng vì ‘’coi bộ lừ khừ như ông Từ giữ đình, văn hóa gì mà hom hem quá...’’ Ông tin rằng diệu mạo phản chiếu nhân cách, nhưng khi áp dụng lý thuyết này, chắc đâu ông đã xét về nhiều bộ mặt? Chính ông đã hai lần trách một người: ‘’coi mặt thì lành mà đầu óc cứ ngang cua!’’
Một khi đã chọn được rồi, thì ít khi ông muốn thay đổi. Ông thường dặn một nhân viên cao cấp; thay đổi nhiều, chẳng hóa ra mình cứ chọn lầm hay sao? Nghĩa là ông cố tin vào sự xét đoán sáng suốt của ông. Chắc vì thế, mà không thiếu những người được dung thứ cho tồn tại, tuy bị nhiều kẻ chê trách. Sự chê trách chỉ nguy hiểm khi xuất phát từ Cố Vấn, từ Chỉ Đạo hay một thiểu số được ông hoàn toàn tín nhiệm. Nhưng trái lại, hễ Cố Nhu bênh - mà Cố thường hay bênh - thì ông có thể đổi hẳn ý kiến về mỗi cá nhân, được coi là xấu thì bỗng dưng thấy tốt, và cả nỗi ngờ vực về phương diện chánh trị cũng có thể tiêu tan. Cố Nhu xác nhận: ‘’Hắn chẳng Đại Việt hay Việt Quốc chi hết,’’ thế là Tổng Thống thấy hắn hiền lành ngay, rồi còn khen là ‘’cũng có gia giáo.’’ Có khác nào một chàng trai si mê nhìn bằng con mắt của người yêu?
Ngoài sự xem mặt, ông còn lối thử thách khác, như của người kén rể kén dâu. Ông nghe nói là khá, kêu lên ngắm và hỏi, rồi giao cho một vài công tác, dù việc không thuộc nhiệm vụ hay không hợp với khả năng, cốt để xem xử sự thế nào. Một viên chức cao cấp về Tư Pháp, được vời và cử đi dự những hội nghị quốc tế chẳng liên quan gì đến kiện cáo án từ. Chắc là sắp được thăng đây? Anh ta cố làm tròn việc không quen, ông Tổng Thống hài lòng về anh, hay đúng hơn thì về ông, vì ông thấy mình có con mắt tinh đời: Bèn cho một Bộ.
Sự dùng người đúng chỗ hay không, còn tùy kết quả đối với công vụ. Về phương diện này, chính ông nhiều lúc phải thở dài, nhưng chẳng rõ ông có nhận là mình lầm, hoặc chỉ bực mình vì thiếu người hay, nên đành chịu đựng người dở? Thảng hoặc ông gặp được người hoạt động như ý, thì ông lại có lối trọng dụng rất nguy hại cho cả đương sự: Nếu làm nổi một việc, thì về sau cứ bị giao hoài việc đó, nghĩa là phải nhận một thứ độc quyền, dẫu chán ngẫy cũng chẳng được từ. Bởi thế, một công chức kỳ cựu đã ví ông với một hạng bà già miền Nam, hễ nàng dâu nào biết têm trầu hay pha trà, thì chỉ nàng dâu đó bị sai mãi, dù các nàng khác ngồi không. Hơn nữa, ông còn buộc phải lãnh một, hai ba bốn chức vụ khác, đến nỗi người đắc lực tối tăm mặt mũi. Đâu phải là vô tình? Ông đã dặn dò một cộng sự thân tín: Phàm dùng người, thì hễ thấy khá, phải tận dụng, xem sức hắn tới đâu, và giao việc cho đến khi nào không thể kham nữa. Nên có ông Bộ Trưởng đã ôm nhiều Nha Sở mà còn phải đèo cả Nội Vụ hay Quốc Phòng, có Tổng Giám Đốc phải gánh năm bảy Hội Đồng Quản Trị những cơ sở kinh tế đáng chia cho nhiều vị khác. Có người đủ khả năng mà chính năm không hề được công cán lần nào tại nước ngoài, trong khi vài đồng sự cứ bị phái đi mỗi năm dăm bảy bận để dự hết hội nghị này đến hội nghị khác. Lý do chính yếu, là ông Tổng Thống tìm được kẻ đáng tin, thì cho là hy hữu quá, không muốn thay đổi và ngại vớ phải người dở, nên đành bấu chặt vào một thiểu số hiếm có đã tỏ ra thạo việc.
Ông không có ý niệm gì về sự phân công cùng những giới hạn của năng lực cá nhân, nên hay bắt kiêm nhiệm, và còn tin rằng việc khó khăn hoặc mới lạ đến đâu cũng có thể làm, miễn là có chí. Ông đem một số Kỹ Sư Công Chánh về Phủ, lập Ban Chuyên Viên. Ai cũng tưởng ông muốn dùng kinh nghiệm của các vị này để xúc tiến công việc tạo tác. Nhưng một hôm, ông kêu một người lên bảo. Phải năng coi sóc, xem việc có mau lẹ không, và chớ quên qua bên Bộ...Ngoại Giao. Đương sự rất ngạc nhiên, xin đi thăm các công trường, còn các việc Ngoại Giao thì xin miễn, vì chưa từng biết bao giờ...
- ‘’Không biết thì phải học, muốn học thì rồi biết. Tôi có học làm Tổng Thống bao giờ?’’
Chỉ quen đắp đê, lát đường, xây đập từ mười lăm năm nay, mà bỗng phải đi học luật quốc tế và chính trị quốc tế, thì kể cũng đáng ngại...Ông kỹ sư đành cầu cứu Bộ Trưởng trong Phủ, xin can thiệp giải nguy để cho trở về với gạch đá và bê tông.
Như thế, nếu chỉ một mình ông tự ý tuyển dụng, thì chắc chế độ do ông sáng lập chẳng để lại được gì...Cũng may là ông chú trọng nhiều hơn đến các lãnh vực chánh trị và hành chánh địa phương, ở đây, không mấy người chịu ông, nếu căn cứ vào các thành quả. Song ở các địa hạt văn hóa, kinh tế và kỹ thuật, ông can thiệp ít, để quyền lựa chọn cho các cấp hữu trách và thường chấp thuận sự đề cử. Nên một số khá đông người tạo việc được dùng, và hầu hết các cơ sở do họ kiến thiết vẫn còn lại đến ngày nay, các trường học, khu kỹ nghệ, các xí nghiệp hợp doanh hay quốc doanh v.v...
Ông bị oán nhiều vì có tiếng là nghiêm khắc đối với giới công chức. Ông đòi hỏi nhiều và gia ơn rất ít. Các danh sách và đề nghị thăng thưởng của các ngạch trên, thường bị ông bỏ mặc, có khi vài năm chưa xét. Thấy tên mấy nhân viên văn phòng ông được tư lên bậc, ông bảo. Đã được làm việc cạnh tôi, lại còn tăng thưởng gì nữa? Sự cử nhiệm sĩ quan thay thế dần dần các cấp hành chánh để điều khiển các tỉnh rồi các quận, nói lên rất mạnh sự thất vọng của ông đối với hạng nhân viên chuyên việc cai trị. Ông thường phàn nàn: Họ chỉ cầu an. Ông đã tâm sự với một giáo sư Mỹ; chế độ thực dân chỉ để lại được cho ông ba người biết việc, là các ông N.N.T., Đ.V.C và V.T.H. ngoài ra không đáng kể, chẳng lẽ bỏ không dùng.
Số người bị loại trừ hay trừng phạt trong chín năm chưa tới 1.000 trên 130.000 công chức và cán bộ. Đối với một số cao cấp bị thất sủng sau một hồi được trọng dụng, hình như ông không muốn đoạn tuyệt, và lẳng lặng mở đường ngoi trở lại cho những ai hiểu được ý ông. Vài người bị hạ tầng công tác, không được ông hỏi han nữa, và còn bị theo dõi. có người cố tỏ ra ăn năn tội lỗi, hay than thở với chúng bạn: Mình được ông Cụ dùng, thật là thiên tải nhất thì, mà làm hỏng việc, quả đáng buồn, mình không xứng đáng thì ông phải cho xa ông, chứ ông vẫn thương mình...chẳng rõ đương sự có khả năng kịch nghệ hay không, nhưng câu chuyện đến tai bề trên. Bề trên không nói gì, song vài tuần sau nghĩa là hơn một năm sau khi nổi đóa, cho vời kẻ bị giận và cho một chức vụ cao.
Đã có vài trường hợp như trên, nên người tinh khôn rút liền bài học. Một vị đã từng lãnh trọng trách, chẳng may mắc lỗi và bị cất chức về đợi lịnh ở một cơ quan: Ông ta đã tưởng là được yên thân. Nhưng ba bốn tháng sau, ông Tổng chợt nhớ tới, và giao phó cho một trách vụ vô cùng...nặng nhọc mà trước đó chưa một người nào nghĩ đến, xếp lại hàng vạn tập hồ sơ cũ rích chất lâu năm trong một kho đen tối mốc ẩm, và theo chỉ thị, thì cứ mỗi tuần phải phúc trình kết quả. Những người biết chuyện đều lo lắng rằng ông ta phẫn uất...Song với một lòng nhẫn nại có thể thi gan với Câu Tiễn nước Việt dưới tướng Phú Sai, ông ta lặng lẽ bới, rũ, lựa, quét, buộc, hút bụi, ghi sổ và bảy ngày một lần đệ đơn trình đúng hạn. Nửa năm sau, ông ấy thưa lên đã hoàn thành nhiệm vụ và cung kính chờ lịch cấp trên với tâm thành tri ân bất tận.
Ông Tổng Thống bật cười:
- Có ghét bỏ gì hắn đâu? Thử xem sao đó thôi. tình cho hắn một chức gì...
Không phải chỉ có mấy ông Tàu thuở trước mới dùng khổ nhục kế.
Ở con người ông Ngô Đình Diệm, quả là có những sự khó hiểu. Nên tôi thường nhớ lại danh từ dị nhân mà bạn S. đã muốn gán cho ông, duy tôi còn chờ đợi nhiều chứng minh hơn nữa. Điều chắc chắn, là ở nhiều trường hợp, tôi không thể quyết đoán về ông.
- Tại sao để râu?
Ông Tổng Thống chau mày hỏi một nhân viên có ria mép và thường phải gặp ông về việc hàng ngày.
Đương sự không biết trả lời thế nào, phần vì lời chất vấn quá đột ngột, phần vì nguyên nhân của tình trạng lún phún cũng chưa từng được nhận thức rõ ràng.
Dù sao, anh ta cho là mình làm chướng mắt bề trên, nên vội về cạo tuột. Vài hôm sau, anh lại tới trình việc.
Ông Diệm nghiêm nét mặt hỏi:
- Vì sao cạo râu?
Nhà cầm quyền ở nhiều xứ và nhiều thời thường phàn nàn là ít khi mình được hiểu. Song ở trường hợp ông Diệm, sự thiếu thông cảm chắc không do lỗi người chung quanh.
Càng chú ý đến ông, tôi càng thấy lạ, vì ông có những cử chỉ và những phản ứng không ngờ.
Một dự thảo nghị định được đệ trình lên ông. Ông liếc qua, cau mặt và hạ ngay bút xuống: Hỏng rồi, chắc ông bác bỏ, có lẽ người được đề cử đã phạm lỗi gì mà riêng ông biết rõ?
Nhưng ông coi lại dự thảo, rồi ký và bảo:
- Tên chi mà lại là Bắp! Bắp thì nghe sao được? Cao cấp mà là Bắp! Kêu hắn đổi quách tên đi.
Lịnh này không cần theo vì sau đó ông sớm quên, vả chăng được sự cũng có thể nài van nếu cần, để xin giữ lại chú kỷ niệm quý báu nhất mà các cha mẹ chỉ ban cho con một lần trong đời...Dù sao, tôi cũng ghi nhận một khía cạnh khác người của ông Tổng Thống, và việc xảy ra cắt nghĩa cho tôi vì sao ông thích thay đổi những tên gọi địa phương như Budop hay Sadec.
Có lần, một Bộ Trưởng vừa ăn cơm trưa xong, định ngả lưng nằm nghỉ, vì nắng Hè gay gắt; vừa chợp mắt thì người nhà hớt hãi bảo Tổng Thống kêu điện thoại gặp. Ông Bộ lật đật chạy ra nghe, chắc có việc gì khẩn lắm...
- Ông có mấy con?
- Dạ, bốn cháu.
- Mấy tuổi?
- Thưa, từ năm đến mười hai.
- Biểu bận đồ sạch sẽ, cho vô đây liền.
Cả nhà ông Bộ luống cuống sửa soạn cho lũ trẻ, rồi mười lăm phút sau, ông dẫn đàn hậu sinh vào Dinh bái kiến. Mấy đứa nhỏ rụt rè sợ hãi, không biết sẽ xẩy ra chuyện gì.
Thì ra Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, quần chùng, áo the, dép da, đợi sẵn chúng từ nãy; ông giơ máy ảnh chụp và cười khà khà:
- Coi được đấy, pose này khá lắm!
‘’Người’’ có vẻ đắc ý, lách tách bấm một hồi, rồi ơn trên ban bánh ngọt: Đố biết lũ trẻ hay chính ông, ai khoái hơn? Chỉ có ông Bộ là phải một phen hồi hộp, vừa bực mình vì mất giấc trưa, vừa sửng sốt về một sự chỉ có trời họa may mới biết trước.
Câu chuyện kể trên đây không làm cho tôi buồn cười, trái lại, tôi thấy có gì như não nề.
Tôi nhớ lại những lúc ông cho gọi mấy con nhỏ của Cố Nhu qua phòng riêng để vuốt ve và hỏi han.
Ông không biết chơi với ai, nhiều hôm phải ra tận bờ sông Sở Thú chơi với con chồn.
Nhiều bận, tôi thấy ông một mình trơ trọi, trong Dinh vắng vẻ, khi mọi người đã ra về hết. Tiếng quạ kêu trên rặng cây già cỗi, càng tăng hiu quạnh trong vườn im lặng.
Phải chăng vì cô độc quá, nên ông không thể rời được ông Nhu và vợ con Cố Vấn? Và biết đâu tình trạng này không gây những hậu quả khó lường cho thân thế và sự nghiệp của ông? Giả thử lúc nào ông cũng sẵn một bầy năm sáu tuổi để thương yêu và chụp ảnh, không chừng cục diện đổi khác phần nào?
Những việc tầm thường trước mắt đã kích thích sự tìm hiểu của tôi hơn cả đường lối của một Tổng Thống, vì đường lối này dễ nhận hơn con người phức tạp của một Ngô Đình Diệm. Đối với tôi, không những ông là một nhà cầm quyền phải là đích cho mọi sự khen chê, nhưng còn là một hiện tượng tâm lý mà tôi mong nắm được ít nhiều trạng thái, để soi sáng cho sự phán đoán của tôi về sau này, giữa bao luống dư luận trái ngược.
Khốn thay, tôi càng để ý càng thấy khó hiểu.
Làm việc lâu năm với ông, không có sự gì đáng trách, nhưng ông vẫn coi như chẳng hết lòng, chỉ vì không biết nói năng cho vừa ý ông. Song ông lại tỏ ra rất dễ tin, tin rằng ca ngợi ông là hiểu biết ông, có khi là ‘’cũng hiểu chánh trị’’. Hẳn là ông ưa lời đường mật. Ấy thế mà có lần ông bảo thuyên chuyển một nhân viên đã được ông tín nhiệm, chỉ vì lý do ‘’nó hay nịnh hót.’’
Một cao cấp bị tố là có ý chống đối, nên bị chấm dứt nhiệm vụ. Rồi vài năm sau, hễ nghe hay đọc thấy tên, là ông càu nhàu: ‘’Sao còn cho hắn ngồi làm việc công sở?’’ Có thể kết luận rằng nếu đã bị coi như đối lập, thì đừng trông mong gì ở tình cảm của ông? Nếu vậy thì còn giản dị quá. Một quân nhân từng được ông ân sủng, đã cùng nhiều người khác nổi dậy chống ông. Ông bảo người chung quanh: ‘’Hắn bị xúi giục đấy thôi, hay bị đánh lừa nên mới lầm lỡ chốc lát.’’
Một nhân viên trong Phủ, hàng ngày trình việc lên ông, mắc bệnh vì làm nhiều mệt quá, phải nghỉ liền mấy tháng mà chẳng được ông gửi một lời thăm hỏi: Vô tình đến thế là cùng? Một vị khác, tuy không được ông quý mến hơn, chẳng may góa vợ. Ông bùi ngùi bảo: ‘’Ông đã có tuổi mà bà ấy mất đi, thì nay ông trông nom được cho ông?’’
Công chức hai mươi lăm năm thâm niên, phạm lầu đầu một lỗi không quá nặng, bị cách tuột, xin giảm phạt để lập công chuộc tội và nuôi mẹ già tám mươi tuổi cùng mười con thơ dại đơn nộp ba lần, ba lần bị bác; nhiều người thấy sự nhẫn tâm. Một Bộ Trưởng sắp bị ông cho về, nhưng chợt có tang gần được ông lưu lại: ‘’thôi, khoan thay đổi, người ta đang buồn.’’ Nên khi một Tỉnh Trưởng sắp bị cắt chức, có người trình ông rằng đương sự vừa có đứa con tử nạn; ông bảo ‘’Hãy cho hắn ngồi đó ít lâu’’ Ít lâu, là chừng một năm thì phải.